Venise Và Những Cuộc Tình Gondola

PHẦN I: NƯỚC PHÁP



PARIS ƠI, BONJOUR!
Lần đầu đến Paris năm 1998, tôi hơi thất vọng vì trước đó hình dung kinh thành ánh sáng phải hoa lệ lắm. Học tiếng Pháp từ nhỏ với những giáo trình luôn ca ngợi Paris, tôi đắm chìm trong niềm mơ ước được một lần đặt chân lên thủ đô xinh đẹp của đất nước mang hình lục giác. Paris với đồi Monmartre, giáo đường Sacré Coeur, tháp Eiffel, công viên Luxembourg, đại lộ Champs Élysée, Khải Hoàn Môn… tất cả đều được mô tả thật lộng lẫy, lãng mạn và không một tì vết. Thế nhưng khi lần đầu được chiêm ngưỡng dung nhan Paris, tôi biết mình đã quá giàu trí tưởng tượng.
Người vô gia cư trong gió rét
Paris vẫn đẹp với những gì người ta hay nhắc đến, Paris vẫn hoa lệ rực rỡ ánh đèn màu, Paris vẫn sang trọng với những cửa hàng cao cấp, nhưng tôi không thấy được cái hồn của thành phố có số khách du lịch thuộc loại cao nhất thế giới này. Những thành phố ít nổi tiếng hơn của Pháp lại được tôi yêu thích hơn, như Avignon, Alix en Provence, Grenoble… Đặc biệt có nơi hoàn toàn tỉnh lẻ nhưng tôi thấy xúc động khi đứng trước một cửa sổ gỗ màu xanh nhẹ nhàng hay những con đường lát đá thật duyên dáng. Có lẽ tôi đòi hỏi quá cao khi muốn Paris phải thật hoàn hảo, nên đã thất vọng khi nhìn thấy những người vô gia cư tái mình trong gió rét, những đoạn xe điện ngầm chen chúc, những con đường đầy rác, sông Senie đục ngầu và cả những “bãi mìn” của lũ chó cưng rải rác khắp nơi.
Hai năm sau, may mắn lại đến với tôi khi được quay lại nước Pháp. Lần này do không còn ảo tưởng về những thành phố Châu Âu, tôi vui mừng được gặp lại Paris với tháp Eiffel chơi vơi, nhà thờ Đức Bà cổ kính, bảo tàng Louvre đa dạng. BàMichèle, một người bạn thân thiết dù lớn hơn tôi đến bốn chục tuổi, đã nhiệt tình đón tôi về nhà, đưa tôi đi dạo đây đó, vào những con hẻm nhỏ vô danh, đến những tiệm ăn trong góc khuất. Lạ lùng thay, tôi bắt đầu thấy yêu Paris khi tiếp cận với cuộc sống thật ở đây.
Khi đi du học ở Bỉ, tôi đã buồn vơ vẩn mỗi khi nhớ về Paris, lòng thường hay nuối tiếc mình không được học ở đây. Tuy nhiên, tôi tự biết mình không thể chịu đựng nổi cuộc sống ở Paris nếu phải sống dài hạn. Tôi ngại phải di chuyển rất xa trong thế giới dưới hầm của hệ thống xe điện ngầm, tôi không thích cuộc sống đất đỏ, tôi không ưa cảnh chen chúc. Thỉnh thoảng trong những kỳ nghỉ, tôi vẫn từ Bỉ đáp xe lửa hay xe đò về thăm lại Paris, xúc động nhìn người bạn già của mình đứng đón trong làn gió rét tê tái rồi cũng chính bà đưa tôi lên xe quay lại Bỉ trong ánh mắt yêu thương và cái vẫy tay không muốn rời. Từ đó, tôi nhận ra Paris còn những người lớn tuổi cô đơn thật đáng yêu, như Michèle mà sau này tôi nhận làm mẹ tinh thần.
Cô đơn giữa Paris
Vào cuối năm 2005, tôi có dịp quay lại châu Âu, ghé vào thủ đô nước Pháp thăm lại bà mẹ Paris của mình. Chúng tôi quấn quýt bên nhau, cùng nhau đi dạo khắp nơi để được cảm nhận Paris thật gần. Khi từ trụ sở tập đoàn Sanofi-Aventis mà tôi đang làm việc trở về, tôi đã ngỡ ngàng nhìn thấy một bà lão gần chín mươi tuổi sống một mình trên một chiếc xà lan có mui. Bà cụ nói mình là Ma-đàm Petit, chồng chết nhiều năm, không con cái, không người thân, không ai quan tâm chăm sóc. Bà âm thầm chống chọi với sự cô đơn, với cái rét mùa đông, với cái nóng mùa hè, với tiếng động bất an trong đêm khuya, với những cơn bệnh không tên của người biết mình đã gần về với Chúa. Vài ngày một lần bà già phải leo từ xà lan ra đường phố để mua thức ăn. Có những ngày mực nước xuống thấp hơn con đường, bà loay hoay mãi không leo ra được, đành buồn rầu ngồi chờ không biết chừng nào mới có thể thoát ra. Tôi không hiểu nổi tại một khu phố với nhiều tòa nhà cao tầng của hàng trăm công ty, tại con sông Seine trứ danh vắt ngang Paris, tại một thu đo của đất nước đề cao những giá trị con người lại có một Ma-đàm Petit tồn tại như thế. Tôi cố thuyết phục bà già leo lên bờ đến tạm trú tại một nhà dường lão nào đó, song bà cự tuyệt: “Cả đời tôi sống và làm việc trên chiếc xà lan này, tôi đã chuyên chở ngũ cốc cùng ông nhà tôi. Tôi không đi đâu hết. Rồi tôi sẽ chết ở đây, có thể lâu lắm người ta mới tìm ra, nhưng tôi không có sự lựa chọn nào khác.”
Cứ như một cái duyên không dứt, thỉnh thoảng tôi lại quay về Paris trong những dịp công tác. Tôi đi Paris nhiều đến nỗi những người bạn Pháp ở các tỉnh phải đùa rằng “Mày thành Parisienne rồi!” (dân Paris). Tôi thích Paris chẳng phải là vì Paris là kinh thành ánh sáng mà để ru lòng mình nơi đây có một cuộc sống vô cùng phong phú, với những kiếp người thật trái ngược nhau, với những cảnh tượng vô cùng đối lập. Song đó mới là một cuộc đời đúng nghĩa, với những ai muốn bon chen sẽ có nhiều cơ hội, những ai thích dừng lại vẫn tồn tại giữa cuộc sống đang trôi. Paris là nơi luôn quyến rũ người ta đến, để rồi đã một lần ghé qua sẽ chẳng thể nào dứt nổi lòng ham muốn được quay lại. Và tôi biết rằng mình đã trót yêu Paris, như yêu bà mẹ Michèle của mình và những cụ già đơn côi như Ma-đàm Petit. Paris ơi, bonjour!
Đi lại chốn kinh thành ánh sáng
Lần đầu cần đi xe điện ngầm ở Paris, tôi lóng ngóng phải hỏi người đi đường đâu là trạm. Mua vé rồi mà còn không biết cách đút nó vào máy. Thấy tội tôi quá, một người tốt bụng dừng lại chỉ cách. Lọt vào bên trong đường hầm, tôi lại tiếp tục hỏi thăm đường vì chẳng biết phải đi theo hướng nào trong vô số các hướng rẽ như chân rết. Người ta dẫn tôi đến trước cái bản đồ nhìn rắc rối hơn cả tơ nhện, làm tôi chóng mặt suýt té xỉu. Vậy mà loay hoay, cứ vừa đi vừa hỏi, cuối cùng tôi cũng đến trạm chót sau khi đổi không biết bao nhiêu tuyến. Và rồi mùi mồ hôi người, mùi chen lấn, mùi nghi kỵ làm tôi ác cảm vô cùng với xe điện ngầm Paris. Vậy mà giờ đây tôi lại thích phương tiện này và rành cách đi xe điện ngầm ở Parisđến mức thường đứng lại chỉ cách cho những người Pháp từ các tỉnh lên kinh thành.
“Mestro, boulot, dodo”
Không phải ngẫu nhiên mà dân Paris có câu “Mestro, boulot, dodo” (Xe điện ngầm, công việc, ngủ) để giễu cuộc sống đơn điệu của mình. Ở cái xứ này, có tiền cũng không ngồi xe hơi sang trọng được, phải chui xuống métro nếu không muốn kẹt xe cả giờ đồng hồ. Có lần tôi tháp tùng một bác sĩ trẻ Việt Nam có chút “vai vế” đi dự hội nghị ở Paris. Khi nghe tôi thông báo sẽ di chuyển bằng metro, anh chàng có vẻ rất sốc, một mực đòi đi taxi. Dù tôi giải thích đi taxi kẹt xe cũng không làm anh ta cảm thấy đỡ bị xúc phạm. Đến tối khi cùng các đoàn khách nước khác đi dự tiệc, mọi người di chuyển bằng xe du lịch năm mươi chỗ, lúc này anh mới thấm cái khổ của nạn kẹt xe và ước chi chui phứt xuống hầm metro cho nhanh, chẳng cần ngắm Paris by night gì nữa.
Ngồi metro thì anh nhà giàu cũng bằng vai phải lứa với cô nàng thất nghiệp. Chẳng ai lên mặt được với ai. Trong hầm xe ngột ngạt cũng có lắm phận người, nhiều giai cấp, mọi màu da. Trên métro đạo chích dày đặc mà những đôi tình nhân hôn hít nhau nóng bỏng cũng không ít. Kẻ hiền người dữ, kẻ xấu người tốt. Bạn muốn chộn rộn lo lắng cũng được mà bình tĩnh ngẹo đầu lim dim cũng chẳng sao.
Tình người trong metro
Một lần đã rất khuya, tôi lấy metro chuyến chót trong ngày ra ngoại thành. Lơ ngơ thế nào tôi đi ngược hướng. Đến lúc phát hiện ra thì đã đi quá xa. Tôi nhảy xuống đổi lại hướng trong cái nhìn lo lắng của một người hành khách ăn mặc có vẻ nghèo nàn. Ông sợ tôi đứng chờ một mình trong đêm khuya không an toàn và cũng không chắc giờ này còn metro nên cùng tôi xuống theo. Nhìn tôi lên xe rồi ông mới an tâm quay lại đi hướng của mình. Tôi biết ông phải cuốc bộ về nhà vì chẳng còn chuyến xe khuya nào nữa. Dù tôi có nói ngàn lần câu cảm ơn cũng không thấy đủ cho hành động này của ông, một người xa lạ chỉ tình cờ gặp nhau trên métro. Lần khác tôi làm rơi vé, khi đi ra khỏi hầm tôi không thoát ra được, một anh chàng da đen đứng lại chuyền vào cho tôi thẻ đi metro theo tháng của anh. Tôi chỉ việc gí cái thẻ đó vào cửa tự động thì thoát ra được. Tôi đang hí hửng chợt tái mặt vì một đám cảnh sát đang đứng ngáng đường kiểm tra. Hẳn họ thấy cảnh gian lận này nhưng rồi không hiểu sao lại phất tay bảo tôi đi. Ngoái đầu nhìn lại tôi thấy mặt ai cũng hiền, đa số đều da màu, họ cười với tôi thân thiện làm tôi thấy đời dễ thương quá đỗi.
Taxi Paris
Cũng đôi khi tôi chọn đi xe bus ở Paris nếu tuyến đường không kẹt xe lắm, tranh thủ ngắm phố phường và xem cảnh vật thay đổi theo thời tiết. Các trạm xe bus không dày đặc bằng trạm metro nên thường xuống bến rồi tôi phải đi bộ thêm một đoạn khá xa mới đến được nơi cần đến. Và thỉnh thoảng tôi cũng lấy taxi, đặc biệt là khi… được công ty hoàn tiện lại sau mỗi đợt công tác. Thường thì tôi chỉ đi taxi ra phi trường vì hành lý cồng kềnh. Các bác tài thích trò chuyện, hỏi han, nên đoạn đường được rút ngắn lại. Đi taxi ởParis được xem là sang vì chi phí rất đắt. Người có thu nhập thấp có khi cả đời chưa biết mùi taxi là gì. Dù là ra phi trường hay có hành lý cồng kềnh đến đâu cũng mặc, phải đi xe bus hoặc métro hết. Bản thân tôi khi còn sinh viên cũng thế, chẳng dại chi tiêu cho cuốc taxi đắt hơn mấy chục lần so với các phương tiện công cộng khác. Tôi có một anh bạn Parisienne chính gốc, khi sang làm việc ở Sài Gòn anh tranh thủ đi taxi cho thỏa và còn bảo tôi chụp hình anh từ taxi bước xuống. Anh gởi tấm hình đó sang Paris để chứng minh “sự sang trọng” của mình làm nhiều người phải…ganh tị.
Riêng tôi, dù có đến nước khác, đi métro sạch sẽ hơn (như Singapore chẳng hạn), tôi vẫn thấy métro ở Paris có một cái hồn riêng, rất thực, nhưng nói không ngoa, cũng rất mộng, như chính cuộc đời này.

o O o

PARIS CỦA NHỮNG KHU VƯỜN VĂN THƠ
Những ai yêu văn chương lãng mạn Pháp đều biết đến tác phẩm Ngày tựu trường của Anatole France. Ngay từ khi còn là một cô bé, tôi đã ao ước được một lần đặt chân đến khu vườn Luxembourg thơ mộng. Và rồi khi đã là sinh viên văn chương Pháp, tôi tự dịch những câu thơ ấy theo cách riêng của mình: “Tôi sẽ kể bạn nghe, mỗi năm tôi đều nhớ lại, bầu trời xáo động vào thu, những bữa cơm chiều đầu tiên ăn dưới ánh đèn, và những chiếc lá dần úa vàng trên những vòm cây đang run rẩy. Tôi sẽ kể bạn nghe, khi tôi đi ngang qua vườn Luxembourg vào những ngày đầu tháng mười, cảnh vật man mác buồn nhưng đẹp hơn bao giờ hết, bởi vì, đó là khi, lá cây rơi từng chiếc từng chiếc, sà trên đôi vai trắng muốt của những bức tượng. Tôi đã thấy gì trong khu vườn đó? Một chú bé vai đeo cặp sách, tay đút trong túi, chú tung tăng đến trường như con sẻ nhỏ. Nhưng bạn ơi, chú bé ấy, thật ra chỉ tồn tại trong tâm trí tôi mà thôi, vì, chú chỉ là một bóng hình, bóng hình của chính tôi hai mươi năm về trước…
Luxembourg của Anatole France
Lần đầu đến Paris, tôi không mong được đưa đi thăm những kỳ quan nổi tiếng mà một mực đòi dẫn đến khu vườn Luxembourg. Khu vườn đó thật ra là một công viên khá rộng lớn, vào mùa hè nắng nhảy nhót trên những luống hoa sặc sỡ và du khách dập dìu nói cười rộn rã. Chẳng còn đâu cái man mác buồn của một chiều thu, không chiếc lá vàng nào nhẹ nhàng đậu xuống những bức tượng trắng phau cô quạnh. Nhưng rồi tôi tự nhủ, nếu mình cũng đi ngang vườn Luxembourg vào những ngày đầu tháng mười, làm sao mình đủ sức… cạnh tranh lại những vần thơ Anatole France. Vậy thì bạn ơi, tôi sẽ kể bạn nghe về vườn Luxembourg của những ngày hè sôi động vậy. Du khách từ khắp nơi trên thế giới đang hài lòng ngồi sưởi nắng trên những chiếc ghế dựa sau những giờ phút dạo chơi trong khu Latin và những công trình kiến trúc bao quanh đó, họ ngắm những bức tượng của những vị thần Hy Lạp, của các bà hoàng Pháp xa xưa, của nhạc sĩ Beethoven hay nhà thơ Baudelaire. Những đứa trẻ đang bu quanh cái hồ tròn với những chiếc tàu cánh buồm nhỏ xinh đủ mọi kiểu dáng. Chúng cũng thích đến chỗ múa rối vui nhộn và cười rộn lên vào những đoạn cao trào. Những người lớn tuổi chọn kiosque có dàn nhạc giao hưởng rồi nghiêm túc ngồi lắng nghe cho đến nốt nhạc cuối cùng.
Vườn Tuileries trưa hè
Ngoài Luxembourg, Paris còn vườn Tuileries, xem ra rộng lớn hơn và cổ xưa nhất kinh thành ánh sáng. Vườn Tuileries nằm trải dài giữa quảng trường Concorde sang trọng và điện Louvre duyên dáng, giữa con sông Seine nổi tiếng và đường Rivoli sầm uất. Xem ra tôi yêu Luxembourg vì trót mê Anatole France, nhưng lòng lại thật sự rung động với vườn Tuileries. Khu vườn này có nhiều loại cây từ rất lâu đời, thời Catherine de Medecis, bà đã cho trồng cây để tạo nên vườn Tuileries vào năm 1564. Cũng trong năm đó, điện Tuileries nằm ngay trong vườn cũng được khởi công. Vườn Tuileries cũng có những bức tượng điêu khắc sắc sảo, du khách có thể ngồi nhàn hạ trên những chiếc ghế đặt xung quanh cái hồ rộng ngắm những cánh buồm be bé lững lờ trôi. Sau khi ăn trưa, tôi chọn một góc khuất và… ngả lưng tìm chút giấc ngủ. Nhưng thật ra chẳng ai có thể ngủ ngay giữa lòng Paris, còn biết bao nhiêu nơi cần thăm thú.
Vincenne thơ mộng
Mỗi lần quay lại Paris, tôi đều náo nức tìm đến với những khu vườn tĩnh lặng. Chẳng cần Luxembourg của Anatole France hay Tuileries rộng lớn với bao nhiêu du khách giữa trung tâm kinh thành, tôi thích nhất khu rừng nhỏ Vincenne. Người ta không gọi là vườn vì cây cối ở đây mọc tự nhiên, không có những pho tượng trầm mặc cũng chẳng có vòi phun nước lộng lẫy. Vincenne có một cái hồ thiên nhiên nho nhỏ với nào là thiên nga, vịt xám, le le. Người bạn tôi sống gần đấy có cái thú đem vụn bánh mì ra phân phát cho chúng. Tôi thấy lòng vô cùng bình an được ngắm đàn thủy cầm tung tăng bơi lội và những cụ già cùng trẻ nhỏ hào phóng vung tay ban phát thức ăn. Những con quạ, chim chóc và cả các chú sóc bé bỏng từ trên các nhánh cây cũng sà xuống nũng nịu đòi quà.
Paris còn biết bao khu vườn và công viên xinh đẹp nằm rải rác khắp nơi. Những khoảng xanh tĩnh lặng ấy được người dân Paris hào phóng dành tặng thật nhiều diện tích. Vào những ngày nắng ấm, họ không ở trong những căn hộ bé tí chật chội của mình mà ùa cả vào những nơi có cây xanh, trên tay một cuốn sách, ai cũng chăm chú vừa nghe chim hót vừa trải lòng vào những dòng văn thơ. Tôi đã hiểu vì sao người Pháp là một trong những dân tộc yêu văn chương nhất thế giới. Hẳn Anatole France không thể có được bài thơ Ngày tựu trường tuyệt đến thế nếu ông không đi qua vườnLuxembourg vào một chiều đầu thu. Và hẳn tôi không thể có được cảm xúc trào dâng mỗi khi được quay lại Paris nếu kinh thành ánh sáng thiếu đi những khu vườn. Những khu vườn văn thơ…

o O o

NHỮNG CHIẾC CẦU THÀNH BA-LÊ
Thuở còn mộng mơ, tôi thích bài Le pont Mirabeau của văn hào Guillaume Apolinaire (1880-1918) vì những câu thơ lãng mạn “Sous le pont Mirabeau coule la Seine – Vienne la nuit, sonne l’heure – Les jours s’en vont je demeure” (tạm dịch: “Dưới cầu Mirabeau trôi dòng Seine – Đêm cứ đến, giờ cứ điểm – Tháng ngày cứ trôi, tôi vẫn còn đây”). Bài thơ này tả chiếc cầu Mirabeau ở Paris và dòng sông Seine êm đềm. Tác giả hẳn đang đứng trên cầu nhìn dòng sông trôi, nghĩ đến mối tình đã qua của mình, thời gian cứ thế cuốn cuộc tình đi, chỉ còn mình ta ở lại.
Cầu Mirabeau
Sông Seine được người Pháp gọi là “La Seine” (giống cái), ý nói dòng sông mềm mại, lãng mạn, gợi cảm như người phụ nữ. Và cô nàng Parisienne này chảy vắt qua thành Ba-lê trứ danh với ba mươi hai chiếc cầu. Khi đến Paris lần đầu, tôi hơi thất vọng thấy “dòng Seine” không được kiều diễm như mong đợi, song vẫn nuôi hy vọng tìm đến cầu Mirabeau xem thế nào. Một ông người Pariskhi đó thắc mắc “Sao trong vô vàn những chiếc cầu ở Paris cô lại chọn Mirabeau?”, khi biết lý do, ông nhún vai “Đúng là văn thơ chỉ làm thi vị hóa thêm cuộc đời”. Khi đặt những bước chân đầu tiên lên cầu Mirabeau, tôi thấy ông này quá khắt khe. Vì Mirabeau không hẳn là chiếc cầu đẹp nhất thành Ba-lê nhưng nó cũng xứng đáng được nhà thơ Guillaume Apolinaire chọn. Và tôi chắc rằng chẳng có nhà thơ nào ở Sài Gòn có thể làm nên những câu thơ như “Dưới cầu Bông trôi dòng kênh Nhiêu Lộc” hay “Dưới cầu Chà Và trôi dòng sông Sài Gòn”. Quả thật, chẳng có một chiếc cầu nào ở Việt Nam mình có thể sánh bằng cầu Mirabeau nói riêng và những chiếc cầu khác nói chung ở thành Ba-lê.
Cầu Mirabeau được xây xong vào năm 1896 bằng kim loại có dáng vẻ mềm mại. Cầu được trang trí bằng bốn biểu tượng: Thành phố Paris, Thần Thương Mại, Hàng Hải và Sự Sung Túc.
Cầu Neuf
Tuy vậy, công bằn mà nói, cầu Mirabeau không phải là chiếc cầu đẹp nhất nếu so sánh với cầu Neuf hay cầu Alexandre Đệ Tam. Cầu Neuf có nghĩa là cầu Mới. Thế nhưng đây là chiếc cầu cổ xưa nhất Paris, được xây từ năm 1578 dưới thời vua Henri Đệ Tam, nhưng do nhiều lý do khách quan, mãi đến thời vua Henri Đệ Tứ cầu mới được hoàn thành vào năm 1694. Trên cầu Neuf, tượng vua Henri Đệ Tứ đang cưỡi ngựa bằng đồng là một trong những pho tượng cổ xưa và thu hút du khách nhất Paris. Dưới những bệ cầu, hai bên hành lang và tại các chốt nghỉ chân là vô số những tượng của các vị thần được điêu khắc công phu. Chiếc cầu quả xứng đáng là một trong những cây cầu đẹp nhất kinh thành ánh sáng. Nhất là khi cầu Neuf bắt ngang đảo Cité (Ile de la Cité), hòn đảo tí hon xinh xinh nằm giữa dòng Seine. Nếu là một du khách lần đầu đếnParis, bạn nên đến ngay cầu Neuf vì nơi đây bạn sẽ có những góc chụp hình rất lý tưởng để thu vào ống kính một Paris hoa lệ.
Cầu Alexandre Đệ Tam
Cầu Alexandre Đệ Tam theo đánh giá của cá nhân tôi, là chiếc cầu đẹp nhất thành Ba-lê. Cầu được khởi công từ năm 1896 và hoàn thành năm 1900. Với mục đích sử dụng làm giảm thiểu lưu thông ở nhà ga Invalides nhưng khi xây dựng, cầu Alexandre Đệ Tam lại đặc biệt đề cao tính mỹ thuật. Cầu được đánh giá là di sản văn hóa và là di tích lịch sử từ năm 1975. Với những họa tiết trang trí rất hoàng gia của cuối thế kỷ mười chín, cầu Alexandre Đệ Tam được chăm chút từng chi tiết nhỏ do nhiều nghệ nhân dày công sáng tạo nên. Ở trên các bệ cao mười bảy mét là những bức tượng bằng đồng được dát vàng lấp lánh. Ở phía dưới thân cầu, ngoài dãy cột đèn chính là các cột đèn lớn có những thiên thần bao quanh đẹp rực rỡ. Ngoài ra tại các thành cầu, là những bức phù điêu vô cùng sắc sảo. Cầu Alexandre Đệ Tam được xem là chiếc cầu rộng nhất thành Paris.
Paris còn vô số những chiếc cầu lớn nhỏ khác mà nếu có thời giờ bạn có thể lượn lờ đi từ bờ đông sang bờ tây và ngược lại hết năm này sang năm khác cũng chẳng bao giờ thấy chán. Cầu nhỏ (Petit Pont) và cầu Notre Dame cũng là những chiếc cầu đẹp, dù không hoành tráng bằng Alexandre Đệ Tam nhưng do chúng bắt sang đảo Cité nên vị trí của chúng rất lý tưởng để ngắm Paris.
Paris nếu không có những chiếc cầu, hoặc Paris mà không “trôi dòng Seine” thật chẳng còn là Paris, một Paris của thi ca, của tình yêu, của cái đẹp toàn bích và lãng mạn. Vì thế, dù chẳng còn ở tuổi mộng mơ, tôi vẫn không nguôi giấc mơ quay lại thành Ba-lê, để được ngâm nga “Dưới cầu Mirabeau trôi dòng Seine – Đêm cứ đến, giờ cứ điểm – Tháng ngày cứ trôi, tôi vẫn còn đây”

o O o

PARIS VÀ GIẤC MƠ SHOPPING
Ai cũng biết Paris không những là kinh thành ánh sáng, là kinh đô thời trang, là trung tâm giải trí, mà Paris còn là thiên đường mua sắm.
Biết vậy, nên lần đầu đến Paris năm 1998, tôi lận túi vài ngàn francs Pháp (chừng vài triệu đồng). Người quen ở Việt Nam giao cho tôi “sứ mệnh” phải tha về nào dầu thơm, mỹ phẩm, áo quần, giày dép. Hỡi ơi! Liếc sơ vào những cửa kính trong veo ở các khu thương mại nổi tiếng (đường Saint Honoré, đại lộ Haussman, đường Montaigne, đường Champs Elysée), tôi gần ngất xỉu vì giá tiền vượt quá sức tưởng tượng của một con bé “nghèo mà chảnh”. Khi nghe tôi rên, những người bạn Pháp cười ngất: “Paris chỉ là thiên đường mua sắm cho giới quý tộc châu Âu, giới nghệ sỹ Hollywood hoặc khách du lịch Nhật Bổn! Họ “chơi” hàng hiệu của Cartier, Louis Vuiton, Channel. Còn dân Paris chính hiệu cũng không sờ nổi vào những món hàng cực kỳ xa xỉ đó đâu!”
TaTi muôn năm
Năm 2000 tôi quay lại Paris. Không dám bén mảng đến mấy khu sang trọng nữa, tôi mon men đến những quận nghèo của người nhập cư, dân da đen, người Pháp có mức sống trung bình. Theo sự hướng dẫn của một người Paris, tôi đặt chân lần đầu đến “đại bản doanh” của “thiên đường mua sắm giới trung bình” ở khu Barbès. Đó chính là TaTi. Một cái tên nghe dễ thương như người ta gọi con nít. Tôi không quan tâm về lịch sử kinh doanh hàng giá rẻ của TaTi cũng như TaTi vì sao lại có thể bán với giá “như cho”. Tôi chỉ biết mờ mắt nhào vô chụp đủ thứ nào quần áo, dầu thơm, mỹ phẩm, hàng trang trí… Sau lần “ra quân” thắng lợi, tôi tay xách nách mang đem hàng đựng trong những cái túi màu hồng nhạt kẻ ca-rô, một màu hồng đặc trưng của TaTi từ mấy chục năm nay về. Tuy nhiên, sự đời, tiền nào của đó, sau một thời gian “bình tĩnh lại”, tôi nhận thấy hàng của TaTi có chất lượng không mấy cao. Vậy nhưng, bạn đừng ngạc nhiên nếu những lần sau quay lại Paris, tôi vẫn tiếp tục bị “hấp lực” của TaTi lôi đến khu Barbés.
Dân Paris có câu “Hàng hiệu dành cho khách du lịch, TaTi dành cho ta!” Nếu trước kia chỉ có giới nhà nghèo mới lui tới TaTi thì những năm sau này, nhất là khi thất nghiệp và lạm phát tăng, đa phần dân Paris đều mua hàng của TaTi và chuỗi cửa hàng TaTi ngày càng bành trướng ra khắp các tỉnh khác. Công bằng mà nói, ở TaTi, nếu đừng choáng váng ham rẻ quơ tùm lum mà chịu khó chọn lựa tùy mặt hàng, bạn có thể mua rất nhiều đồ có chất lượng với các giá quá sức bèo. Tôi có thể ví dụ, một chai dầu thơm 200ml, “made in France” đàng hoàng, giá chỉ từ năm đến bảy Euros. Cũng một chai dầu thơm cùng dung tích đó, hàng hiệu “Chanel N5” hay “Christian Dior” bán trong Galeries Lafayette (đại bản doanh hàng hiệu ở Paris), giá trên một trăm Euros. Sở dĩ dầu thơm trong TaTi rẻ vì sản phẩm làm từ những xí nghiệp ở các tỉnh, chưa có thương hiệu, chưa tốn ngân sách làm marketing. Còn bao bì và mùi hương hoàn toàn có thể cạnh tranh với đồ xịn. Ngoài những sản phẩm có chất lượng nhưng chưa có tên tuổi, TaTi còn bán đồ hiệu hẳn hoi, loại hàng cần giải quyết tồn kho hoặc màu sắc hơi lỗi thời. Quần áo, mỹ phẩm, hàng gia dụng, đồ chơi… tha hồ cho bạn chọn, chỉ từ vài Euros cho đến mười mấy Euros là hết mức. Bà bạn Paris của tôi tự hào cho biết bà là chuyên gia đi lùng hàng xịn ở TaTi. Cũng cái gương hình mặt trời, ở TaTi chỉ bán năm Euros, nhưng tại một cửa hàng trang trí nội thất khác, giá là ba mươi Euros.
Hàng hiệu giá bình dân
Ngoài TaTi, Paris cũng có những hiệu quần áo dành cho giới trẻ như Jennifer, H&M, Pimky… với giá rất phải chăng. Gặp ngay cao điểm mùa “solde” (đại hạ giá), tôi có thể “vớt” một cái áo đầm rất độc đáo chỉ với bốn Euros trong H&M hoặc một cái áo thun giá hai Euros trong Jennifer.
Nếu bạn đừng nghĩ rằng mỹ phẩm nhất thiết phải đắt tiền, đến Paris, hãy vào Yves Rocher. Chuỗi cửa hàng Yves Rocher được rải đều khắp nơi, từ nhà ga, hầm xe điện ngầm đến cả những khu sang trọng. Yves Rocher của Pháp giống “The Body Shop” của Anh ở chỗ giá cả trung bình dành cho đại đa số. Những ai có thu nhập vừa phải mà lại có nhu cầu dùng hàng chất lượng, đều là khách hàng thân tín của Yves Rocher. Dân châu Âu do thời tiết thay đổi quanh năm nên rất cần dùng các loại kem dưỡng da, kem chăm sóc những vùng nhạy cảm và nước hoa. Yves Rocher đảm bảo một game hàng phong phú, bao bì dễ thương và giá cả hợp lý (khác với Nivea chỉ bán trong siêu thị, bao bì cố định và có mỗi một mặt hàng kem dưỡng da). Ngoài ra, Yves Rocher rất năng động trong kinh doanh, thường có những đợt khuyến mãi rất hấp dẫn. Lần nào đến Paris tôi cũng gom về một mớ nào son phấn, dầu gội, kem dưỡng… Và dĩ nhiên, khuyến mãi thứ gì tôi mua thứ ấy nên một cây viết chì kẻ mắt chỉ còn hai Euros, một thỏi son chỉ còn năm Euros, một hộp kem dưỡng da chỉ còn bảy Euros.
Mỗi khung kính mở ra một giấc mơ shopping
Lần đi Paris mới đây của tôi rơi vào dịp cuối năm, gần Giáng Sinh nên bà con shopping rất khiếp. Tôi đến đại lộ Haussemann có cửa hàng Printemps và Galaries Lafayette, một tòa nhà cổ có mái vòm tuyệt đẹp để… chụp hình. Ban đêm, tòa nhà được trang trí đèn cực kỳ sống động. Tôi dán mắt vào những cửa kính bên ngoài, tha hồ ngắm những con búp bê, những con rối được thiết kế nhún nhảy theo tiếng nhạc vui tai. Mỗi một khung cửa kính là một điệu nhạc khác, những con búp bê khác, đang ăn tối, đang dự sinh nhật, đang chơi thể thao… Vô cùng dễ thương! Chỉ có vào dịp Giáng Sinh này các cửa kính mới được trang trí như thế. Chẳng trách trẻ con xúm đen không chịu đi.
Dân Paris ví von mỗi khung kính mở ra một giấc mơ shopping. Vì thế trẻ con nuôi mộng mua sắm từ rất sớm, tạo ra một xã hội tiêu thụ cao. Ba mẹ chúng dân trung bình nên không dắt díu nhau vào bên trong làm gì. Bởi Galaries Lafayette chỉ dành cho ParisHilton, Victoria Beckham, công chúa Caroline xứ Monaco… những nhân vật tiêu tiền không xót cho việc mua sắm. Hãy thử tưởng tượng, thương hiệu đồ lót Aubade ở Sài Gòn được bán trên đường Đồng Khởi với giá cực đắt thì tại Galaries Lafayette, hàng này bị đổ thành một nhúm thảm hại. Ngoài ra, nơi đây còn là “thánh địa” cho khách du lịch Nhật, gần đây là Hàn Quốc rồi Trung Quốc. Và theo đánh giá của cá nhân tôi, sắp tới là khách du lịch Việt Nam, tầng lớp nhà giàu mới do kinh doanh địa ốc và chơi chứng khoán. Vì chính mắt tôi trông thấy những du khách Việt tỉnh bơ bốc từng nắm tiền toàn tờ một trăm Euros để mua hàng tại Galaries Lafayette. Thương thay cho dân Paris vẫn thường ganh tị chặc lưỡi “Dịch da vàng!” khi thấy từng đoàn khách du lịch châu Á hùng hổ vác cả chục cái túi hàng hiệu từ đây đi ra!
Hãy để Paris làm bạn mơ mộng với túi xách Louis Vuiton, với nước hoa Chanel No.5, với áo váy Yves Saint Lauren và mỹ phẩm Lancôme. Riêng tôi, dẫu mai sau có thành triệu phú (tiền Euros), tôi chẳng ngại ngùng chi mà rằng: “TaTi muôn năm!”.

o O o

PARIS ĐÊM VỀ
Paris được mệnh danh là kinh thành ánh sáng. Ánh sáng của văn minh, của nghệ thuật, của cái đẹp toàn mỹ. Điều này cũng có thể hiểu một cách đơn giản nếu bạn ở Paris khi đêm về. Thành phố được thắp sáng một cách rực rỡ nhưng chừng mực, đủ để làm nên một Paris by night sang trọng và lấp lánh. Những công trình kiến trúc được chiếu sáng theo một hệ thống đèn có tính toán, làm toát lên những góc cạnh huy hoàng trên cái nền đêm đen vô cùng quyến rũ. Này là Nhà Thờ Đức Bà (Notre Dame), này là giáo đường Thánh Tâm (Sacré Couer), này là Khải Hoàn Môn (L’arc de Triomphe), và còn tháp Eiffel nữa… bấy nhiêu đó đủ để bạn thấy yêu Paris khi màn đêm buông xuống. Rồi đại lộ Champs-Elysée triệu ánh đèn vàng, lóng lánh trên những hàng cây chạy dọc hai bên đường. Những bồn phun nước trên các quảng trường cũng được chiếu sáng, lung linh nhảy múa theo từng giọt nước tung trào. Ở khu ăn chơi Moulin Rouge, hàng vạn ánh đèn màu mặc sức tung hoành cổ vũ cho thế giới vũ hội.
Làm việc trong đêm
Thế nhưng Paris về đêm không chỉ có đèn, có nhạc, có tiếng cười của những du khách thập phương. Paris ôm trong lòng những góc khuất, những ngõ nhỏ, những con người đang âm thầm sống và lao động dưới ánh đèn đêm. Tôi không muốn bị lụy hóa khi đề cập đến giới ăn sương, đám lang thang hay những thân phận nằm ngoài rìa xã hội mà thành phố lớn nào cũng có. Tôi chỉ muốn nhắc đến những con người phải làm việc về đêm như các cảnh sát đường phố, những phục vụ bàn của các quán cà phê vỉa hè, những công nhân vệ sinh, những người bán hàng rong… Họ sống lương thiện và cần cù, có phần chất phác và dễ thương hơn những đồng nghiệp của họ làm việc ca ban ngày.
Hồi mới sang Paris lần đầu, tôi rất muốn được một mình lấy xe điện ngầm ra trung tâm bách bộ xem Paris by night. Những người Việt kiều thấy thế vội ngăn bằng cả tá vụ án về đêm. Nào là “hiếp dâm trong xe bus”, “bị đâm trong nhà vệ sinh công cộng”, “bị cắt cổ trong khu vắng người”. Quá “rét”, tôi không dám đi đâu ngoài những trung tâm shopping đèn hoa rực rỡ. Nhưng chỉ cần dừng chân trên vỉa hè đại lộ Champs Élysée xinh đẹp, tôi đã tiếp cận với những anh chàng da đen bán hàng rong. Họ trải tấm nhựa ra đường, bày lên đó những hình nhân nhảy múa, những móc khóa hình tháp Eiffel, những chiếc áo thun in dòng chữ “J’aime Paris” (Tôi yêu Paris). Tôi đã đòi mua vài móc khóa rồi trả giá kỳ kèo làm cô Việt kiều đi chung nhăn mặt xấu hổ “Ở Paris mà nó mặc cả như đi chợ Cầu Muối!”. Vậy mà thành công. Để rồi sau phút giây hí hửng vì mua được món hời, tôi ân hận khi thoáng nhìn thấy ánh mắt buồn thăm thẳm của người bán hàng da đen. Hẳn anh đã kỳ vọng tôi hào phóng như một du khách Nhật rồi đành bán giá thật bèo, đủ để kiếm miếng ăn đắp đổi qua ngày ở cái nơi đắt đỏ thế này. Không hiểu sao cũng cùng món hàng đó, cùng địa điểm đó, nhưng khi màn đêm buông xuống, hàng tự động rớt giá, người bán có cái chộn rộn khó tả, người mua cũng bần thần làm sao.
Thân thiện đêm về
Những năm sau quay lại Paris, tôi không còn thời giờ dạo phố đêm mà chỉ tranh thủ lúc ăn tối để ngắm Paris dưới ánh đèn và lại gặp những người làm việc theo ca ba. Những nhân viên cảnh sát cười toét miệng hỏi tôi đến từ đâu rồi vui vẻ đứng “tám chuyện” đến mức quên nhiệm vụ. Một người giao hàng chạy xe tay ga đang tranh thủ phóng lên vỉa hè và lạng lách giữa những quán cà phê. Tôi nhanh tay chộp được tấm hình rồi cả cười chọc dân Paris cũng chẳng văn minh gì mấy. Cảnh sát thanh minh về đêm ai cũng làm việc một cách dễ dãi hơn, mà cô nàng chạy xe trên vỉa hè đó cũng phải mưu sinh vất vả, chắc giao hàng gấp nên mới phạm luật giao thông.
Rồi một lần tôi có thời giờ nên dừng chân trước một quán cà phê vỉa hè và ngồi xuống gọi nước. Chàng phục vụ trẻ tuổi cho tôi biết ngồi ngoài vỉa hè giá mắc hơn ngồi trong nhà, nhưng chàng sẽ dối ông chủ, chỉ tính tiền cho tôi bằng giá bên trong. Buồn cười vì ở Việt Nam mình thường ngồi vỉa hè là nghèo hèn, ngồi phòng máy lạnh nhìn phố qua cửa kính mới là sang, tôi cũng cảm ơn anh chàng phục vụ rối rít và giữ chân chàng ở lại để “tán tỉnh” vài câu. “Chàng” còn trẻ quá, mới mười tám mà thôi, đi làm ban đêm để dành tiền vào đại học.
Giấc mơ trong lành
Mới đây nhất tôi sang Paris khi thành phố đang phát động mọi người dùng xe đạp để bảo vệ môi trường và nhất là để “chấp” các loại xe công cộng thường xuyên biểu tình. Dân Paris giờ sắm xe đạp để đi làm, hoặc nếu không có chỗ để xe do phải sống trong những căn hộ chật hẹp, họ đành thuê xe. Và dịch vụ cho thuê xe cũng làm ăn vào ban đêm để phục vụ khách du lịch. Trước cửa khách sạn “Hotel de Lourve” chỗ tôi trọ, một dãy xe đạp dạ quang sáng rực trong đêm đã hút tôi đến gần. Trốn dạ tiệc “Gala diner” của công ty, tôi thuê một chiếc xe đạp, rồi chạy vòng quanh quảng trường gần đó ngắm Paris đêm. Này là “Comedie francaise”, nhà hát kịch Pháp, có một hàng người đang xếp hàng chờ mua vé vào xem. Này là viện bảo tàng Lourve lấp lánh từ những kim tự tháp bằng kính và dãy cột đèn đường cổ xưa. Này là quảng trường Concorde có bồn phun nước lãng mạn được chiếu sáng rất chừng mực. Này là một trạm xe điện ngầm được trang trí bằng những bóng đèn xanh đỏ hình vương miện rất ngộ nghĩnh. Khi tôi quay về chỗ thuê xe, tôi bị lố giờ nhưng cô bé cho thuê thân tình nói không tính thêm. Cô này thật hiền và có vẻ thẹn thùng khi tôi khen có cặp mắt đẹp. Cô đến từ Roumani, tìm được việc làm ban đêm này để mưu sinh và có tiền gởi về nước giúp gia đình.
Những mảnh đời của Paris đêm, những con người mộc mạc dễ thương, những nhân công góp phần làm Paris thêm duyên dáng. Và khi những ánh đèn trên cao dần phụt tắt, nhường những tia nắng yếu ớt của một ngày mới đang e dè chiếu sáng, họ mệt mỏi lên xe điện ngầm của chuyến đầu tiên về nhà. Cầu cho họ có một giấc ngủ bù bình yên, và những giấc mơ trong lành. Paris by night của tôi là thế, tràn ngập ánh sáng, và tràn ngập tình thân hữu với những con người lao động trong đêm.

o O o

BREST SẤM SÉT
Nếu ai hỏi trong số các thành phố tôi qua ở gần hai mươi nước Á-Âu, tôi yêu nơi nào nhất. Tôi sẽ không suy nghĩ lâu mà rằng:Brest! Bạn có biết Brest là ở đâu, thuộc nước nào và tại sao lại làBrest? Tôi cũng luôn tự hỏi, sao không là Paris hoa lệ, là La Mã cổ kính, là Luân Đôn ngựa xe tấp nập, là Oxford với những tòa tháp trong mơ, là Liège nơi tôi trải qua một năm ròng du học?
Brest hầu như vô danh, tôi chỉ nghe đến Brest khi ngày nhỏ đọc truyện tranh Tintin (nguyên bản tiếng Pháp), thấy ông thuyền trưởng Haddock hay quạu quọ thốt lên: “Tonnerre de Brest!” (tạm dịch “Brest sấm sét!”) khi gặp xui xẻo. Và một lần tình cờ đọc được đâu đó câu tục ngữ: “On ne passe jamais par Brest, il fault y avoir une raison d’y aller” (tạm dịch: “Người ta không bao giờ đến Brest, phải có lý do gì mới đến đó!”)
Bến cảng thân thiện
Vậy mà lần đầu tiên trong đời được xuất ngoại, lúc tôi hồi hộp được đặt chân đến Paris trứ danh thì người ta cho tôi đến cái xứ “sấm sét” đó. Brest nằm tuốt luốt ở miền Tây Bắc nước Pháp, thuộc vùng Bretagne xinh đẹp, đi máy bay từ Paris cũng mất hơn một tiếng đồng hồ. Tôi chắc lưỡi: “Thôi thì hy vọng gặp được vài chàng thủy thủ đẹp trai ở phố cảng này vậy!”. Ấy thế mà hôm đầu đến Brest lại là ngày chủ nhật của tháng bảy, thời điểm dân Tây hè nhau đi nghỉ mát hàng loạt. Phố xá im lìm buồn, gió phe phẩy trên những luống hoa cẩm tú cầu (hortensia), không một bóng người, chẳng một tiếng động. Tôi tự hỏi: “Phải thành phố ma?”
Từ ký túc xá Lanredec, tôi và Quỳnh, cô bạn thân, rụt rè lú mặt ra đường rồi lò dò một chập ra được đến bến cảng trong làn gió hè tê tái (mùa hè nhưng trời vẫn lạnh, chừng 20 độ). Ở bến cảng có những con tàu đang neo nhấp nhô, một tốp những người đàn ông tụ tập câu cá xôm tụ. Chúng tôi mừng rỡ nói với nhau: “Thành phố có người!” rồi nhí nhảnh đứng tạo dáng chụp hình đủ kiểu. Chắc hành động của chúng tôi không giống ai nên thu hút ngay tức khắc sự chú ý của tốp đàn ông đang câu cá. Họ nhào đến thân thiện cười và mở miệng làm quen bằng tiếng Anh lốp bốp. Khi biết chúng tôi nói được tiếng Pháp và đến từ Việt Nam, họ bạo dạn hẳn lên. Một ông xung phong chụp cho hai đưa những kiểu hình với nền phía sau là những cánh buồm trắng căng tròn trong gió, là những con hải âu chao liệng trên trời xanh, là sóng biển đang rì rào tung bọt vào cầu cảng. Một ông khác chạy tìm mấy cái thùng gỗ rồi cởi áo khoác phủ lên cho chúng tôi ngồi xuống. Một ông “sồn sồn” đem tặng những con cá tươi rói vừa câu. Bạn tôi xua tay: “Cám ơn, nhưng chúng tôi ở ký túc xá, lại không biết làm cá!”. Vậy là ông ta nhanh nhẹn ra lệnh cho một thằng bé đem cá xuống cầu cảng moi ruột sạch sẽ để chúng tôi có thể đem về chế biến liền. Ông tự tiếp thị: “Tôi còn độc thân!”. Tôi hỏi lại: “Độc thân lần thứ mấy?”. Cả hội cười ồ còn ông tỉnh bơ: “Cô em ghê thật!”.
Hí hửng đem mấy con cá và lời hẹn hò “Chiều chiều ra cảng chơi!”, chúng tôi quay về ký túc xá rồi lại háo hức thám thính Brest theo hướng khác. Những con phố rực rỡ sắc hoa làm chúng tôi choáng ngợp. Người ta treo hoa hồng lơ lửng trên tường đá và trồng những bụi cẩm tú cầu đủ màu sắc trước cửa nhà. Ngất ngây trước vẻ đẹp này, chúng tôi len lén… mở cửa rào chui vào chụp hình loạn xạ. Một đoạn phố khác lại thơ mộng vô cùng với những dây leo đỏ rực phủ kín những bức tường đá xám. “Đây là thành phố hoa! – chúng tôi gào lên – Không phải thành phố ma!”.
Xa quê hương ngộ cố tri
Hôm sau thứ hai đầu tuần, chúng tôi ra xe bus đi học ở trường CIEL (Centre International d ‘Etudes de Langues). Đây là ngôi trường chuyên dạy ngôn ngữ cho con nhà giàu châu Âu. Toàn con em trong những gia đình “trâm anh thế phiệt” từ các nước Bắc Âu, Đức, Áo, Thụy Sĩ, Anh, Ý… cắp cặp vào lớp. Họ phải đóng tiền học hè rất đắt nên khi biết hai đứa Việt Nam được “học chùa” một tháng thì lấy làm ganh tị. Chúng tôi nhanh chóng kết bạn với một cô bé xinh xắn Thụy Sĩ mười sáu tuổi, một chàng Tây Ban Nha bảnh tỏn và một cô bạn bốc lửa người Thụy Điển. Từ đó, nhóm chúng tôi liên tục hẹn nhau ở Tòa Thị Chính có vòi phun nước đẻ la cà đây đó. Nhưng rồi “không chơi lại” đám teenagers nhà giàu này vì tụi nó toàn rủ vào các bar và nhà hàng, hai bà chị Việt Nam đành tìm cớ tách ra.
Một lần, hai đứa đang cúp cua lang thang trên đường thì một bà gọi lại hỏi bằng tiếng Pháp: “Các cháu người Việt Nam hả?”. Chúng tôi mừng run gặp được đồng hương. Chưa bao giờ trong đời tôi thấm thía câu “Xa quê hương ngộ cố tri” như vậy. Bà Đậu hẹn cuối tuần mời chúng tôi đến nhà đãi tiệc và giới thiệu với những cô chú Việt kiều khác. Giờ đây, đã đi khá nhiều nơi, đã gặp một số đồng hương, nhưng với tôi, Việt kiều tại Brest là nhiệt tình và đáng kính nhất. Sau khi biết bà Đậu “nhặt” chúng tôi trên đường, các cô chú Việt kiều thay phiên nhau chở chúng tôi đi chơi và đem về nhà đãi ăn tưng bừng khói lửa.
Lễ hội “thứ năm ở cảng”
Brest còn là nơi diễn ra lễ hội “Jeudi du port” (Thứ năm ở cảng) vào mỗi thứ năm hàng tuần trong mấy tháng hè. Hằng năm cứ vào thời điểm này, dân Pháp và cả các nước châu Âu khác đều tụ về cùng dự. Đã gọi là lễ hội nên bến cảng ngập tràn tiếng nhạc, những màn văn nghệ tạp kỹ, các vũ công và khán giả đều ngất ngây trong những giai điệu ngày hè tha thiết. Mùi thơm quyến rũ của bánh crêpe Bretagne, đặc sản ở đây, bốc lên tra tấn hai đứa tôi vốn giàu tâm hồn ăn uống nhưng lại nghèo tiền bạc. Bánh crêpe được chế biến giống bánh xèo, bột đổ ra, rắc ở giữa phô-mai, jăm-bông, trứng, xúc xích… Hoặc nếu muốn ăn ngọt, bạn sẽ được nhét vào bánh crêpe mật ong, chocolate, mứt trái cây…
Thường sau mỗi tối thứ năm “xả láng” với lễ hội, sáng thứ sáu Brest thật yên bình. Chúng tôi lại lang thang dạo quanh thành phố, này là cầu Recouvrance, này là pháo đài bằng đá, này là tháp Tanguy… Người dân Brest sao mà thân thiện quá, ai cũng cười tươi và nhiệt tình hỏi “Các bạn có cần gì không?” khi thấy chúng tôi cầm bản đồ trên tay. Ngay cả cảnh sát mà cũng dễ thương, thân mật chỉ dẫn cách gia hạn visa để có thể ở lại Pháp chơi thêm. Nhớ Brest, tôi viết truyện “Tú cầu vùng Breatagne” (trong tuyển tập Bồ câu chung mái vòm) với hy vọng có dịp được quay về.
Sau lần đầu tiên đến Brest năm 1998 đó, quả thật tôi đã quay lại vài năm sau và… vài năm sau nữa. Brest hầu như không thay đổi. Vẫn những con phố rực hồng sắc hoa, vẫn những đóa cẩm tú cầu rung rinh trong gió, vẫn đây tháp Tanguy, vẫn đó bến cảng hiền hòa cùng những người câu cá và đàn hải âu chao liệng trên không. Chưa bao giờ tôi gặp được một chàng thủy thủ đẹp trai bước ra từ một con tàu với cánh buồm đỏ thắm. Nhưng tôi sẽ không bao giờ hối tiếc, bởi ở Brest, tôi đã luôn tìm được lý do để quay về. Và bởi vì, chừng nào tôi chưa thôi thắc mắc tại sao thuyền trưởng Haddlock lại nói “Brest sấm sét!”, Brest vẫn hoài là nơi tôi yêu quí nhất trên đời.

o O o

MONT SAINT MICHEL: NƠI GIẤC MƠ ĐÃ BIẾN THÀNH HIỆN THỰC
Trong nhà tôi có một tấm poster hình một hòn đảo nhỏ nổi lên ngoài khơi. Trên đảo, nhà cửa mọc vòng quanh và trên đỉnh là ngọn tháp nhà thờ vút cao tuyệt đẹp. Tấm poster treo đã úa trên một cánh tủ, từ thời nào chẳng rõ. Mỗi khi có dịp ngắm gần, tôi lại nôn nao tự hỏi “Biết đến bao giờ mình mới có dịp đến đây?”
Mont Saint Michel là đâu?
Trong lần xuất ngoại đầu tiên, tôi đến Pháp và được đưa đến học ở trung tâm ngoại ngữ CIEL. Và ngay weekend đầu tiên, trường tổ chức cho sinh viên đi chơi ở “Mont Saint Michel”. Tôi không biết địa danh này có gì hấp dẫn, nhưng cứ đăng ký vì tôi được đi miễn phí. Buổi sáng hôm đó trời mưa lất phất, lạnh tê tái dù đang hè.
Tôi ngồi gần một chàng Tây Ban Nha cực kỳ “bảnh”. Sau vài câu chào hỏi làm quen, Maurico vui vẻ cho tôi… dựa vào vai đánh một giấc. Hai đứa hồn nhiên chụm vào nhau ngủ gà gật mãi cho đến khi nghe dân tình xôn xao: “Đến rồi! Đến rồi! Đẹp quá!”. Tôi choàng tỉnh nhìn thẳng ra kính xe trước mắt, hòn đảo nhỏ có ngọn tháp nhà thờ vút cao hiện ra như một giấc mơ. Mont Saint Michel đây sao? Đó chính là tấm poster cũ kỹ treo trong nhà khiến tôi luôn ao ước được một lần đặt chân đến. Quá phấn khích như tình cờ gặp một người thân giữa chốn xa lạ, tôi chỉ còn biết rên lên “Trời ơi!” rồi ngã phịch xuống ghế. Maurico bật cười, nhìn tôi ra vẻ thấu hiểu nhưng tôi chắc không ai có thể chia sẻ với mình niềm hân hoan này.
Thủy triều với tốc độ phi mã
Xe tiến đến Mont Saint Michel bằng một con đường xây trên cát. Thủy triều đang xuống làm lộ rõ hòn đảo nhỏ nằm trơ trụi trên cát xám mênh mông. Người hướng dẫn cho chúng tôi biết hòn đảo nằm trên vùng cát không chắc chắn, xung quanh có những bãi cát lún khá nguy hiểm. Sơ suất có thể bị nuốt chửng xuống cát như chơi. Và khi thủy triều lên với vận tốc phi mã, nước biển bao phủ hoàn toàn con đường xe đang chạy, làm Mont Saint Michel cô lập với thế giới trong phút chốc. Đã có nhiều trường hợp khách du lịch không quan tâm đến giờ báo động, bị tử nạn vì trực thăng cứu trợ đến không kịp. Chúng tôi hãi hùng “Ghê quá!” nhưng đã được trấn an con số khách phải về với Chúa khi đến đây là cực hiếm. Tuy vậy, Mont Saint Michel được xem là độc nhất vô nhị trên thế giới với địa hình nguy hiểm này. Hằng năm, vào một thời điểm nào đó thuận lợi, người ta còn tổ chức cho người thi chạy đua với thủy triều. Và chưa bao giờ con người chiến thắng được tốc độ nhanh như ngựa phi nước đại của thủy triều nơi đây.
Xưa và nay
Mont Saint Michel trong tiếng Pháp có nghĩa là núi thánh Michel. Thế nhưng đến đây người ta không thấy núi mà là đảo. Và đã từ 1300 năm nay, hòn đảo này được biết đến với tên gọi Mont Saint Michel. Theo thống kê của bộ Du lịch Pháp, sau tháp Eiffel và cung điện Versaille, Mont Saint Michel là điểm đến thu hút khách du lịch nước ngoài nhất. Nhưng cá nhân tôi lại đánh giá ngược lại, Mont Saint Michel phải chiếm vị trí số một, kế đến là điện Versaille và sau cùng mới là tháp Eiffel.
Tồn tại suốt 13 thế kỷ, hòn đảo độc đáo này vốn chỉ là một nhà thờ hiu quạnh. Năm 708, đức cha Aubert cho xây một nhà thờ nhỏ trên hòn đảo trơ trọi giữa biển. Quá trình xây dựng được kéo dài cả năm trời và liền ngay sau đó, với truyền thuyết thánh Michel hiện về báo mộng, nhà thờ có số lượng khách hành hương ngày càng đông đúc. Để phục vụ lượng khách này, xung quanh nhà thờ được xây thêm những căn nhà nhỏ dùng làm quán trọ, tiệm ăn, quán nước. Dần dần, một thị trấn nhỏ hình thành, nằm bao bọc nhà thờ và hòn đảo, được mọi người gọi là Mont Saint Michel. Ngày xưa có thể khách đến đây với mục đích hành hương, cầu nguyện, tìm những khoảnh khắc yên tĩnh để có một cuộc sống tâm linh phong phú. Nhưng ngày nay, tôi e rằng chẳng còn ai đến đây với cùng một mục đích. Bởi đơn giản, Mont Saint Michel không còn là chốn bình an, tịch mịch để nuôi dưỡng đức tin. Từng dòng người lũ lượt kéo đến rầm rập khắp mười hai tháng trong năm, chẳng khi nào ngơi nghỉ. Và trong thời Cách mạng Pháp, Mont Saint Michel đã biến thành nhà tù khổng lồ. Cảnh chém giết và tiếng than oán đã tồn tại trong căn nhà của Chúa. Hòn đảo nhỏ được xây một bức tường thành bao quanh, có cả hai khẩu thần công án ngự. Dọc đường leo lên nhà thờ trên đỉnh núi là những khách sạn nhỏ, những nhà hàng, tiệm bán quà lưu niệm, cờ phướn, áo T-shirt. Mont Saint Michel không thoát khỏi cảnh bị du lịch xâm chiếm. An ủi một điều, nơi đây được quy hoạch chuyên nghiệp nên không đến mức xô bồ. Trên hòn đảo tí hon có đầy đủ viện bảo tàng, bưu điện, trạm xá… Mọi thứ xem ra rất tiện nghi và thoải mái. Trong cảnh này, hỏi mấy ai còn tâm trí để cầu nguyện, thế mà các tu sĩ dòng ẩn tu Bénédictin vẫn trú ngụ tại đây làm nhiệm vụ phụng sự Chúa suốt hơn mười thế kỷ qua.
Trứng chiên và thịt cừu ướp sẵn muối
Vì không phải tu sĩ, tôi tận hưởng không khí hội hè của Mont Saint Michel một cách vui vẻ. Tháng tám là lúc cao điểm đón khách du lịch, ước lượng có đến 20.000 khách mỗi ngày. Tôi đứng trên sân thượng của nhà thờ nhìn xuống bãi cát mênh mông bên dưới, tưởng tượng một cách khó khăn cảnh thủy triều lên vùn vụt rồi cô lập Mont Saint Michel giữa biển sâu. Hiện tại biển rút ra xa ngút mắt, không thấy được dù chỉ một màu xanh thân thuộc. Maurico và vài người bạn trải khăn ra mời tôi cùng ngồi xuống ăn trưa. Chúng tôi đem theo bánh mì, táo, nước ép, kẹo chocolat. Vừa ăn vừa trò chuyện và hát vài bài dân ca của mỗi nước. Tôi thầm cám ơn Chúa đã gởi tôi đến đây dù tôi chưa một lần cầu nguyện. Hẳn người thấu hiểu giấc mơ được một lần đặt chân đến Mont Saint Michel của tôi trong suốt thời thơ ấu mỗi khi ngắm bức poster cũ kỹ. Và vào lúc bất ngờ nhất, tôi lại được đến đây. Cuộc sống thật kỳ diệu!
Buổi chiều, lúc trở xuống phía chân đảo chuẩn bị ra xe về, chúng tôi đi ngang những nhà hàng đặc sản. Anh hướng dẫn chỉ quán ăn “La mère Poulard” (Mẹ Poulard) nói trong này có món trứng chiên “Omelette à la mère Poulard” (trứng chiên theo kiểu mẹ Poulard) rất đặc biệt. Quán tồn tại đã hơn một thế kỷ nay và vẫn trung thành với món trứng chiên trong chảo gang độc đáo khiến khách du lịch luôn phải ghé vào. Tôi không thích tốn tiền chỉ để ăn một món trứng chiên nên chắc lưỡi bỏ qua. Anh hướng dẫn lại tiếp tục marketing cho một đặc sản của Mont Saint Michel, đó là thịt cừu ướp sẵn muối (mouton de pré-salé). Những con cừu được nuôi dưới chân đảo, ăn cỏ ngập mặn bởi nước biển, thịt chúng xem như được ướp sẵn muối, săn chắc và đậm đà. Món này chỉ có ở Mont Saint Michel, ai đến đây cũng nên nếm thử cho biết. Tôi lại chắc lưỡi “Không thích thịt cừu” dù cũng muốn nếm lắm. Thôi thì dịp khác, khi được quay về lại Mont Saint Michel, tôi sẽ ăn luôn cả hai món trứng chiên và cừu ướp muối.
Xe dần chạy xe, hòn đảo Mont Saint Michel lùi khuất sau đường chân trời. Tôi sẽ đính vào tấm poster cũ kỹ ở nhà bức ảnh mình chụp nơi đây. Một minh chứng tuyệt vời: Mont Saint Michel, nơi giấc mơ đã biến thành hiện thực.

o O o

THÀNH PHỐ Ý Ở PHÁP: NIMES
Nimes là thành phố nằm ở miền Nam nước Pháp nhưng nếu bạn bị bịt mắt đưa đến nơi, bạn sẽ nghĩ mình đang ở Ý. Vì thế, nếu một ngày nào đó bạn đến châu Âu mà không kịp thời giờ để đi nhiều nước, hãy nghe lời khuyên của tôi: đến Nimes và sẽ không hối hận!
Vết tích La Mã ở khắp nơi
Nimes là nơi người La Mã để lại nhiều vết tích với khá nhiều công trình xây dựng. Thành phố trông vừa cổ kính vừa hiện đại, vừa nhỏ nhắn vừa rộng rãi. Đường phố được phủ cây xanh rợp mát, các khu đi bộ rất yên bình, người dân cũng mang phong cách Ý. Có nghĩa là thích hội hè, thích thong dong và khá thân thiện.
Trong số những vết tích sót lại, đặc biệt nhất là đấu trường có hình tròn không khác gì với đấu trường La Mã Colosseum tại Rome. Đấu trường này có diện tích chỉ bằng một phần ba ở Rome nhưng cũng đủ thu hút khách du lịch khắp nơi tìm về. Ngày nay, ngoài việc bán vé cho khách vào xem một di sản văn hóa, đấu trường ở Nimes còn được dùng làm sân khấu ngoài trời. Các ca sĩ tổ chức liveshow thường chọn địa điểm này vì vị trí trung tâm nằm lọt ở giữa. Có điều, chắc các ca sĩ phải lưu ý trang trí mái tóc thật đẹp, vì khán giả sẽ nhìn thấy đỉnh đầu người biểu diễn.
Ngoài đấu trường, “Căn nhà vuông” (La maison carrée) cũng là một vết tích La Mã độc đáo. Đây là một ngôi đền của người La Mã cổ đại, đền hình chữ nhật (không hiểu sao lại gọi là “căn nhà vuông”?) với nhiều cột tròn, mang khuynh hướng Hy Lạp. Ngôi đền này cho đến nay vẫn được xem là ngôi đền cổ đại duy nhất còn nguyên vẹn trên thế giới. Đối diện với “Căn nhà vuông” là “Hình vuông nghệ thuật” (le carrée d’ art). Đây là quần thể thư viện gồm thư viện sách với hàng nghìn loại sách cổ, thư viện âm thanh, thư viện phim ảnh, bảo tàng nghệ thuật đương đại. Và lẽ dĩ nhiên, ở Nimes bạn sẽ gặp rất nhiều giới đam mê nghệ thuật, gồm các giáo sư, các chuyên gia và cả sinh viên. Trông ai cũng rất “art”.
Ngoài ra, ở Nimes tôi đặc biệt thích “công viên bồn nước” (Les jardins de la fontaine). Không hiểu sao chỉ có một công viên mà trong tiếng Pháp lại gọi là “les jardins” (số nhiều). Tôi đoán mò rằng vì công viên rộng quá, có thể trong quá khứ gồm nhiều công viên nhỏ gộp lại chăng. Công viên này rợp một màu xanh yên bình, mang dáng dấp vừa Ý vừa Pháp, vừa cổ kính vừa hiện đại, rất xinh đẹp và lãng mạn.
Cầu sông Gard
Nhắc đến Nimes người ta nhớ ngay đến cầu sông Gard mà ngày nay mọi người gọi tắt là cầu Gard (Le pont du Gard). Dù chiếc cầu này không nằm trong thành phố nhưng ta có thể thấy một hồ nước rộng với đường kính khoảng sáu mét, thuộc hệ thống dẫn nước của cầu Gard. Vậy để biết cầu Gard nằm ở đâu, chúng ta chỉ việc đi ngược ra ngoại ô thành phố. Chiếc cầu trứ danh này nằm ở hướng Đông-Bắc.
Từ xa, cầu Gard hiện lên rất ấn tượng với 49 mét chiều cao và 274 mét chiều dài. Có rất nhiều khách du lịch đến thăm cầu Gard vì đây là một di sản văn hóa còn tồn tại nguyên vẹn. Dù cầu này được xây dựng với mục đích cụ thể là dẫn nước tưới tiêu, vẻ đẹp đơn giản của cầu thật dễ chịu với những mái vòm đều tăm tắp nằm trên ba tầng khác nhau. Tầng thứ nhất là trụ cầu có sáu mái vòm, tầng thứ hai có mười một mái vòm. Tầng thứ ba có tất cả ba mươi lăm mái vòm nhỏ. Những mái vòm này được xây với công dụng che cho các máng nước được sạch sẽ, tránh bụi và tránh bị ánh mặt trời làm bốc hơi. Những khối đá dùng để xây cầu thật vĩ đại và hoàn toàn không giống trét vôi, trông chúng xù xì, thô nhám nhưng thật gần gũi và thân thiện. Cầu được bắc qua sông Gard nhưng mục đích không phải để đi qua sông vì thực chất, chỉ có một đoạn cong của sông là nằm lọt giữa một “mái vòm” của cầu. Để đi từ bờ này sang bờ kia, đôi khi chỉ cần lấy đà từ xa rồi nhảy qua cũng được. Cầu Gard cho đến ngày nay vẫn để lại cho hậu thế những tò mò thú vị. Tò mò để rồi phải khâm phục là người xưa đã có những phép tính toán và quy trình xây dựng quá khoa học. Mãi từ thế kỷ thứ mười chín trước Công nguyên mà cầu Gard đã được xây để phục vụ cho 50.000 người với trung bình 409 lít nước/ngày/người.
Một điều bản thân tôi thấy thú vị là cầu Gard không bắc sang sông theo một góc 90 độ như những chiếc cầu khác mà lại nằm chếch sang một bên. Nước dưới sông chảy theo lối uốn cong, không chảy thẳng. Vào mùa hè, khách du lịch tràn xuống các mé sông hai bên trải khăn ra ngồi hóng mát. Cảnh tượng thanh bình, vô cùng khoan khoái.
Chiếc cầu ngày nay phục vụ cho nền du lịch chứ không còn làm nhiệm vụ dẫn nước nhưng tôi vẫn nhìn thấy những ánh mắt trìu mắt dành cho nó. Cầu quá đẹp, một cách giản dị mà gần gũi. Tôi đi chầm chậm dọc theo suốt chiều dài của cầu hai lượt rồi lên xe quay về. Sau này về Việt Nam và đọc một cuốn sách về 100 di tích thế giới, tôi mới biết cầu Gard nằm trong danh sách này. Chiếc cầu mộc mạc mà ấn tượng sẽ không bao giờ phai trong tim tôi.

o O o

LOCRONAN: XỨ CỔ CỦA CÔNG CHÚA DA LỪA
Tôi đến Locronan vào một sáng mùa hè cùng Sophie, một giáo viên tiểu học người thành phố Brest. Sophie cho biết Locronan là một trong những thị trấn đẹp nhất nước Pháp nói chung và nhất Bretagne nói riêng. Hàng năm, nơi đây đón một lượng khách du lịch nội địa lẫn quốc tế khổng lồ. Sophie đã từng thăm Việt Nam nên cô cho tôi một so sánh “Locronan giống Hội An vậy đó!”.
Công chúa Da Lừa
Sau khi đỗ xe, Sophie cùng tôi đi bộ vào thị trấn. Gió mùa hè của vùng Bretagne vẫn lành lạnh, nắng nhạt màu vàng chanh và những đóa hoa cẩm tú cầu lộng lẫy làm tôi choáng ngợp. Và kìa, Locronan hiện ra dần dần theo mỗi bước chân tôi gõ nhịp lên những viên đá lót đường trơn bóng. Những viên đá này đã tồn tại từ thế kỷ thứ mười sáu, sau mấy trăm năm được biết bao đôi chân bước qua, bao cuộc đời in dấu lên đó, đá trở nên lún ngày càng sâu và bóng loáng thật độc đáo. Những căn nhà theo lối kiến trúc Phục Hưng bằng đá granit xám, mái ngói đen tuyền phủ rêu phong, dây leo xanh rờn bám chặt vào tường và trên bậu cửa sổ mọc đầy hoa. Nhà chỉ cao từ một đến hai tầng, hoàn toàn bằng đá granit, cửa bằng gỗ dày cũ kỹ. Thị trấn trông cổ xưa như ta chưa hề sống vào thời đại văn minh, như ta đang ở nước Pháp cùng với người đẹp Angelique, lãng tử D’Artagnan, hoặc thậm chí trong câu chuyện cổ tích Công chúa Da Lừa.
Ở quảng trường nhà thờ, khu trung tâm Locronan với chiếc giếng cổ bằng đá càng làm người ta thấy mình quả đang trở về với quá khứ của nước Pháp thế kỷ thứ mười sáu. Nơi đây xưa kia là nguồn cung cấp nước cho cả thị trấn, ngày ngày những thiếu nữ vùng Bretagne đeo tạp dề viền đan-ten, đội mũ rộng vành, chân mang guốc gỗ lót rơm, đeo đôi thùng nước đến đây tắm giặt. Những chiếc xe ngựa chở du khách dạo một vòng quanh ngôi làng bé nhỏ, tiếng vó ngựa chầm chậm như nhắc mọi người nhớ đến một thời yên tĩnh nhưng cũng không kém phần khó khăn như trong các phim vua chúa và những “người nông dân nổi dậy”. Locronan nhiều phen cũng là một phim trường với đầy đủ tòa thị chính, nhà thờ, tiệm bánh mì, tiệm rượu, tiệm tạp hóa vẫn in dấu rêu phong. Các bảng hiệu vẫn được treo theo lối cổ, đung đưa trong gió, khiêm tốn chẳng một hình ảnh quảng cáo nào. Các bộ phim vào thời xưa như Angelique, Hoàng hậu Margot, Ba người ngự lâm pháo thủ… đều được quay lại đây.
Bánh crêpe và rượu trái cây cidre
Trong cuộc sống văn minh ngày nay, Locronan ý thức được vai trò bảo tồn kiến trúc cổ nên người dân không bao giờ cho phép bản thân được phá hủy nét cổ xưa. Tại Tòa Thị Chính, bảng tên “Mairie” vẫn nhuốm màu thời gian với các chậu hoa màu hồng phấn êm đềm bao quanh ngôi nhà xám. Tiệm bánh mì, nhà hàng, quán cà phê và các shop quà lưu niệm cũng thế, mọi thứ đều in dấu rêu xanh và các vết mốc trắng trên nền đá granit đen. Đến Locronan, chẳng du khách nào muốn từ chối bước vào tiệm “Crêperie”. Đó là tiệm ăn chuyên bán bánh crêpe, đặc sản vùng Bretagne. Cô phục vụ đưa tôi tấm thực đơn chỉ vỏn vẹn vài ba loại crêpe. Muốn ăn mặn thì kẹp với jambon, thịt nguội xông khói, trứng, xúc xích. Muốn ăn ngọt thì dùng với mứt trái cây (confiture) và chocolat. Thế thôi! Vậy mà người Bretagne vô cùng tự hào với đặc sản này của mình. Ngoài ra nơi đây không phục vụ các thức uống hiện đại như nước ngọt có gaz và các loại rượu bia công nghiệp. Bạn chỉ có thể gọi nước trái cây lên men, rượu loại tự nấu đựng trong bình bằng đất nung và… nước lọc. Bởi đơn giản thật “vô duyên” khi thấy một lon Coca trong khung cảnh hoàn toàn cổ xưa này.
Đã đến Locronan ăn bánh crêpe, du khách cũng sẽ gọi rượu trái cây lên men gọi là “cidre”. Cidre làm từ nho, táo, lê… Tuy là rượu trái cây nhưng không cẩn thận vẫn say túy lúy. Bánh crêpe gần giống như bánh xèo của mình, chỉ có bột mì đen tráng ra trên chảo rộng, bỏ thịt nguội, bơ, phó mát hoặc mứt vào, xếp lại, cho ra đĩa và ăn. Khách có thể đứng xem đầu bếp tráng bánh, khói bốc lên nghi ngút thơm lừng và… nuốt nước bọt. Công bằng mà nói, ăn crêpe mau ngán vì chẳng có rau sống kèm theo như bánh xèo, chẳng có nước chấm cũng không có tí ớt cay cay. Nhưng nếu vừa ăn bánh vừa “chiêu” mấy ngụm rượu trái cây thơm nồng nàn, nhìn qua cửa sổ ngắm Locronan cổ kính, không say trong lòng mới là lạ.
Sophie hỏi tôi có ngon không mà chưa kịp trả lời thì chính cô đã đưa ngón tay ra dấu “number one”, vẻ mặt dương dương tự đắc lắm. Không đến mức “number one” nhưng chẳng muốn làm mích lòng người Bretagne, tôi giơ hai ngón tay ra dấu “victory” chiến thắng lên. Sophie cười hí hửng. Cô không biết tôi muốn nói “number two”. Tôi hứa “Lần sau nếu lại qua Việt Nam, tôi sẽ làm bánh xèo, một loại bánh crêpe Việt đãi cô!”. Khi đó nếu Sophie chê bánh xèo Việt Nam cũng chỉ “number two” thì đáng đời tôi.
Tiếng Celtique và đăng-ten (dentelle)
Tại quảng trường lớn ở Locrotan, ngoài vài cửa hàng bán quà lưu niệm, các tiệm “crêperie” bánh bánh crêpe, tiệm “cidrerie” bán rượu trái cây ra, thư viện tiếng Celtique với dòng chữ “Librairie Celtique” tưởng chẳng có gì thu hút lại được nhiều người bước vào. Celtique là thứ tiếng dân tộc, ngôn ngữ cổ của người Bretagne cho đến nay vẫn có một số người già sử dụng. Thậm chí, dù bị cho là “tứ ngữ”, người ta vẫn duy trì Celtique với một vẻ tự hào kỳ lạ.
Tại Locronan nói riêng và vùng Bretagne nói chung, các câu lạc bộ người nói tiếng Celtique vẫn hoạt động và các sự kiện ngôn ngữ của những câu lạc bộ này rất rình rang. Thư viện tiếng Celtique tại Locronan ngày nay tuy mang dáng vẻ du lịch nhiều hơn, nhưng các cuốn sách cổ, các loại sách học vỡ lòng, các tấm bưu thiếp in thứ ngôn ngữ này vẫn được trưng bày rất đẹp mắt như muốn nước Pháp hiện đại hãy luôn trân trọng nó.
Nằm kế bên các cuốn sách cổ với ngôn ngữ Celtique là những sản phẩm thủ công cổ truyền của vùng Bretagne. Những chiếc dù trắng bằng đăng-ten, khăn trải bàn thêu, rèm cửa sổ, gối, áo… tất cả đều được làm bằng tay, công phu, trắng tinh khiết và mềm mại như thứ vải ren của những công nương, tiểu thư sống đời nhung lụa. Ngày nay, với cuộc sống hiện đại và các sản phẩm công nghiệp tiện lợi, thứ đăng-ten Bretagne bày bán tại Locronan quả là một món quà đắt giá cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Đóa tú cầu Bretagne
… Tiếng chuông nhà thờ Saint Ronan đổ từng hồi chuông ngân nga. Chúng tôi tiếp tục tham quan thị trấn bé nhỏ. Thấy tôi nhào vô… nghĩa trang chụp tới tấp, Sophie bật cười nắc nẻ. Chưa bao giở trong đời tôi thấy nghĩa trang nào tuyệt đẹp như nơi đây. Các ngôi mộ đều bằng đá xưa cổ, hoa mọc dày đặc, sắc sảo, các ngọn thánh giá được chạm trổ công phu kiểu dáng đa dạng. Được chết tại nơi đây mới sung sướng làm sao. Những bồn hoa cẩm tú cầu đủ màu như những chiếc bánh kem phồng lên đồ sộ trong khung cảnh cổ kính này càng làm Locronan mang một dáng vẻ đặc biệt: cổ nhưng không cũ, yên tĩnh nhưng vẫn sống động, đẹp dịu dàng, đơn giản mà vẫn kiêu sa.
Rời Locronan sau một buổi sáng chủ nhật đẹp trời, Sophie hài lòng vì đã hướng dẫn cho tôi đến thăm một nơi tuyệt vời. Vẻ mộc mạc nhưng kiêu hãnh của cô thật đặc trưng cho tính cách ngườiBretagne. Như đóa cẩm tú cầu đang rung rinh trong gió kia, đẹp, đẹp và đẹp.

o O o

RENNES: THÀNH PHỐ CỦA NHỮNG QUẢNG TRƯỜNG
Năm 2000 tôi đến Rennes tu nghiệp trong tòa soạn Ouest France, tờ nhật báo có số phát hành cao nhất nước Pháp (800.000 bản). Tôi trọ trong cư xá dành cho giới trẻ đi làm gần trung tâm thành phố (Foyer des Jeunes Travailleurs). Cư xá cho người trẻ, tức là nơi có những tiện nghi tối thiểu nhất: phòng rộng chưa tới ba mét vuông, đủ để một chiếc giường đơn, một cái bàn và một phòng tắm. Nhà bếp, phòng ăn, phòng xem ti-vi, phòng khách, tất cả đều dùng chung. Khái niệm trẻ ở những nước châu Âu có nghĩa là năng động, tự do, khỏe mạnh và… nghèo. Tôi rõ ràng vẫn còn trẻ nhưng hình như chỉ giống được thanh niên người ta ở khoản nghèo nên đành ở trong cư xá này.
Trong suốt ba tháng trời ở Rennes, tôi rất ghét ở nhà, cảm thấy mình như đang ở tù và căn phòng tí hon đó làm tôi ngộp thở. Trong cái rủi có cái may, tôi rong chơi nát các con đường, tôi window-shopping khắp các cửa hàng lớn nhỏ, tôi bắt xe bus đến những vùng làng mạc và các cánh rừng ngoại ô. Và không biết từ lúc nào, ác cảm ban đầu ở một thành phố xa lạ đã nhường cho những tình cảm thân thương. Những cơn gió thu làm trút bao lá vàng, những hạt mưa làm mờ cả phố xá, những quảng trường nhỏ xinh, những căn nhà cổ bằng gỗ nâu trầm mặc, những ngọn giáo đường, tiếng chuông ngân vang…
Sông La Vilaine
Rennes là thủ phủ của vùng Bretagne, là một trong mười thành phố phát triển và đông dân nhất nước Pháp. Thế nhưng đến Rennes, tôi không có cảm giác chộn rộn, đông đúc, náo nhiệt. Thành phố giữ lại cho mình vẻ tự chủ, năng động nhưng chừng mực, bận rộn mà thong thả, sầm uất mà bình yên. Để tiết kiệm tiền đi xe bus, sáng sáng tôi cầm dù, thong dong rảo bước một đoạn đường dài ba mươi phút trong tiết trời thu Bretagne. Có ngày mưa, có ngày trời xám xịt và có ngày hiếm hoi với những dải nắng vàng. Tôi băng qua một chiếc cầu, những con đường huyết mạch, để tiến vào trung tâm. Thành phố vào các giờ cao điểm cũng kẹt xe ít nhiều nhưng vẻ bình lặng của Rennes vẫn là điều đáng mơ ước so với những thành phố lớn khác ở Pháp.
Tòa soạn báo Ouest France là một ngôi nhà cổ, nằm trên đường Pré Botté, ngay giữa trung tâm Rennes. Tòa soạn cũng là một trong những địa điểm tham quan du lịch vì báo Ouest France là niềm tự hào của thành phố vốn rất mê báo chí. Con sông La Vilaine chảy vắt qua thành phố thật êm đềm, những dãy nhà hai bên bờ kè đều tăm tắp, những bồn hoa được chăm chút cẩn thận trang hoàng cho con sông thêm duyên dáng. Sông chia thành phố ra hai bên bờ nam với những hoạt động nghệ thuật. Song song với bờ kè của sông Vilaine là những dãy phố được cắt ngang bởi những quảng trường và những tòa nhà cổ. Từ ngay những ngày đầu ở Rennes, tôi đã không khi nào đi lạc dù thành phố khá rộng. Các con phố cứ đan xen nhau như hình bàn cờ, đi đâu rồi cũng qui về những quảng trường, và sau đó là bờ sông La Vilaine.
Những quảng trường độc đáo.
Các quảng trường ở Rennes rộng vừa phải, khá nhiều cho một thành phố, cứ vài dãy nhà là lại gặp một quảng trường chào đón nồng nhiệt. Tuyệt vời nhất là quảng trường Tòa Thị Chính, và dĩ nhiên Tòa Thị Chính nầm ngay đấy là tâm điểm của phong cách kiến trúc cổ. Tòa nhà hành chính này được xây từ năm 1720 bằng đá granit với tháp đồng hồ nằm ngạo nghễ bên trên. Đối diện với tòa thị chính là Nhà hát thành phố, cũng có lối kiến trúc cổ Gothic. Xung quanh quảng trường là vài quầy hàng rong duyên dáng trong các xe đẩy nhỏ xinh bán trái maron nướng, hạt dẻ luộc, kem đủ màu, bong bóng bay lơ lửng… Những chiếc ghế đá đặt trật tự ven đó là nơi cho mọi người hẹn hò. Tôi cũng hẹn vài người bạn mới quen tại đây vào những sáng chủ nhật để cùng nhau đi bát phố. Ngước lên nhìn đồng hồ xem giờ rồi thong thả mua vài hạt dẻ thơm thơm cùng ăn.
Quảng trường Cộng Hòa với tòa nhà thương mại được xây từ thế kỷ mười chín cũng ấn tượng không kém, trải rộng, hoành tráng và sang trọng. Quảng trường Hoche cách đấy không xa là nơi dành cho giới sinh viên bởi trường Đại học Rennes, trung tâm hội nghị, văn phòng du lịch và nhà ăn sinh viên nằm kề sát. Cùng với một cô bé sinh viên báo chí thực tập trong tòa soạn, mỗi trưa chúng tôi đi bộ đến đây, ăn suất cơm sinh viên được nhà nước trợ giá, quá rẻ mà lại no nê, đủ chất và sạch sẽ. Chẳng ai hỏi thẻ sinh viên hay bất kỳ giấy tờ gì, nhất là trông mặt tôi còn non hơn cả sinh viên năm nhất. Rennes cũng được xem là thành phố đại học với các trường công uy tín và tổng cộng khoảng sáu chục ngàn sinh viên.
Mỗi chiều sau giờ làm việc, tôi thích lang thang đến quảng trường Des Lices, nơi có khu chợ thức ăn tươi, hoa quả, cá sống… Chợ có mái che này cũng là một khu vực cổ, được xây từ năm 1871, rộng rãi, quy củ và vệ sinh. Cũng tại quảng trường này, mỗi sáng thứ bảy người ta còn họp chợ ngoài trời, bán đủ thứ hàng đa dạng, từ quần áo, thức ăn, rau củ, đến các thức ăn nóng trong những xe kéo. Chợ có quy mô lớn nhất thành phố Rennes và các tỉnh lân cận nên mỗi sáng thứ bảy cảnh mua bán diễn ra rất tấp nập và nhộn nhịp.
Gần đấy, quảng trường Champ du Jacquet tuy nhỏ nhưng lại là một trong những nơi độc đáo của thành phố với những ngôi nhà cổ bằng gỗ nâu, mặt tiền nhà được trang trí bằng những thanh gỗ kẻ sọc dọc ngang lạ mắt, cao tối đa ba tầng, có mái bằng đá ardoise đen. Những căn nhà gỗ là vết tích còn sót lại của một thành phố vốn được rừng bao quanh. Kiến trúc cổ của những căn nhà từ thế kỷ thứ mười bảy này đã bị một trận hỏa hoạn thiêu rụi và phá hủy hơn chín trăm căn nhà vào ngày 23-12-1720. Vì thế, những ngôi nhà cổ còn sót lại này đều là di tích lịch sử và văn hóa, ngày nay được dùng làm nhà hàng sang trọng. Sát bên, quảng trường Raillier du Baty cũng còn vài căn nhà gỗ sọc, các quán nước nằm tràn ra ngoài trời, nhạc trẻ rộn ràng trong quán vang ra náo nức.
Những con phố nhỏ xinh và các viện bảo tàng
Cùng với những quảng trường, các con phố nhỏ xinh lót đá dành cho người đi bộ là nơi tôi ngày ngày dạo bước trong tiết trời thu lành lạnh. Tôi thích nhất phố Saint Michel còn được người dân ở Rennes gọi là “Phố khát” (Rue de la soif). Phố dành để giải quyết nhu cầu được uống của người đang khát với dày đặc các quán nước trái cây, quán bia, quán cà phê, quán kem… Những ngày trời ấm với chút nắng vàng, các dãy ghế được bày tràn ra vỉa hè và con phố trở thành địa điểm hẹn hò. Mọi người nói cười xôm tụ, uống tràn bọt những ly bia và tươi tắn cùng ngắm khách bộ hành qua lại. Những cô cậu sinh viên sau giờ học cùng tấp vào, tạo cho con phố vẻ trẻ trung thật đáng yêu.
Phố Nationale lại là nơi tôi có thể shopping với những cửa tiệm bán đĩa nhạc, sách vở và quần áo thời trang. Tiệm nào cũng được tôi đến viếng nhiều lần và vì thế, hàng hạ giá bị tôi lùng sục không thoát nổi. Tất cả những hiệu nổi tiếng của Pháp và châu Âu đều có mặt tại Rennes nên tôi tha hồ chọn lựa. Chọn chán rồi không mua cũng chẳng sao hoặc mua rồi đem trả cũng vẫn được. Phố Saint Georges và Gambetta thì cho tôi khung cảnh thiên nhiên tươi vui với hồ bơi Saint Georges, dinh Saint Georges trải rộng vương giả và vườn hoa lộng lẫy bên ngoài.
Ở bờ nam con sông Vilaine là các bảo tàng nghệ thuật thuộc hàng quốc gia mở cửa chào đón khách quanh năm. Nào là bảo tàng nghệ thuật tranh tượng, bảo tàng vùng Bretagne, bảo tàng truyền hình, bảo tàng trình diễn… Các bảo tàng đón khách miễn phí và là nơi tổ chức những sự kiện văn hóa cho thành phố như lễ hội âm nhạc, lễ hội “Thành phố đêm”, lễ hội du lịch… Trong mấy tháng lưu lại Rennes, tôi may mắn dự các lễ hội này, mọi người từ già đến trẻ đều cùng tham gia hào hứng và vui chơi trong trật tự. Các quán giải khát mở cửa thâu đêm, các ban nhạc cống hiến trọn vẹn cho khán giả tại khắp các quảng trường trong thành phố.
Công viên Thabor và rừng ven thành phố
Nhắc đến Rennes, người ta không thể bỏ quên một địa điểm thân thương và trong lành. Đó là công viên Thabor rộng lớn với các loại cây cổ thụ, cây cảnh và hoa phong phú nhiều chủng loại. Những ngày nắng ấm công viên tràn ngập các em bé tung tăng nô đùa, những gia đình trải đồ cùng ăn picnic, các ông bà già chống gậy dạo vòng quanh. Muốn đi xa hơn thì rừng Rennes bao quanh thành phố là nơi người ta có thể dạo chơi vào những ngày cuối tuần. Rừng tuy nhỏ và nằm gần thành phố đông dân cư nhưng do ý thức bảo tồn thiên nhiên cao, rừng vẫn có các con thú trú ngụ. Thảng hoặc những chiếc xe bus chạy ngang qua những con đường mòn cắt ngang rừng, người ta vui mừng thấy những chú sóc chuyền mình trên cao, những con nai ngơ ngác ngước mắt nhìn ra và cả một gia đình nhím nối đuôi nhau đi.
Thành phố Rennes hiện đại mà cổ kính, công nghiệp mà hòa mình với thiên nhiên, phát triển mà vẫn tôn trọng những giá trị truyền thống. Truyện ngắn Một mùa thu ở Rennes (trong tập Bồ câu chung mái vòm) được tôi viết trong một đêm nhớ Rennes cùng những cơn mưa mờ phố. Sau đợt tu nghiệp đó, khi đi du học ở Bỉ, tôi đã kiên trì ngồi xe lửa cả ngày trời để quay lại Rennes nhiều lần thăm bạn bè. Thành phố luôn giữ lại những gì tốt đẹp nhất và vẫn không ngừng tiến lên phía trước.

o O o

SAINT RÉMY DE PROVENCE DƯỚI ÁNH MẶT TRỜI
Tôi đến ngôi làng Saint Rémy vào một buổi sáng mùa hè đẹp trời. Nắng chiếu vàng óng ả xuyên qua những kẽ lá. Xe chạy ngang qua một cánh đồng hoa hướng dương đẹp rực rỡ, những con ve sầu râm ran ca, gió dịu mát làm tung bay những sợi tóc.
Trong khung cảnh thần tiên hạ giới đó, cảm hứng cho truyện ngắn Diên vĩ Provence (trong tập Bồ câu chung mái vòm) đã hình thành. Saint Rémy được bầu chọn là một trong những ngôi làng đẹp nhất nước Pháp, nằm ở vùng Provence ấm áp đầy ánh mặt trời. Ngôi làng đặc trưng của Provence nói riêng và của miền Nam nước Pháp nói chung, được khách du lịch tìm đến bởi nhiều lý do.
Van Gogh và hoa diên vĩ
Với riêng tôi, lý do đầu tiên do tôi muốn tận mắt xem cảnh vật trong tranh của Van Gogh ngoài đời thật. Này là bức hoa hướng dương, này là các bức tranh với toàn màu vàng làm chủ đạo vẽ các nông dân đang vụ mùa, này là các bức phong cảnh với những cánh đồng lúa mì trĩu hạt, này là những ngõ nhỏ, những chiếc cửa sổ xanh, những viên đá lát đường xám của ngôi làng Saint Rémy. Và quả thật, tôi đã không thất vọng nếu không muốn nói là cảnh thật còn đẹp hơn gấp mấy lần.
Nắng mặt trời là một “đặc sản” làm nên màu vàng óng ả của ngôi làng nhỏ, nắng chiếu vào những cánh cửa màu xanh da trời, vào dàn dây leo xanh rợp bám dày những bức tường đá cổ, vào những chậu hoa rực rỡ luôn có lũ bướm lượn lờ bên trên. Vì ngôi làng luôn có nắng mặt trời dù vào mùa đông, vẻ cổ kính không hiện lên qua những nét rêu phong. Chính những ngôi nhà nhỏ bằng đá vôi vàng, những cửa sổ xanh xanh, những ngõ nhỏ uốn lượn, những bồn phun nước gắn vào tường là linh hồn của ngôi làng Saint Rémy. Vẻ thanh bình, ấm áp, đẹp rộn ràng của làng đã giữ chân người họa sĩ tài hoa Van Gogh ở lại. Ông đắm mình trong ánh nắng vùng Provence, chìm vào những cánh đồng hoa hướng dương, những bông lúa mì thơm lựng, trong tiếng ca hát của ve sầu. Và trên hết, ông được dân làng, những người nông dân mộc mạc, nhiệt tình, hào phóng và tốt bụng chở che.
Trong suốt thời gian lưu lại Saint Rémy (từ 8-5-1889 đến 16-5-1890), Van Gogh đã vẽ hơn 150 bức tranh nhiều thể loại. Những người nông dân là đối tượng được họa sĩ quan tâm nhiều nhất. Những con người hồn hậu của miền Nam nước Pháp trong tranh ông hiện ra thật gần gũi, họ hăng say lao động trên cánh đồng, họ rạp mình gặt lúa mì, họ cày bừa cùng những chú ngựa, họ nghỉ ngơi bên đống rơm vàng… Phong cảnh làng Saint Rémy với những bức tường phủ đầy dây leo, những ngõ nhỏ thanh vắng, những bậu cửa sổ xanh, những bông hoa hướng dương, những chú ve sầu… tất cả đều toát lên vẻ thanh bình, giản dị mà vô cùng quyến rũ. Đây là thời kỳ sáng tác sung mãn nhất của họa sĩ dù rằng ông đang chịu đựng căn bệnh trầm cảm và phải trú trong bệnh viện để sáng tác. Sau khi rời Saint Rémy, chỉ hai tháng sau là Van Gogh qua đời. Hiện nay làng vẫn còn giữ vài bức nổi tiếng trong loạt tranh này của ông và luôn xem ông là đứa con của Saint Rémy de Provence.
Những khu chợ rực rỡ
Lý do thứ hai Saint Rémy hút khách là những khu chợ thật đặc trưng vùng Provence. Chợ được họp đông nhất vào thứ tư hàng tuần, chiếm một diện tích khá rộng trong quảng trường của làng, trong các ngõ hẹp, trong những góc khuất. Nhắc đến chợ, người Việt Nam thường có cảm giác bẩn và sặc mùi. Nhưng chợ ở Saint Rémy không những sạch sẽ, đầy màu sắc mà còn thơm tho nữa.
Hàng hóa phần lớn là các sản vật của vùng. Tôi thích nhất là chợ bán vải. Thứ vải vùng Provence với những họa tiết xinh xắn như trái ô-liu, hoa hướng dương, ve sầu, mướp đỏ… Màu vải thật đa dạng nhưng luôn là sắc nóng như vàng tươi (màu hoa hướng dương), xanh nõn (màu ô-liu), đỏ hồng (màu mướp đỏ), tím hoa cà (màu hoa oải hương)… Vải được dệt giống như cotton nhưng cứng hơn và bền hơn rất nhiều. Người ta mua thứ vải này về làm khăn trải bàn, khăn ăn, màn cửa và đặc biệt là để may váy xòe. Váy thường có ba tầng, mỗi tầng là một mô-tip khác nhau nhưng đều rất hài hòa. Chiếc váy xòe sặc sỡ màu nắng của Provence cũng đặc biệt như chiếc váy kẻ sọc xếp pli của Scotland. Tôi mua cho mình hai chiếc và về sau này dù ở Việt Nam hay đi nước ngoài, mỗi lần tôi diện vào đều có người nhận ra: “À, Provence!”.
Ngoài chợ vải, tôi còn mê chợ hương liệu với các loại nước hoa và xà bông thiên nhiên. Loại hương được khách du lịch chọn lựa nhiều nhất là oải hương (lavande). Gốc của từ “lavande” là động từ “laver”, tức là giặt rửa. Hoa oải hương được dân Provencedùng làm nước xả vải cho quần áo, chăn mền, màn cửa sau khi giặt. Vì thế, trong nhà thường có được mùi hương thiên nhiên. Xuất thân “bình dân”, giúp việc cho các bà nội trợ là thế, nhưng ngày nay hoa oải hương được dùng làm hương liệu sản xuất nước hoa, các loại dầu ướp trong tủ, các loại hương trong các sản phẩm gia dụng. Cũng cần nói thêm hoa oải hương tuy được yêu thích, nhưng đây không phải là một mùi hương sang trọng, kiểu giống như lại của Việt Nam mà thôi. Hoa oải hương cũng không có kiểu dáng đặc biệt, chỉ như những nhánh lúa trĩu hạt màu tím hoa cà, mọc dày cả cánh đồng vùng Provence. Trong khu chợ ở Saint Rémy, hoa oải hương được tuốt ra bán thành từng vốc. Hoặc hoa được bỏ vào trong túi bằng loại vải Provence, cột nơ lại, dành cho khách du lịch mua về ướp trong tủ quần áo. Các túi vải nho nhỏ bằng bàn tay chứa hoa oải hương là một món quà không thể thiếu khi mọi người tìm đến chợ. Mùi hương có thể lưu lại khá lâu, chừng vài ba tháng và có khả năng thu hút côn trùng, nên dân Provence khuyên khách du lịch chỉ nên bỏ túi hoa vào trong tủ đóng kín và đừng nên bày ra ở những chỗ trước gió như bậu cửa sổ, lan can, hành lang.
Chợ rau củ cũng là một nơi thu hút khách du lịch đến chụp hình vì nơi đây rất rực rỡ. Ngoài ra, dân địa phương cũng đến rất đông do rau củ khá tươi và trông vô cùng đẹp mắt. Rau củ chợ Saint Rémy không chỉ dùng để ăn mà còn để trang trí. Này là những trái ớt chuông màu vàng rực, đỏ thắm, xanh mượt. Này là những quả cà chua đỏ hồng, căng tròn, bóng bẩy. Này là những quả cà tím dài duyên dáng, mập mạp, láng mướt. Này là những trái dưa leo xanh sẫm, chắc nịch, cuống cong lên khiêu khích… Đặc biệt, gian hàng các loại trái mướp Provence luôn là tâm điểm của khu chợ. Mướp Provence có kiểu dáng rất ngộ nghĩnh dùng làm trang trí rất ấn tượng. Có trái mập mạp và cổ uốn cong lên trông chẳng khác gì một con thiên nga màu vàng rực, đỏ thắm hoặc trắng hồng. Có trái tròn dẹp và phồng cao như trái bí rợ nhưng “phốp pháp” hơn. Có trái hình bầu dục, có trái hình ống, có trái hình trái tim. Mướp Provencekhi ăn có mùi vị thơm ngon, giông giống bí rợ lẫn với mướp hoặc với cà tím. Người ta thường hay nấu súp, xay nát ra, chẳng cần phải nêm gì ngoài tí muối. Dù súp được nấu chay, không thịt, cũng chẳng có bột ngọt, nhưng vị ngọt thiên nhiên của mướp thật tinh khiết, thơm tho và hấp dẫn. Tuy nhiên không phải loại mướp nào cũng để ăn vì nhiều khi người Provence chỉ mua về để trang trí. Họ chất các loại mướp hình dạng và màu sắc khác nhau vào một rổ mây, đặt lên bàn khách hoặc trong phòng bếp. Bức tranh phồn thịnh và thanh bình đã hiện ra vô cùng thuyết phục.
Cuối cùng là chợ hoa và các món hàng lưu niệm. Nếu như hoa oải hương chỉ được bày bán trong khu chợ hương liệu, hoa hướng dương là tâm điểm cho sự hãnh diện của người Provence. Hoa hướng dương được trồng cả cánh đồng để lấy hạt, ép dầu và cả xuất khẩu hoa sang các nước Bắc Âu giá lạnh. Hướng dương ở đây vàng rực rỡ, to tròn và tươi thắm. Trong truyền thuyết Hy Lạp – La Mã cổ đại, nữ thần Clytie say mê thần mặt trời Apollon nhưng không được ông để mắt tới. Vì nữ thần cứ mãi đứng ngước nhìn mặt trời (tức Apollon) quá lâu, chân bà biến thành rễ quấn chặt vào lòng đất và khuôn mặt kiều diễm của bà trở thành một bông hoa. Tích hoa hướng dương vì thế được các thiếu nữ si tình rất thích và thương mua đem về trang trí. Một bình hoa hướng dương vàng rực rỡ luôn làm cho nhà cửa trở nên sinh động ấm áp và đầy ánh sáng.
Một “đặc sản” khác của Saint Rémy de Provence là ve sầu. Mùa hè ve ca hát nỉ non thâu đêm suốt sáng không bao giờ dừng. Các đoàn làm phim đến đây quay phải thu âm trong phòng vì thu tiếng trực tiếp luôn vướng giọng ca của ve. Chợ Saint Rémy bán những con ve sầu bằng sứ màu vàng, to gấp… mấy ngàn lần con ve thật, dùng để treo trên tường, trang trí trong vườn hoặc làm chậu hoa dây leo. Ve còn được thể hiện qua các loại trang sức, mặt dây chuyền, nút cài áo… tha hồ cho khách chọn.
Vùng Provence nói chung và làng Saint Rémy nói riêng còn là một trong những lãnh thổ lưu dấu La Mã khá nhiều. Trước ngõ vào làng còn có Khải Hoàn Môn và Cột Chiến Thắng sừng sững qua mấy ngàn năm lịch sử. Kiến trúc của những ngôi giáo đường, các ngôi nhà nhỏ, các bồn phun nước vẫn mang đậm phong cách thời Trung Cổ và Phục Hưng. Bảo tàng lịch sử vùng Provence cũng là nơi đến nếu du khách muốn khám phá hết vẻ kỳ thú của xứ sở tràn ngập ánh mặt trời. Ngoài ra, các galerie nghệ thuật với các loại tranh phong cảnh, tượng các nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, đồ gốm nung… rất đáng cho mọi người thưởng thức. Tôi muốn mua một bức tranh chép từ Hoa diên vĩ của Van Gogh nhưng ngại cồng kềnh nên cuối cùng chỉ mua… một bưu thiếp in tác phẩm này. Đóa hướng dương vàng màu nắng luôn làm tôi háo hức mong được dịp quay lại Saint Rémy de Provence, với những cửa sổ xanh, với mùi hoa oải hương, với tiếng hát của ve sầu “Thương – quá – thương! Thương – quá – thương! Thương – quá – thương…”

o O o

ĐẾN PROVENCE NHỚ ALPHONSE DAUDET
Hồi còn là sinh viên văn chương Pháp, tôi thích Alphonse Daudet và Saint Exupéry. Hai tác giả này có lối hành văn dễ đọc (dành cho người nước ngoài học tiếng Pháp), kết cấu truyện giản dị và có những triết lý sống nhẹ nhàng. Đặc biệt đọc Alphonse Daudet, tôi như thấy cuộc sống hiền hòa của nông thôn Pháp trước mắt mình, những chàng mục đồng, cối xay gió, bầy cừu mũm mĩm, chú dê con ham chơi… (tập truyện ngắn Lettres de mon moulin). Và một nhân vật khác là thợ săn sư tử Tartarin xứ Tarascon (truyện dài Tartarin de Tarascon).
Alphonse Daudet và người Provence
Khi đến Pháp lần đầu, được đặt chân ở vùng Provence, tôi nhất quyết phải tìm đến những địa danh trong truyện của Alphonse Daudet. Nhà văn sinh ở thành phố Nimes vào năm 1840, sau khi lên Paris làm việc rồi có dịp về Provence, ông đã sáng tác nhiều tác phẩm lấy bối cảnh vùng miền Nam nước Pháp tươi đẹp này. Có thể nói Provence nhờ Alphonse Daudet mà nổi danh, nhưng cũng nên nói ngược lại, chính nhờ vùng Provence tràn ánh mặt trời và con người hồn hậu của miền đất này đã làm tài năng Alphonse Daudet thăng hoa.
Trong suốt mùa hè năm 1866, các truyện ngắn của ông được đăng nhiều kỳ liên tiếp trên báo L ‘Evènement, tính cách ngộ nghĩnh của người Provence thế là được độc giả khám phá dưới ngòi bút hài hước của Daudet. Họ thật đáng yêu dù bị châm biếm là “ngây thơ cụ”, khôn vặt, thích huênh hoang, khoái “nổ” và có chất giọng “quái dị như ngậm mặt trời trong họng”. Dạo đọc các tác phẩm của Daudet, tôi luôn tò mò muốn gặp một người Provence xem có khôi hài đến thế không. Sau này tôi quen khá nhiều người Provence và thăm thú cũng khá nhiều nơi vùng Provence. Quả Daudet tả không sai, họ rất hồn hậu dù hay khoe khoang, đặc biệt chất giọng “ngậm mặt trời” rất khó nghe nhưng cực kỳ vui tai. Ai mới học tiếng Pháp chắc nghe “điếc con ráy”.
Người Provence có tính hào sảng giống người Nam bộ của ta, họ hiếu khách và rộng rãi, sống vui vẻ để tận hưởng những điều tốt đẹp nhất của cuộc đời. Ít khi tôi nghe họ càm ràm chuyện cơm áo gạo tiền hay ca cẩm về những vấn đề chính trị-xã hội. Họ không thích người Paris vốn lúc nào mặt cũng cau có, đụng một chút là đình công và biểu tình. Chơi với người Provence, bạn sẽ luôn thoải mái; và sống trong nhà người Provence bạn cứ tưởng là trong nhà mình. Không có bất kỳ sự khách sáo hay kiểu cách nào.
Thư từ cối xay gió
Nơi đầu tiên tôi muốn thăm khi đến Provence là chiếc cối xay gió Fontvielle. Sáng hôm đó trời rất đẹp, ve sầu kêu vang tai, chịFrance lái xe đưa tôi đến thăm cối xay gió, nay đã là bảo tàng của nhà văn Daudet. Nghe thì “xôm tụ” nhưng đến nơi mới thấy cối xay gió bé tẹo, đúng là chỉ dùng xay bột trong thế kỷ thứ 19. Cối xay tuy vậy được trùng tu cẩn thận, khách có thể leo lên chót vót trên cao, chạm vào hệ thống cối xay, cánh quạt, máng nước, bánh xe…
Khách du lịch khắp nơi vì yêu Daudet và tập truyện Thư từ cối xay gió nên tìm đến với cối xay gió Fontvielle khá nhiều. Họ còn muốn thấy tận mắt con dê của ông Seguin (một nhân vật trong tác phẩm của Daudet) và có khi phòng Du Lịch Provence cho cột một con dê xinh xinh quanh quẩn bên cối xay gió cho khách tha hồ trầm trồ. Họ như cảm nhận được các nhân vật dễ thương của Daudet vẫn còn đây, xuyên bao thế kỷ, vượt mọi cách trở giữa hiện thực và trí tưởng tượng. Tôi thấm thía, văn học từ đời sống mà thành, nhưng cũng chính văn học đã trở lại với cuộc đời thông qua ngòi bút hồn nhiên của một nhà văn tài năng.
Rời cối xay gió, chị France tiếp tục lái xe đưa tôi đến Tarascon, nơi có tòa lâu đài trứ danh của chàng thợ săn Tartarin luôn hăm hở tìm được sư tử oai hùng.
Chàng thợ săn Tartarin xứ Tartascon
Tôi đọc Chàng thợ săn Tartarin xứ Tarascon bằng tiếng Việt do ba tôi mua tặng năm tám tuổi. Khi đó tôi chưa thấy hết cái khôi hài và châm biếm mà Daudet gởi gắm. Nhưng sau này, khi đã là sinh viên và đọc tác phẩm bằng nguyên tác tiếng Pháp, nhân vật Tartarin hiện ra quá buồn cười và cái vùng Tarascon cũng sở hữu nhiều nhân vật ngộ nghĩnh quá.
Thành phố Tarascon ngày nay vẫn còn lưu giữ những giá trị văn học, truyền thuyết và cổ tích của mình. Trong những thế kỷ đầu, nơi đây là cái nôi của văn học và kịch nghệ. Thành phố Tarascon có một nhân vật truyền thuyết, gọi là con Tarasque, một quái vật dữ dằn sống dưới sông Rhône. Nhưng nữ thánh Marthe đã dùng tài trí và sự dũng cảm của mình để cảm hóa một cách tài tình con Tarasque này. Ngày nay, khách đến Tarascon vẫn còn thấy đền thờ nữ thánh Marthe nằm gần lâu đài của lãnh chúa René, và cả tượng của con quái vật Tarasque trong như một “con rùa biến thái”, rất ngộ nghĩnh.
Thành phố Tarascon nhờ nhà văn Alphonse Daudet, còn có thêm một nhân vật tưởng tượng khác, đó là chàng Tartarin. Lâu đài Tarascon nằm bên dòng sông Rhône là một dạng lâu đài – pháo đài (château fort). Lâu đài to “vật vã”, trông “khủng bố” và không được nên thơ tí nào. Dạng lâu đài – pháo đài này khi xưa được xây với mục đích chống lại quân thù nên rất kiên cố, có hào nước bao quanh, có cầu gỗ rút lên khi cần cô lập với quân địch và có nhiều bệ đặt súng ống. Mặc dù sặc mùi chiến trận, lâu đài Tarascon là một trong những nơi được bảo trì tốt nhất và được xem là khá đẹp do nằm ở ngay bên dòng Rhône xanh ngát. Lâu đài ngày nay được dùng làm bảo tàng trưng bày về nhân vật Tartarin với bức tượng sáp của ông, bộ lông con sư tử và những vũ khí săn bắn cổ xưa, mô phỏng theo truyện của Alphonse Daudet. Khách du lịch đến thăm quan lâu đài Tartascon khá đông, coi như vừa được khám phá thế nào là một lâu đài – pháo đài, thế nào là Tartarin khoái “nổ văng miếng”. Tôi leo lên tầng cao nhất của lâu đài, đứng ngay chỗ ngày xưa các chiến binh đặt vũ khí chĩa ra ngoài thành. Mặc dù vậy, tôi không có cảm giác chiến trận bởi trước mắt tôi là dòng sông Rhône xanh ngát đầy bình yên.
Đến Provence nhớ Alphonse Daudet, tôi còn nhớ thêm nhà văn Marcel Pagnol với các tác phẩm lâu đài của mẹ tôi và vinh quang của cha tôi, cũng lấy bối cảnh vùng miền nam nước Pháp ngập ánh mặt trời này. Người Pháp yêu văn chương và trân trọng các tác giả. Và vì thế, kho tàng văn học thế giới có một phần đóng góp thật đồ sộ của văn học Pháp.

o O o

GORDES: NGÔI LÀNG ẤM ÁP
Tôi đến Gordes, một trong những ngôi làng độc đáo nhất nước Pháp vào một ngày hè nắng vàng rực rỡ. Marie-Christine và cô con gái nuôi gốc Việt Nam khi đó mới bốn tuổi đã dành cho tôi nhiều ưu ái khi chở tôi đến đây. Gordes quá tuyệt, từ xa ngôi làng nép mình thu lại thật gọn trên một ngọn đồi. Những ngôi nhà được xây hoàn toàn bằng đá, nằm theo một trật tự xoắn ốc, phía trên đỉnh đồi là lâu đài cổ, nay trở thành tòa thị chính.
Mềm mại những ngôi nhà đá
Đến gần hơn, Gordes hiện ra như một giấc mơ. Những ngôi nhà đá với các huyền thoại ngàn năm tuổi, những con hẻm nhỏ hẹp, những vách đá cheo leo, những giàn hoa rực màu nắng bám chặt những bức tường… Những ngôi nhà ở Gordes không chỉ xây bằng đá, mà chúng còn được sinh ra từ đá do bàn tay công phu của con người đẽo gọt nên.
Vào làng, không một chiếc xe hơi nào được tiếp nhận. Mọi người di chuyển bằng những bậc thang, những dốc đá, những hẻm hẹp. Tất cả những cánh cửa đều làm bằng gỗ, hoặc có màu tự nhiên thâm trầm, hoặc được dân làng sơn màu xanh, màu đặc trưng của miền Nam nước Pháp. Xen giữa những ngôi nhà cao bằng đá là cây cối xanh um và những bông hoa rực rỡ sắc màu vì luôn được mặt trời yêu thương sưởi ấm quanh năm.
Tôi đi bộ thong thả để ngắm nhìn thật gần từng viên đá của những dãy nhà, bước chậm từng bậc thang bón loáng màu thời gian, nghe trong gió tiếng những chú ong vo ve và hít căng lồng ngực hương mùa hè thơm lành. Cuộc sống ở Gordes theo tôi hình dung chỉ toàn những phút giây bình lặng. Hoặc người ta có thể toan tính ở ngoài nhưng một khi bước chân về làng, chỉ cần vài phút đi bộ về tổ ấm, cuộc sống thật tươi đẹp biết bao. Thật khó tưởng tưởng ai đó sở hữu ngôi nhà tạc từ vách đá cheo leo này lại có một cuộc đời giông bão. Hãy đứng nhìn xuống thung lũng xanh rì phía dưới, bắc ghế ngồi giữa những dây leo đầy hoa, nghe tiếng ong bướm trò chuyện râm ran và để làn da trần được mơn trớn dưới ánh nắng ấm áp. Thiên nhiên và con người như hòa quyện vào nhau, đá và hoa, nắng và gió. Thật lạ, tại ngôi làng bằng đá, tôi thấy lòng mềm mại. Cảm giác lâng lâng khó tả nên lời.
Những căn chòi đá xếp
Dù hơi mệt vì leo cao, tôi cũng chẳng hề phàn nàn khi lên đến đỉnh làng Gordes, nơi tòa thị chính là một lâu đài đá nằm chênh vênh cùng thời gian. Lên đến vị trí này, đã thấy khá nhiều shop bán hàng lưu niệm và quán giải khát. Nhưng thật tuyệt, mọi thứ đều được quy hoạch sao cho cuộc sống hiện đại và công nghiệp du lịch không làm ảnh hưởng đến hồn đá nơi đây. Khách thập phương cũng thật biết điều, chẳng ai ăn to nói lớn, vứt rác lung tung hay có những hành động phi văn hóa.
Marie Christine đề nghị mua kem cho tôi ăn, nhìn vào bảng giá, tôi chỉ món nào rẻ nhất làm cô bật cười. Cô bé Titi bốn tuổi cũng thật ngoan, nó nhí nhảnh ngồi trên đùi tôi mút kem dâu. Chúng tôi thong thả ăn kem lạnh, nhìn xuống thung lũng xanh ngắt bên dưới ước gì có đôi cánh chao liệng như chim. Nhưng không nên quá lười biếng, ăn kem xong chúng tôi lại tiếp tục đi xuống đồi bằng con đường khác. Cũng xuyên qua làng, cũng len lỏi vào những con hẻm nhỏ, cũng có bướm và hoa. Nhưng cảnh vật có sự đổi khác, không hề rập khuôn và nhàm chán.
Dưới chân đồi, vẫn thuộc địa phận làng Gordes, là một ngôi làng nhỏ khác có tên Bories. Nơi đây có những căn chòi hoàn toàn bằng đá. Trông ngộ nghĩnh như những ngôi nhà mái tròn, thấp bé của người Esquimo. Nhưng thay vì được xếp lại bằng những tảng băng, những căn chòi này được xếp bằng đá, thuần túy không có chút vật liệu công nghiệp nào. Những viên đá được chọn lựa theo những kích thước thích hợp tùy vào độ cao của căn chòi, hoặc được mài giũa sao cho chúng nằm khít bên nhau, gắn kết và tồn tại qua mấy chục thế kỷ. Những căn chòi đá này ngày nay không ai ngụ vì thật không thoải mái trong một nơi nhỏ bé, nhưng số lượng du khách ghé đến chiêm ngưỡng hàng ngày rất đông đúc.
Yêu thương và trân trọng
Tổ tiên đã dày công tọa nên một ngôi làng xinh đẹp hàng ngàn năm tuổi tuyệt vời, người dân Gordes càng biết trân trọng và tận hưởng gia tài vô giá để lại cho mình. Họ đặc biệt yêu nơi chốn của mình và ra sức giữ gìn ngôi làng tổ tiên theo một cách riêng, sao cho hàng năm lượng khách du lịch tăng lên mà vẫn giữ được nét thiên nhiên của làng. Họ làm được điều đó nhờ biết hướng dẫn cho khách cùng trân trọng di sản: các tấm bảng chỉ đường ghi rõ ràng, những dòng chữ dặn dò hãy giữ yên tĩnh, các nhà vệ sinh công cộng luôn sạch sẽ, các thùng rác đặt tế nhị dọc lối đi… Ngoài ra, dân làng còn đi rảo khắp nơi nhằm giúp đỡ khách và tiện thể dò xem có ai gây tác hại gì đến Gordes.
Nhờ cách làm du lịch bài bản và lịch sự, khách đến với ngôi làng đặc trưng vùng Provence của miền Nam nước Pháp hầu hết đều có thái độ tôn trọng. Họ là những nhóm gia đình, đoàn thể, học sinh từ các nước châu Âu lân cận hay nước Mỹ xa xôi. Hoặc cũng có khi là một đôi vợ chồng mới cưới trên chiếc xe rong ruổi hưởng tuần trăng mật. Và họ cũng có thể chỉ là một cô gái Việt Nam như tôi, một sáng mùa hè đi thưởng ngoạn.

o O o

TRÊN CẦU AVIGNON
Hồi nhỏ học tiếng Pháp, tôi được dạy bài dân ca Trên cầu Avignon (Sur le pont d’Avignon) với tiết tấu rất vui nhộn. Bài hát tả cảnh người dân cùng khiêu vũ trên cầu rất thân thiện và chan hòa. Sau này có dịp đi Pháp, tôi quyết chí đến Avignon để tự mình nhảy nhót trên chiếc cầu này. Đến nơi, tôi bất ngờ nhận ra, chiếc cầu chỉ là một phần rất nhỏ trong tổng thể thành phố Avignon thật xinh đẹp.
Tường thành bao quanh
Thành phố Avignon nằm ở miền nam nước Pháp, nắng quanh năm dù vào mùa đông nhiệt độ xuống thấp và có cả tuyết rơi. Nơi đây đặc biệt nổi tiếng với cơn gió mistral nhưng dù đã đến Avignon ba lần, chưa lần nào tôi chứng kiến sự “lộng hành” của gió như nhiều người trải qua. Bao quanh thành phố là một bức tường thành tuyệt đẹp, cao chừng hai mươi mét, được chạm trổ bên trên thật công phu. Bức tường thành như muốn chứng tỏ chút uy quyền Avignon là nơi các giáo hoàng trú ngụ. Gia đình Alain – Pascale người quen của tôi ở ngay tại trung tâm thành phố. Alain vốn sinh ra và lớn lên tại Avignon. Alain rất tự hào dắt tôi đi tham quan thành phố nhiều công trình hoành tráng và xinh đẹp của mình. Ngôi nhà của ông nằm sát bên một góc tường thành đã được xây từ ngàn năm nay. Lối đi trên tường thành được lót đá cổ xưa, đi dạo thong dong trên đó thật thú vị. Vào ngày hè đẹp trời, khách du lịch mua tour để leo lên chiếc xe lửa mui trần thiết kế nhỏ xinh rong ruổi khắp tường thành.
Cung điện các giáo hoàng (Palais des Papes)
Cung điện các giáo hoàng là linh hồn của Avignon. Tòa lâu đài lộng lẫy kéo dài thành một quần thể rộng lớn, là nơi các giáo hoàn nói riêng và giới tăng lữ nói chung trú ngụ và phụng sự Chúa. Đặc biệt, vào đầu thế kỷ thứ 14, khi có xung đột tôn giáo giữa Ý và Pháp, vua Philippe Le Bel của Pháp đã làm áp lực, “bắt cóc” nguyên cả giáo hội từ Ý phải về Avignon và mãi đến 70 năm sau mới được dời về lại Ý. Do đó, ngoài Vatican, Avignon là nơi duy nhất trên thế giới chứng kiến bảy đời giáo hoàng sống, làm việc và “về với Chúa”. Vốn dĩ giới tăng lữ rất được xem trọng nên các giáo hoàng đã cho xây cung điện tại Avignon thật hoành tráng. Nhờ vậy, dân Avignon càng tự hào hơn về thành phố của mình, bởi nơi đây có đến hai di sản văn hóa thế giới, gồm cung điện các giáo hoàng và cầu Avignon.
Cầu Avignon
“Trên cầu Avignon, chúng ta khiêu vũ. Trên cầu Avignon, chúng ta cùng nhảy theo vòng tròn. Những quí ông nhảy như thế này, Những quí bà nhảy như thế này…”. Đó là lời bài dân ca vui nhộn những ai học tiếng Pháp đều phải biết. Và nhờ bài dân ca này, cây cầu Avignon trở thành một đại sứ quảng bá cho quê hương mình.
Hổi nhỏ, tôi cứ thắc mắc “nhảy như thế này” là nhảy như thế nào? Không một cô giáo nào giải thích được, cuối cùng, có ai đó nói bừa: “Ở Avignon người ta nhảy theo một kiểu riêng, khi nào lớn có dịp đến Avignon con sẽ thấy!”. Thế rồi giờ đây, đứng trên cây cầu Avignon, tôi cứ ngỡ mình đang là một cô bé mười tuổi. Nhưng nhảy nhót trên cầu đã là chuyện của những thế kỷ trước. Alain bật cười khi thấy tôi ngơ ngẩn đứng trên cầu nhìn xuống sông sâu.
Chiếc cầu trứ danh được xây dựng từ thế kỷ thứ 15 với 22 nhịp nay đã không còn. Trải qua những trận lũ lụt, sông Rhône đã cuốn phăng một đoạn cầu dài để rồi giờ đây, cầu Avignon chỉ còn vỏn vẹn bốn nhịp ít ỏi. Tuy vậy, bề ngang của cầu vẫn còn rất dày và một đoạn cầu ngắn ngủi đó cũng khiến UNESCO chọn làm di sản văn hóa thế giới. Ngày nay, tuy cầu không còn làm nhiệm vụ bắc ngang sông nhưng một đoạn cầu vẫn còn rất bề thế, khách du lịch tha hồ đứng trên đó chụp hình thoải mái. Cầu Avignon xuất hiện rất nhiều trên những tấm bưu thiếp và cũng nhờ mua bưu thiếp, tôi phát hiện rằng cầu có tên thật là Saint Benezet.
Thành phố nghệ thuật
Những ai làm trong lĩnh vực kịch nghệ hẳn luôn mong được đến Avignon vào dịp festival sân khấu quốc tế hằng năm tổ chức vào cuối hè. Khắp nơi không khí kịch nghệ tưng bừng với các tấm bích chương, cớ phướn, những buổi kịch diễn ngoài trời và trong các sân khấu. Các loại hình kịch trên thế giới đều được quy tụ và năm nào Việt Nam mình cũng được mời tham dự. Alain khoe với tôi ông từng xem “tuồng”, “chèo”, “múa rối nước”, “múa cung đình” tại Avignon. Ông tự hào nói rằng có thể tại Việt Nam tôi không còn dịp xem những loại hình sân khấu này, nhưng ông lại được mục sở thị tại Avignon. “Đây là thành phố nghệ thuậ mà!”, Alain gật gù khoái chí, “cả thế giới đều đến Avignon và đắm mình vào nghệ thuật kỳ ảo”.
Dù đã đến Avignon những ba lần, tôi biết rằng mình sẽ không ngần ngại lại ghé qua nếu có dịp. Thành phố quá xinh đẹp, cổ kính nhưng luôn có hơi thở đương đại. Và nhất là, ở đó tôi có gia đình thân thiện của Alain-Pascale luôn mở rộng cửa đón chào.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.