Từ hôn

Chương 1: TRONG CHỢ ÐÊM



Cuộc chợ đêm Sài Gòn đã mở cửa bữa trước rồi, mà tối bữa sau mới 7 giờ, mấy nẻo đường vòng theo chợ thiên hạ nườm nượp, kẻ ngồi xe, người thả bộ, đổ vô mấy cửa, riu riu như bị gió đùa, cuồn cuộn như dòng nước chảy.

Tại cái cửa lớn, người ta tụ lại chật nứt, trai chải đầu láng nhuốc, gái thoa môi đỏ lòm, già ngậm thuốc điếu phì phà, khói bay tưng bừng, mẹ dắt bầy con, đứa chạy trước nghênh ngang, đứa theo sau núc ních, kêu nhau inh ỏi. Tốp chen lấn mua giấy, tốp ùn ùn vô cửa, người mặc y phục đàng hoàng chung lộn với kẻ bình dân lao động không ái ngại chi hết, mà coi ra thì trên gương mặt mỗi người đều có vẽ hân hoan hớn hở, vì ai cũng biết chắc trong giây phút nữa đây sẽ được xem xét thấy nhiều cuộc vui để thỏa chí háo kỳ, hoặc để tạm quên các sự khổ cực của loài người trên trần thế.

Ở trong chợ đèn điện đốt sáng trưng, lại thêm máy nói cất giọng ồ ề rao hàng om sòm, làm cho thiên hạ càng rộn rực chen nhau mà vô riết, dường như sợ vô trễ một chút rồi giảm bớt sự vui nhiều lắm vậy. Cậu Châu Tất Ðắc mình mặc đồ âu phục bằng nỉ màu xám có sọc đen, may thật khéo, đầu không đội nón, tóc uốn quăn, chưn mang giày bố trắng mũi da vàng, cậu mua một miếng giấy rồi cậu thấy thiên hạ náo nức giành nhau mà vô cửa, thì chúm chiếm cười. Cậu để tự nhiên cho dòng nước người đưa đẩy cậu vô cửa, rồi cậu chấp tay sau đít, thủng thẳng đi ngay tới hoài, mắt ngó mấy gian hàng hai bên, đi mà không định đi đâu, ngó mà không để ý đến chỗ nào.

Nam thanh nữ tú dập dều, hàng hoá dọn gian nào cũng đẹp, nhưng mà cậu Tất Ðắc ngơ ngáo như đi trong đống cát, gặp gái đẹp không vui, mà thấy đồ tốt cũng không khoái. Cậu đi mút khúc đường ngay đó, rồi mới quẹo qua khúc đường khác, thì có một người đờn bà, trạc[1] chừng 35 tuổi, cao lớn mà không dông dãy[2], mình mặc một bộ đồ lụa trắng, tay cầm một cái bốp da vàng, dừng ngay trước mặt cậu và cười mà hỏi rằng: “Cậu đi đâu vậy hử?”

Tất Ðắc thấy cô Cẩm Hương là người gốc ở một tỉnh với cậu, hồi trước cô làm nữ giáo sư, vì cớ gì đó không rõ mà xin từ chức rồi bây giờ đương cai quản một trường tư kêu là “NỮ HỌC HIỆU” tại chợ Cầu kho, thì cậu cũng cười và đáp rằng:

–        Vậy chớ chị đi đâu đó mà chị hỏi tôi?

–        Tôi có dọn một gian hàng để bán đồ nữ công trong hội chợ, nên tôi phải vô mà coi sóc chớ phải tôi thả rều[3] cả ngày, rồi thả thâm[4] tới ban đêm như cậu vậy sao?

–        Chị mới bị kỳ đà níu chưn nên chị không thả rều nữa được, chớ hồi trước chị giỏi gì hơn tôi.

–        Cậu là quỷ. Kỳ đà ở đâu?

–        Kỳ đà dưới Trà Vinh đó.

–        Ối, khéo nói xàm[5] hoài! Chồng của người ta mà sao lại kêu là kỳ đà[6]?

–        Hử? Chồng … Chồng … Chị có biết “chồng” là nghĩa gì hay không mà chị dám dùng tiếng ấy.

–        Ê! Ðừng có nói điên nào! Chồng là chồng chớ chồng nghĩa là gì.

–        Không. Tôi hỏi thiệt chớ. Chị làm bà Ðốc học mà chị cắt nghĩa chữ “chồng” không được, thì tôi kêu là kỳ đà chị không được phép rầy tôi.

–        Thôi, để tôi cắt nghĩa chữ “chồng” cho cậu nghe. Chồng là một người đờn ông, hoặc trẻ, hoặc già, vì thương yêu một người đờn bà nên kết tóc trăm năm với người đờn bà ấy, lại lo nuôi dưỡng người đờn bà ấy trọn đời. Tôi cắt nghĩa vậy đó cậu chịu hay chưa?

–        Chưa chịu.

–        Tôi cắt nghĩa như vậy mà không chịu, thôi cậu giỏi thì cậu cắt nghĩa cho tôi nghe đi.

–        Chị cắt nghĩa chữ “chồng” mà chị bỏ sót mấy tánh chất quan trọng nhứt của chữ đó nên không đủ ý nghĩa.

–        Sót cái gì?

–        Sai điều gì chị không biết hay sao. Thôi để tôi giải nghĩa chữ “chồng” lại cho chi nghe. Chồng là một người đờn ông, hoặc trẻ hoặc già, vì thương yêu một người hoặc con gái, hoặc đờn bà, muốn kết tóc trăm năm với người ấy, nên cậy mai dong[7] nói dùm mà cưới, có rước chánh lục bộ lập tờ hôn thú theo luật, rồi trọn đời phải nuôi dưỡng bảo bọc người vợ luôn luôn. Chị bỏ sót đám cưới và hôn thú.

–        Ối! Cậu đi Tây học sáu bảy năm mà cậu chưa mở trí, cậu còn thủ cựu quá! Ðời nầy người ta tấn hoá nhiều lắm rồi, hễ đờn ông với đờn bà thương nhau nếu không có điều chi trở ngại, thì người ta kết làm vợ chồng, cần gì phải làm đám cưới, cần gì phải lập hôn thú. Cậu còn quê quá.

–        Chị muốn nói theo cái thuyết “tự do kết hôn” thì tự ý chị, tôi không cản. Nhưng mà tự do kết hôn là đờn ông thong thả mà chọn lựa người vợ theo ý muốn, song bề nào cũng phải lập hôn thú thì mới kêu là chồng, là vợ được, chớ nếu không có hôn thú thì người ta kêu đờn ông là “kỳ đà”, đờn bà là “mèo” chị hiểu chưa?

–        Ðừng nói xàm! Cái gì mà “kỳ đà”.

–        Vậy chớ chị nói người ở Trà Vinh đó là chồng chị hay sao?

–        Ừ, chồng của tôi đó đa.

–        Nếu chị nói người đó là chồng thì tôi xin giải nghĩa chữ “chồng” của chị như vầy: “Chồng là một người đàn ông có vợ có con rồi, có điền đất lớn, vì thương yêu một người đàn bà xinh đẹp và lanh lợi, nên giúp vốn cho người ấy đôi ba ngàn làm ăn, mỗi tháng tới thăm một hai lần, mỗi lần ở năm ba bữa, chừng về cho một hai tấm giấy xăn[8]. Ðó, chữ “chồng” của chị nghĩa như vậy đó phải không?

–        Cậu quỉ nầy cứ kiếm chuyện hoài! Thôi, bỏ chuyện đó đi. Tôi hỏi vậy chớ cậu đi đâu, sao cậu không trả lời?

–        Tôi thả rều cũng như chị bây giờ đó, chớ biết đi đâu mà nói.

–        Tôi nói tôi vô chợ đặng coi sóc gian hàng của tôi, chớ có phải tôi thả rều như cậu vậy đâu.

–        Gian hàng của chị ở đâu?

–        Kia kìa. Ði hết khúc đường nầy, quẹo qua tay trái, tới ngả ba quẹo qua tay mặt nữa là gặp gian hàng của tôi.

–        Dữ hôn! Gian hàng của chị đằng kia, còn chị đi lêu khêu đằng nầy, cách mấy trăm thước, mà chị dám nói chị vô đây đặng coi sóc gian hàng chớ. Thế khi con mắt của chị có điện vô tuyến hay sao mà chị coi xa dữ vậy?

–        Thiệt cậu là quỉ, nên hễ cậu gặp tôi thì kiếm chuyện kích bác tôi hoài.

–        Tại chị rầy tôi thả rều, nên tôi phải vạch cho chị thấy rõ chị cũng như tôi chớ.

Cô Cẩm Hương cười ngất. Cô ngó y phục của cậu Tất Ðắc rồi cô lại nói rằng:

–        Cha chả! Bữa nay đi coi chợ đêm, diện bộ đồ tốt dữ!

–        Ê! Chị đừng có khen vội, phải hỏi đi hỏi lại rồi sẽ khen.

–        Hỏi cái gì?

–        Phải hỏi coi đồ của ai đã.

–        Tôi thấy cậu bận đồ tốt thì tôi khen cậu chớ hỏi ai bây giờ.

–        Tuy đồ tốt, nhưng mà không phải đồ của tôi. Bộ đồ nầy là của anh em bạn tôi, ảnh đi coi hôm qua, bữa nay ảnh ở nhà, nên ảnh cho mượn bận, tôi đi đây.

–        Ê! Chuyện như vậy mà nói om sòm không sợ người ta nghe người ta cười hay sao?

–        Ủa! Cười cái gì, tôi không có đồ, tôi mượn đồ của anh em tôi bận, có chi đâu mà cười. Tôi mượn, chớ tôi ăn cắp ăn trộm gì hay sao mà xấu hổ.

–        Cậu cứ vậy hoài không biết tới chừng nào cậu mới chịu đổi tánh nết!

–        Ðổi chi vậy?

–        Phải sửa tánh nết theo thiên hạ, đặng ở đời cho hợp với người ta chớ.

–        Tánh nết của thiên hạ khác hơn tánh nết của tôi hay sao?

–        Ai mà tánh nết dị kỳ như cậu vậy!

À, nếu tánh nết của thiên hạ khác hơn tánh nết của tôi, thì chị phải biểu thiên hạ sửa lại mà ăn ở giống theo tôi, chớ sao chị biểu tôi sửa. Chị lấy bằng cớ nào mà chị dám quả quyết tánh nết của thiên hạ tốt, còn tánh nết của tôi xấu. Tôi mượn áo quần tôi bận, tôi nói tôi mượn, tôi không sợ ai mà giấu giếm. Còn họ cũng mượn mà bận như tôi, song họ lại làm phách, đi ra đường họ vinh mặt vinh mày, khoe khoang đồ của họ tốt, chị nghĩ thử coi cử chỉ của tôi phải, hay của thiên hạ phải? Nè, xin chị hiểu dùm, những đồ gì, vật gì mình dùng, mà không phải sức mình làm cho có tiền – và làm có tiền một cách chánh trực – mà mua, thì đều là đồ mình mượn hết thẩy, lại có khi là đồ của mình ăn trộm hoặc ăn cướp nữa, chị biết hôn?

–        Nói như vậy, hèn chi chúng ghét phải lắm.

–        Ai ghét tôi đâu?

–        Tôi ghét cậu.

–        Sao mà ghét?

–        Hễ mở miệng thì nói giọng khinh thế ngạo vật, nên tôi ghét chớ sao?

–        Vậy chớ phải nói thế nào chị mới thương? Thôi để tôi nói như vầy: Em kính chào bà đốc trường Nữ Lưu học hiệu. Ðương giữa lúc công chúng ồn ào ca tụng tài đức của bà, mà em được gặp bà, bà lại không quên em là một đứa đồng hương hèn hạ, thì em vinh diệu không biết chừng nào. Công chúng ngợi khen bà là vì họ thấy bà tuổi đã trên ba mươi lăm mà nhan sắc vẫn còn đẹp như gái xuân xanh, họ thấy bà là một đứng liễu bồ mà bà đủ tài đủ trí tự xướng ra tạo thành một sự nghiệp kinh dinh ở chốn Sài Gòn. Họ khen như vậy bất quá họ thấy bề ngoài mà khen đó thôi, bởi vậy em cho những lời khen ấy chưa đúng. Theo con mắt của em, thì em thấy bà còn nhiều cái tài, nhiều cái đức khác nữa, thiên hạ không thấy nổi. Bà xuất thân trong đám bình dân, mà bà thoát khỏi cái địa vị hèn hạ rồi leo lên ngồi cái địa vị cao sang, cũng đi xe hơi, cũng đeo hột xoàn, cũng được thiên hạ kêu “bà”, sự thăng cao ấy nếu không có cái tài đặc biệt như bà thì không thế gì mà làm được. Mà được lên cái địa vị cao rồi, bà không vong bổn như thiên hạ, bà ngó xuống mà thương xót đoàn phụ nữ, bà muốn dìu dắt em cháu cho chúng nó bước vào đường phải, nên bà không nệ tốn công hao của, bà lập trường dạy em cháu cho chúng nó thông chữ nghĩa, biết nữ công đặng chừng lớn khôn chúng nó có gia thất, thì chúng nó biết chữ, có nghề đặng tiện bề sinh hoạt! …Ðó, tôi nói như vậy đó, chị thương tôi hay không?

Cô Cẩm Hương với tay vả mặt Tất Ðắc nghe một cái chách mà nói rằng:

–        Ðồ quỉ kiêu ngạo hoài.

–        Chị biểu tôi sửa tánh nết cho hạp với thiên hạ, chớ có kiêu ngạo đâu.

–        Thôi, đừng có giễu nữa. Cậu có kiếm sở nào mà làm hay chưa?

–        Làm chi vậy?

–        Khéo hỏi trẹo hôn! Làm đặng kiếm cơm mà ăn, chớ làm mà chi.

–        Sống đặng mà ăn hay sao, nên phải làm cho có tiền mà ăn cơm?

–        Ở đời ai cũng vậy, phải lo làm việc cho có tiền đặng nuôi thân. Nếu không làm thì tiền đâu mà ăn, mà hễ không ăn thì chết còn gì.

–        Tôi không làm mà tôi còn sống đây, tôi có chết hồi nào đâu?

–        Cậu cải nghịch lý quá thì còn ai nói chuyện gì nữa được. Cậu là con quan, ông bà hồi trước giàu có sang trọng. Cậu có đi học bên Tây sáu bảy năm, cậu đã 25, 26 tuổi rồi, cậu phải lo lập thân đặng giữ danh giá cho cha mẹ, chớ cậu không lo làm ăn chi hết, cứ thả lêu khêu hoài, rồi làm sao. Chị em quen biết nhau từ hồi nhỏ, tôi thương cậu lắm, tôi phải chỉ chỗ quấy cho cậu nghe.

–        Tôi rất cám ơn chị. Những lời chị khuyên tôi đó, theo thiên hạ thì trúng nghĩa lắm, mà đối với tôi thì trái hẵn cách quan niệm ở đời của tôi.

–        Cậu quan niệm ở đời như thế nào, mà cậu cho tôi nói trái?

–        Theo thói thường, con người hồi còn nhỏ thì phải đi học, chừng lớn khôn, con trai thì cưới vợ, con gái thì lấy chồng, rồi như giàu thì ở không mà đi chơi, còn như nghèo thì vợ chồng phải làm cực khổ đặng kiếm tiền mà nuôi nhau. Trong ít năm sinh con đẻ cháu cả bầy, gánh gia đình mỗi ngày một thêm nặng. Giàu hay nghèo cũng vậy, hạng nào cũng phải lo lắng hết sức, duy cách lo lắng khác nhau mà thôi. Giàu thì lo làm giàu thêm, lo cho con học cho cao, lo làm sao thiên hạ khen ngợi. Còn nghèo thì lo làm sao có quần áo cho vợ con bận[9], lo làm có gạo đặng vợ con ăn mỗi ngày đủ hai bữa. Phải lòn cúi, phải lặn lội cho đáo để trong ít năm rồi ai cũng phải chết. Những sự nghiệp mình đổ mồ hôi, xót con mắt, chai đầu gối, nát trí khôn, mà gây dựng ra đó, nó phưởng phất như khói bay rồi tan mất hết. Cái đường đời của con người từ xưa đến nay thì như vậy đó, có chỗ nào hay đâu mà mình cứ đuổi theo hoài. Mình phải tìm cái đường khác mà đi, cho thân mình khỏi cực khổ, cho chí mình được thơi thới, tính như vậy có phải là dở hơn thiên hạ đâu chị.

Cẩm Hương lắc đầu, nắm tay kéo Tất Ðắc đi và nói rằng:

– Cậu nói chuyện dọng đầu dưới đất trở cẳng lên trời, nghe phát ghét, không hơi nào mà cãi. Thôi, cậu đi lại gian hàng của tôi ngồi nói chuyện chơi, đứng nãy giờ mõi cẳng rồi. Lại đẳng ngồi tôi biểu học trò của tôi nó dọn bánh khéo, chế trà ngon, tôi đãi cậu một bữa cho cậu biết cách quan niệm ở đời của tôi hay, hay là của cậu hay.

Hai người thủng thẳng tránh thiên hạ mà đi, cô Cẩm Hương mặt hân hoan, còn cậu Tất Ðắc thì bộ lơ lửng.

Ði tới ngả ba đường vô gian hàng của cô Cẩm Hương, thình lình có một cô, trạc chừng 20 hoặc 22 tuổi, y phục thật đẹp, đeo hột xoàn thật nhiều, đi với một bà xồn xồn[10], tuy mặc đồ đen nhưng mà sắc sảo lắm, cô thấy Cẩm Hương thì kêu mà hỏi “Cô Ðốc, cô Ðốc, gian hàng của cô ở chỗ nào đâu, nãy giờ em dắt má em đi kiếm mỏi chưn quá, mà kiếm không được”

Cô Cẩm Hương cúi đầu chào bà xồn xồn và nói rằng: “Tôi kính chào bà Huyện. Gian hàng nữ công của tôi dọn trước kia”. Cô lại ôm mặt cô nhỏ gặp đó mà hôn và nói rằng: “Té ra em kiếm gian hàng của cô hay sao? Cô cũng tính đi một vòng coi chơi, mắc gặp người quen đứng nói chuyện từ nãy giờ, chớ không thì cũng gặp em và bà Huyện”.

Cô nói tới đó, cô sực nhớ Tất Ðắc, cô day lại thì thấy cậu đứng dang ra mà chờ. Cô đưa tay ngoắt cậu lại, rồi chỉ hai mẹ con mới lợi đó mà nói rằng: “Bà đây là bà Huyện Hớn ở trên Tân Ðịnh, còn cô em đây là Bạch Yến, con gái của bà Huyện, mà cũng là học trò cũ của chị”.

Cô lại nói với bà Huyện rằng: ”Cậu nầy là Bác Vật[11] Ðắc, em bà con với tôi, cậu là con quan phủ hồi trước ở Long Xuyên”.

Tất Ðắc cúi đầu chào hai mẹ con bà Huyện. Hai mẹ con bà Huyện cũng cúi đầu đáp lễ.

Cẩm Hương vui vẻ lắm, cô mời hết ba người khách đi lại gian hàng của cô mà ăn bánh uống nước và ngồi nghỉ chưn một chút. Cô dắt mẹ con bà Huyện đi trước, Tất Ðắc thủng thẳng theo sau, cậu đi mà bộ lững đững lờ đờ, chỗ thiên hạ đều vui mà cậu không biết vui chút nào hết.

Lại tới gian hàng nữ công, thấy ba cô tuổi còn xuân xanh ở trong coi bán đồ, cô nào ăn mặc cũng đẹp, đương mỉm cười hữu duyên mà chiều khách. Cẩm Hương dắt khách mà chỉ đặng khoe những đồ thêu, những bánh, những mứt của học trò cô làm ra. Cô nói với bà Huyện, cô cười với Bạch Yến, cô giễu cợt với Tất Ðắc, coi ra thiệt cô rành rẽ trong nghề giao thiệp. Cô khoe hàng đủ hết rồi, cô mới mời khách ngồi chung quanh một cái bàn vuông nhỏ để giữa gian hàng và cô biểu mấy cô học trò chế một bình trà ngon và dọn bánh mứt cho cô đãi khách.

Tất Ðắc ngồi cái ghế phía ngoài cửa, chừng cô Cẩm Hương mời ăn bánh uống nước, thì cậu ăn liền không bợ ngợ, mà cũng không thèm ngó cô Bạch Yến hay mấy cô bán trong gian hàng.

Cô Cẩm Hương nói chuyện với bà Huyện một hồi rồi kêu Tất Ðắc mà hỏi rằng: “Cậu Bác Vật, sao cậu ăn uống mà cậu không nói chuyện gì hết vậy”?

Tất Ðắc mỉm cười mà đáp rằng:

–        Chị muốn tôi nói chuyện gì?

–        Cậu hãy nói coi đồ của học trò tôi thêu đó khéo hay vụng, bánh mứt của học trò tôi làm đó ngon hay dở, nói bao nhiêu đó thử coi rồi nói chuyện khác.

–        Ðồ thêu thì khéo thiệt, bánh mứt thì ngon lắm.

–        Cậu khen hả?

–        Nhưng mà tôi chê, chớ tôi không khen.

–        Biết khéo, biết ngon mà sao lại chê?

–        Tôi chê là vì những đồ ấy coi thì đẹp mắt, ăn thì ngon miệng, nhưng mà nó báo hại đờn bà con gái chớ không ích gì.

Cô Bạch Yến nãy giờ thấy Tất Ðắc không thèm để ý đến mình thì lấy làm kỳ, bây giờ nghe những lời cậu nói trặc trẹo như vầy nữa thì cô không thể nín được, nên cô cười và hỏi cậu rằng:

–        Xin ông cho phép em hỏi ông …

–        Cô muốn nói chuyện thì cứ nói khỏi xin phép ai hết. Tôi có quyền gì cấm cô hay sao mà cô phải xin phép.

–        Vì em chưa quen biết với ông, nên theo lễ, em muốn nói với ông nên tự nhiên em phải xin phép trước.

–        Người nào bày lễ nghi đó lại báo hại thiên hạ còn nặng hơn là người thêu thùa, bày làm bánh mứt đó nữa.

Bây giờ bà Huyện tức cười, mà ba cô học trò cũng không nín cười được, nên đồng ngó Tất Ðắc mà chúm chím hết thảy.

Cô Bạch Yến dòm thấy ai nghe Tất Ðắc nói cũng lấy làm kỳ, nên cô phấn chí mà hỏi cậu rằng:

–        Tại sao ông nói lễ nghi là báo hại thiên hạ?

–        Bày lễ nghi có hai điều hại: thứ nhứt làm cho loài người phải giả dối, thứ nhì làm cho loài người mất hết thì giờ. Cô nghĩ lại mà coi, theo lễ nghi hai người gặp nhau liền hỏi thăm nhau coi mạnh giỏi hay không. Ví như có người trả lời “Tôi không mạnh”. Người kia vì lễ nghĩa, nên phải hỏi tiếp: “Anh đau bịnh gì?”. Người nọ phải đáp. Ví như nói: “Tôi cảm gió nên nóng lạnh mấy bữa rày”. Người kia phải khuyên: “Anh phải kiếm thuốc mà uống, không nên để lây lất”. Vấn đáp như vậy rồi hoặc nói chuyện khác, hoặc không có chuyện gì để nói, thì từ giã nhau mà đi. Lễ nghi buộc hễ gặp nhau thì hỏi thăm mạnh giỏi, hỏi chi vậy? Hỏi rồi người ta nói người ta đau, mình không có thể làm cho người ta hết đau được thì lời hỏi giả dối quá, làm cho hai người mất mấy phút đồng hồ vô ích. Còn cô muốn nói chuyện với tôi, vì lễ nghi cô buộc lòng phải xin phép tôi. Tôi biết tôi không có quyền cấm cô nói, mà cô xin phép, thì lời xin phép ấy không thiệt mà lại mất thì giờ.

Bà Huyện gật đầu rồi ngó Cẩm Hương mà nói rằng:

–        Ông Bác Vật nói phải lắm chớ.

–        Ý! Thôi đi bà! Cậu nói lộn ruột, chớ phải giống gì.

–        Sao mà lộn ruột?

Cô Bạch Yến không chịu thua nên nói với Tất Ðắc rằng:

–        Ông nói lễ nghi làm cho người ta giả dối lại mất thì giờ, nhưng theo ý em thì con người nhờ có lễ nghi nên trong đường giao thiệp mới có vẻ thanh cao tao nhã chớ.

–        Thanh cao, tao nhã bề ngoài, còn bề trong thì không có một chút thành thiệt, thế thì thanh cao, tao nhã làm chi. Như trái cam, ngoài vỏ khoe màu vàng tươi, coi ngon lắm, mà trong ruột chua lè, thì có ai màng. Cô muốn nghị luận mà chơi, chớ trong trí cô cho lời tôi nói đó là phải.

–        Còn tại sao ông nói đồ thêu tốt, bánh làm ngon là vật báo hại đờn bà con gái?

–        Thêu một cặp mặt gối cho thiệt đẹp, phải tốn công hết mấy ngày. Làm được một cái bánh cho thiệt khéo phải mệt trí hết mấy giờ đồng hồ. Mặt gối khéo bất quá để cho người coi khoái mắt. Bánh ngon bất quá để cho người ăn ngon miệng. Khoái mắt, ngon miệng một chút mà phải bắt phụ nữ mệt trí lung quá, không phải là báo hại người ta hay sao? Kiếp con người có mấy mươi năm, sao đành lòng bắt phụ nữ mệt nhọc hết sức để cho mình khoái mắt, ngon miệng?

–        Theo lời ông nói đó, thì em đoán chắc ông yêu phụ nữ lắm nên ông mới bào chữa như vậy.

–        Không phải vậy. Bình sanh tôi chưa biết thương ai, mà cũng chưa hề ghét ai. Nói chuyện thì tôi cứ do lý mà nói, chớ chẳng vị ai hết. Tại sao mà tôi yêu phụ nữ?

–        Nếu ông không yêu mà sao ông bênh vực dữ vậy, ông không muốn cho phụ nữ cực lòng nhọc xác?

–        Tôi muốn chung cho loài người hết thảy đều khỏi nhọc trí cực xác, chớ nào phải tôi muốn riêng cho hạng phụ nữ mà thôi đâu. Nếu tôi muốn cho đờn bà con gái sung sướng, ở không rồi thoa son giồi phấn mà đi chơi, còn đờn ông con trai phải làm cháy da phỏng trán, mặt nám tay chai, muốn như vậy thì bất công bất chánh lắm.

–        Ðờn ông tự nhiên phải làm mà nuôi đờn bà chớ sao, tục lệ lưu truyền từ xưa đến nay, từ Âu tới Á, dầu ở đời nào, dầu ở nước nào cũng vậy.

–        Theo tục lệ thì đờn ông phải nuôi đờn bà còn đờn bà đối với đờn ông phải thế nào?

–        Ðờn bà thì họ lo bề nội trợ, nghĩa là lo việc trong nhà như tắm rửa cho con, may áo vá quần cho chồng, lo cơm nước cho chồng con ăn.

–        Những phận sự của đờn bà mà cô vừa mới kể đó, tôi mày mạy dường như trong sách dạy như vậy. Mà trong thế gian tôi ít thấy như vậy.

–        Chính ông thấy thế nào?

–        Tôi thấy có nhiều đờn bà, hễ chồng đi làm công việc thì họ ở nhà khi thì dạo xóm mà nói hành thiên hạ, khi thì đánh quần đánh áo rồi thả đi chơi, khi dụm năm dụm ba hoặc luận thứ phấn nào tốt, thứ nào xấu, hoặc đánh bài đánh bạc, còn con thì họ bỏ tèm lem tèm luốc, chồng đi làm về mệt đừ, song không có cơm sẵn mà ăn.

–        Ông nói như vậy là ông chê bọn nữ lưu chúng tôi hư quá!

–        Thưa! Tôi đâu dám. Tôi thấy sao tôi nói vậy chớ.

Bà Huyện cười ngất và nói rằng: “Ông Bác Vật nói phải lắm chớ. Ðờn bà con gái bây giờ nhiều người không hiểu tam tùng tứ đức gì. Có người còn ăn hiếp chồng nữa”.

Cô Bạch Yến chau mày nói rằng: “Ðờn bà đời nào cũng vậy, có người nên mà cũng có người hư, chớ nếu mọi người đều nên hết thì thế gian thành thiên đàng còn gì. Nhưng mà tôi phiền ông Bác Vật sao chê mấy người hư mà ông không khen mấy người nên. Tôi chắc ông Bác Vật không hưởng được hạnh phúc trong gia đình, ông uất ức trong lòng, ông oán đờn bà con gái, nên ông mới chê hết như vậy đó”.

Cẩm Hương rước mà đáp rằng: “Không phải vậy đâu. Cậu Bác Vật chưa có vợ mà”.

–        Té ra ông Bác Vật chưa có vợ hay sao?

–        Thưa, có con gái nào mà thèm cậu.

–        Sao vậy?

–        Cậu nói lộn ruột chịu sao nổi. Vậy từ nãy giờ bà không nghe cậu nói chuyện đó sao?

–        Ông Bác Vật luận việc đời nghe nhằm lý quá chớ có nói quấy chỗ nào đâu.

–        Bởi nhằm lý, nên không nhằm bụng người ta mới chịu không nổi.

–        Cô Ðốc gắt gao quá! Theo tôi, thì tôi cho ông Bác Vật nói phải hết.

Chủ khách nói chuyện tới đó, kế có hai cô mặc y phục thiệt đẹp, giồi phấn thoa son thiệt khéo, đi ngang qua gian hàng, thấy Tất Ðắc ngồi phía ngoài, bèn hốt bông giấy mà vãi trong mình cậu rồi cười ngả ngớn. Tất Ðắc vừa phủi áo vừa nói rằng: “Hồi nãy tôi nói sót. Bổn phận của đàn bà con gái còn phải vô chợ đêm đặng vãi bông nữa”.

Bà Huyện và mấy cô tức cười. Kế có một đám trai, chừng năm, sáu người, đầu láng nhuốt mặc đồ tây sắc lẻm, đi ngang qua rồi áp vô vãi bông trên đầu cô Bạch Yến và mấy cô đứng bán.

Bà Huyện lộ sắc không vui, bà đứng dậy và nói rằng: “Hôm qua bà Phán đi coi hội chợ, bà về bà nói có một con thú thành người ngộ lắm, lại có một con rắn biết nói. Hồi nãy tôi biểu con Bạch Yến dắt tôi đi lại chỗ đó cho tôi coi một chút mà nó không chịu, cứ đi coi đồ thêu với những đồ làm bằng đồi mồi hoài. Không biết con thú thành người đó ở chỗ nào đâu”

Cô Cẩm Hương cũng đứng dậy đáp rằng: “Ở bên kia. Bà Huyện muốn coi thì tôi dắt đi coi. Cậu Bác Vật đi hay không?”

Tất Ðắc lắc đầu đáp rằng: “Xin chị đi với bà Huyện, để tôi ngồi đây tôi làm bia cho mấy cô vãi bông đặng tốn tiền của mấy cô chơi”.

Cô Bạch Yến cũng nói rằng: “Em cũng không muốn đi. Em mỏi chưn quá. Thôi cô Ðốc dắt giùm má em đi chơi một vòng, để em ở đây em thế cho cô mà tiếp khách với mấy cô”.

Cô Cẩm Hương nói: “Thôi, như em không muốn đi thì ngồi đó. Nè, cậu Bác Vật đừng có bày chuyện mà nói rồi làm lộn ruột mấy em tôi đa”. Cô nói dứt lời rồi dắt bà Huyện đi.

Cô Bạch Yến liếc thấy thầy Tất Ðắc cứ ngồi ngó thiên hạ đi ngoài đường, chớ không ngó cô, thì cô kêu mà ghẹo rằng:

–        Ông Bác Vật chờ ai hay sao?

–        Thưa phải, tôi chờ mấy cô vãi bông. Sao nãy giờ có nhiều cô đi ngang qua mà họ không thèm vãi nữa không biết.

–        Ông ưa họ vãi bông lên mình ông lắm sao?

–        Thưa, bình sanh tôi chẳng biết ưa chuyện gì hết. Nhưng mà việc của thiên hạ ưa thì chẳng bao giờ tôi muốn làm trở ngại.

–        Ông nói như vậy, mà sao chị em tôi đời nầy ưa thêu thùa, ưa làm bánh làm mứt, hồi nãy ông lại kích bác?

–        Tôi có kích bác đâu? Hồi nãy tôi nói những đồ ấy vô ích mà nó làm phụ nữ phải cực trí nhọc xác chớ.

–        Người sanh ở đời thì phải làm công việc, đờn ông làm việc nặng nề, đờn bà làm việc nhẹ nhàng sao ông lại sợ cực trí nhọc xác? Ðờn bà làm việc nặng nề không nổi, thì tập thêu thùa, may vá, làm bánh làm mứt, cho có công việc làm, chớ ở không chơi rồi sanh chứng lại còn hại hơn nữa.

–        Mấy người ở không đi chơi đều sanh chứng hết sao?

–        Không phải em nói hết mọi người, em nói là nói phần đông.

–        Có người không đi chơi, may thêu khéo, làm bánh mứt giỏi mà họ cũng sanh chứng vậy, chớ nào phải ở không thả đi chơi mới sanh chứng được.

–        Mấy người đó sanh chứng gì?

–        Mấy người nào?

–        Mấy người ở không đi chơi đó. Ông nói chuyện với em mà sao ông lo ra quá vậy?

–        Xin lỗi cô. Tôi mắc trông mấy cô vãi bông.

–        Nếu vậy thì em nói chuyện với ông, em làm buồn cho ông lắm?

–        Không. Có buồn chi đâu?

–        Ông thích vãi bông, mà em không làm như vậy, em lại bày chuyện mà nói cho rộn trí ông, thì ông phải buồn chớ sao?

–        Không phải vãi bông tôi mới vui, còn nói chuyện mà tôi buồn. Tôi vui là khi nào tôi được thấy mấy người ở không đi chơi, không lo, không làm việc gì hết, dầu đờn bà hay đờn ông cũng vậy. Mấy cô vãi bông hồi nãy chắc không có việc gì hết, nên tôi thấy tôi vui, tôi trông coi có nhiều người khác được như vậy hay không?

–        Ông nói ông thấy người ta ở không đi vãi bông chơi ông vui, vậy sao mấy người đờn ông vãi bông hồi nãy đó, thấy ông lại không vui?

–        Tôi cũng vui lắm chớ, nhưng mà đờn ông có nhiều, nên không lạ gì, lại họ vô hội chợ mua bông mà vãi đó, chớ họ không phải là người ở không đi chơi, ban ngày họ phải làm việc mới có tiền mà mua bông đó. Còn đờn bà vãi bông thì mới có, lại chắc họ không có làm việc gì hết, nên tôi thấy tôi vui hơn.

–        Ông ngồi nói chuyện với em, mà họ vãi bông lên mình em hồi nãy đó, ông thấy ông không buồn hay sao?

–        Tại sao mà tôi buồn?

–        Cô Bạch Yến ngó ba cô học trò bán hàng mà cười rồi lắc đầu mà nói rằng: “Hèn chi không có vợ là phải lắm”.

Tất Ðắc day qua hỏi rằng:

–        Cô nói tôi hay nói ai?

–        Em nói ông.

–        Cô nói sao, xin lập lại nghe coi.

–        Em nói tánh ông như vậy, nên không có vợ thì phải lắm.

–        Sao cô biết được tánh tôi?

–        Nãy giờ em thấy bộ ông nói chuyện, thì em biết rõ tánh ông rồi.

–        Cô có học sách coi tướng hay sao nên thấy bộ tịch, nghe nói chuyện mà cô biết tánh nết được?

–        Cần gì phải học sách coi tướng. Ông là trai chưa vợ, ông ngồi trong gian hàng đây hơn một giờ đồng hồ rồi ông thấy em với ba cô gái chưa có chồng mà ông không tỏ một lời ghẹo chọc, lại coi bộ không thèm để ý đến, thậm chí đến người ta áp vô rãi bông cùng mình chúng tôi mà ông cũng không phiền. Thấy bao nhiêu đó cũng đủ biết ông giỏi tài học thức, mà ông dốt về ái tình, nên ông không có vợ.

–        Cô nói như vậy là cô trách tôi hay là cô chê tôi?

–        Em chê.

–        Tôi rất cám ơn cô.

–        Em chê, mà sao ông không giận, ông lại cám ơn?

–        Tôi mừng lắm chớ giận làm sao.

–        Em xin ông hãy cắt nghĩa tại sao em chê mà ông mừng, chớ không giận.

–        Cô không hiểu hay sao mà cô nài[12] tôi cắt nghĩa?

–        Thì em không hiểu.

–        Vậy để tôi cắt nghĩa cho cô hiểu, song tôi xin cô nghe rồi thì để bụng, chớ đừng có nói cho ai biết. Thuở nay tôi thờ cái chủ nghĩa “Bất cần lao”, nghĩa là rèn tập tánh ý đừng muốn làm việc chi nhọc trí cực xác. Cái chủ nghĩa của tôi cao xa thâm thúy lắm, phải lên diễn đàn mà giải năm mười đêm mới hết ý nghĩa được. Bà Huyện đi chơi nãy giờ đã lâu rồi, có lẽ trong năm mười phút nữa bà sẽ trở lại, nên tôi sợ không đủ thì giờ mà giải thích chủ nghĩa của tôi cho cô hiểu rõ được.

–        Thôi, ông đừng có giải chủ nghĩa. Ông nói phứt cho em nghe coi tại sao em chê ông dốt về ái tình mà ông không giận?

–        Ðể tôi nói vắn tắt ít lời cho cô nghe: Ái tình thường phải gây ra cuộc vợ chồng, mà vợ chồng thì phải sanh con đẻ cháu, hễ sanh con đẻ cháu thì tự nhiên phải nhọc trí cực xác. Chủ nghĩa của tôi nghịch hẵn lại sự cực trí nhọc xác, thì tự nhiên nghịch với cuộc vợ chồng, rồi nghịch luôn với ái tình nữa. Tại như vậy đó nên tôi phải dốt về ái tình, đặng tránh cuộc vợ chồng, tránh bề con cháu cho tròn với chủ nghĩa. Thuở nay cũng có nhiều người chê tôi dốt về ái tình mà tôi không tin. Nay tôi gặp cô là gái xuân xanh, lời nói thiệt khôn ngoan, nhan sắc thiệt xinh đẹp. Ðã vậy mà cô có mặc áo tốt, có đeo xoàn nhiều, nên tôi chắc cô là người giàu có sang trọng. Cô thấy cử chỉ của tôi rồi cô chê tôi là đứa dốt về ái tình. Cô như vậy, mà cô nói như vậy, thì tôi mới chắc ý, vững bụng, tôi không hổ với chủ nghĩa tôi thờ thuở nay, nên tôi mừng và cám ơn cô lắm.

–        Ông nói chuyện nghe lộn ruột thiệt, hèn chi hồi nãy cô Ðốc cô dặn cũng phải lắm.

–        Tôi nói như vậy mích lòng cô hay sao? Nếu có mích lòng thì tôi chịu lỗi với cô. Tại cô hỏi hoài, chớ thiệt tôi có muốn nói đâu.

–        Không, có mích lòng chi đâu. Song ông nói chuyện nghe dị kỳ quá. Không giống ai hết.

–        Tôi nói chuyện nghe khác người ta hay sao? Khác chỗ nào xin cô cho tôi biết.

–        Em nói thiệt với ông, thuở nay em ra đường hễ em gặp mấy ông hay mấy thầy, thì ai cũng liếc ngó em, có người lại theo chọc ghẹo em nữa. Nay em gặp ông, lại gặp như vầy, ông có đủ cách để mà trêu hoa ghẹo nguyệt[13] song ông không thèm để ý đến em, không thèm tỏ một lời về ái tình, ông khác thiên hạ là khác chỗ đó.

–        Tôi khác với thiên hạ như vậy, mà cô cho tôi phải hay tôi quấy?

–        Việc ấy em chưa suy nghĩ kịp, nên em không dám phán đoán.

–        Xin cô suy nghĩ lại. Tôi chắc hễ cô suy nghĩ rồi thì cô sẽ cho tôi phải, mà cô cũng khen cái chủ nghĩa của tôi là cao hơn nữa.

–        Em muốn nghe ông giải cái chủ nghĩa của ông lắm.

–        Không đủ thì giờ thì không thể giải thích cho cô thấu đáo được.

–        Ðể khi nào em gặp ông mà có nhiều thì giờ em sẽ xin ông giải chủ nghĩa cho em nghe được hôn?

–        Tôi sẵn sàng.

–        Ông quen với cô Ðốc Cẩm Hương nhiều hôn?

–        Chị em đồng hương.

–        Hiện bây giờ ông ở đâu?

–        Tôi ở Sài Gòn đây.

–        Ông hay lại nhà cô Ðốc không?

–        Tuy quen nhiều, song tôi ít tới lui.

–        Tại sao vậy?

–        Tại chị Cẩm Hương không phục cái chủ nghĩa của tôi.

Bà Huyện với Cẩm Hương trở lại. Cô Bạch Yến bước ra cửa tiếp rước và nói với cô Cẩm Hương rằng: “Phải nãy giờ có cô ở đây, cô nghe ông Bác Vật nói chuyện! Ông nói nghe tức cười muốn chết”.

Cô Cẩm Hương ngó Tất Ðắc và nói rằng: “Cậu đó cứ vậy hoài, tôi biết trước nên tôi có dặn, mà cậu cũng còn chọc ghẹo sắp nhỏ”.

Cô Bạch Yến rước[14] mà đáp: “Không mà, ông Bác Vật có chọc ghẹo ai đâu. Ông nói chuyện chơi vậy chớ. Ông nói nghe ngộ lắm. Ông còn thiếu chịu em, chưa giải cái chủ nghĩa “bất cần lao” của ông cho em nghe. Bữa nào cô Ðốc có rảnh, em xin mời cô lên nhà em chơi và cô đi thì cô mời dùm ông Bác Vật đi với, đặng ổng diễn giải cái chủ nghĩa của ổng cho em hiểu”.

Bà Huyện và cô Cẩm Hương cười, còn Tất Ðắc thì đứng ngó thiên hạ qua lại, bộ bơ lơ, dường như không kể đến ai hết.

Bà Huyện nói đã khuya rồi, mà bà cũng đã coi đủ hết, nên bà cũng xin từ giã cô Cẩm Hương mà về. Bà mời Tất Ðắc khi nào có dịp lên Tân Ðịnh thì ghé nhà bà mà chơi.

Lúc từ giã thì cô Bạch Yến nói với Tất Ðắc rằng: “Ông Bác Vật phải nhớ, ông còn thiếu chịu em sự diễn giải chủ nghĩa “bất cần lao” đa, nghe hôn. Em xin mời ông bữa nào đi với cô Ðốc lên nhà em chơi, đặng giải nghĩa cho rồi, chớ để thiếu lâu không được”.

Tất Ðắc cúi đầu thi lễ và đáp rằng: “Tôi sẵn lòng”.

Mẹ con bà Huyện đi rồi, cô Cẩm Hương hỏi Tất Ðắc rằng:

–        Cậu coi con Bạch Yến được hay không?

–        Ðược cái gì?

–        Tôi hỏi cậu coi nó vừa ý cậu hay không. Như cậu muốn nó thì tôi làm mai giùm cho đặng cậu cưới nó. Nè, nếu cậu cưới được nó, cậu no lắm, bà Huyện góa chồng, bà có một đứa con gái đó mà thôi, mà tiền bạc bà nhiều lắm. Bà có nhà cửa tử tế, có phố cho mướn trên Tân Ðịnh, lại có ruộng ở phía dưới Mỹ Tho nữa.

Tất Ðắc ngó Cẩm Hương, cười bộ kiêu căng mà đáp rằng:

–        Bộ chị nầy điên rồi hay sao mà bày chuyện làm mai làm mối! Tôi cưới vợ nỗi gì

–        Sao vậy? Cậu sợ bà Huyện không gả hay sao. Phải, ý bà Huyện khó lắm. Tuy bà nói nói cười cười, song bà kén rể thất kinh. Nhưng mà bà tin cậy tôi lắm. Tôi nói lén cho cậu biết, mới hồi nãy đây, tôi dắt bà đi chơi, bà còn nói với tôi coi chỗ nào xứng đáng, nếu tôi dám bảo kết người ấy tử tế, thì bà sẽ gả con Bạch Yến.

–        Tôi nói tôi không chịu cưới vợ.

–        Sao vậy?

–        Trái với chủ nghĩa của tôi chớ sao.

–        Mốc xì! Chủ nghĩa gì khéo bày đặt!

–        Chị là người không có chủ nghĩa … Ủa! Xin lỗi … Tôi nói sai. Chị là người thờ cái chủ nghĩa “yêu sự sống, khinh nghĩa, trọng tài” rồi chị tưởng ai cũng như chị hết hay sao?

–        Cậu khéo làm bộ! Ðời nầy là đời kim tiền, sanh nhằm cái đời như vậy, thì mình cứ mưu làm cho có tiền, làm thế nào cũng được, miễn có tiền nhiều là khôn là giỏi. Thân cậu bây giờ cha mẹ khuất hết, sự nghiệp điêu tàn, cậu lại không có nghề làm ăn. Vậy thì cậu nên kiếm vợ giàu đặng đỡ tấm thân. Cưới vợ giàu cũng là một cách sanh nhai, thiên hạ dùng cách ấy thiếu gì, có ai chê cười đâu mà cậu ngại.

–        Chị đừng có cám dỗ việc bậy bạ.

–        Tôi thương cậu lắm, nên tôi mới khuyên như vậy, chớ đâu phải cám dỗ đâu.

–        Tôi cám ơn chị, thôi để tôi đi chơi.

Tất Ðắc cúi đầu từ giã rồi bước ra đi. Cô Cẩm Hương kêu mà nói với rằng: “Cậu suy nghĩ lại cho kỹ. Nếu cậu chịu thì bữa nào cậu ghé trường học mà nói cho tôi hay, rồi tôi tính cho nghe hôn”.

Tất Ðắc phát tay rồi đi tuốt.

 


[1] độ

[2] tướng thô kịch

[3] đi dạo không chủ đích

[4] đi dạo quá trớn

[5] nói điều vô nghĩa

[6] gây trỡ ngại

[7] là người làm mmôi giới

[8] (cent), 100

[9] mặc

[10] quá trung niên

[11] kỹ sư

[12] kèo nài, đòi

[13] tán tỉnh một người con gái

[14] cướp lời


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.