Việc Máu

CHƯƠNG 43



Sau một đêm ngủ chập chờn cứ mơ đi mơ lại thấy mình bị kéo lê qua vùng nước sâu hút đen ngòm, McCaleb thức dậy lúc bình minh. Ông tắm táp rồi làm cho mình một bữa điểm tâm thịnh soạn – trứng ốp lết phi hành và tra tiêu xanh, xúc xích bỏ lò vi ba, hơn nửa lít nước cam. Ăn xong, ông vẫn thấy đói mà chẳng hiểu tại sao. Rồi ông đi tới mũi thuyền, lại đo nhiệt độ, nhịp tim và các chỉ số quan trọng khác. Mọi thứ đều ổn. Đến bảy giờ năm phút ông quay số gọi văn phòng Jaye Winston. Chị đang ở đó, chỉ cần nghe giọng chị là ông đã biết chị đã làm việc trắng đêm.
“Có hai chuyện,” McCaleb nói. “Khi nào chị muốn tôi đến tường trình chính thức và khi nào tôi lấy xe lại được?”
“Ờ, chiếc Cherokee thì anh lấy khi nào cũng được. Tôi chỉ cần gọi điện bảo người ta cho lấy là xong.”
“Nó đâu?”
“Ngay đây. Trong bãi giam xe.”
“Chắc là tôi phải đến đó lấy.”
“Ồ, đằng nào thì anh cũng sẽ tới đây làm tường trình cho tôi mà. Sao anh không làm hai việc một lần luôn thể?”
“Được thôi, khi nào? Tôi muốn làm cho xong chuyện này đi. Tôi muốn thoát khỏi đây, đi nghỉ.”
“Anh định đi đâu?”
“Tôi chả biết nữa. Chỉ là tôi phải đi khỏi đây, cố sao rũ sạch được hết mớ thuốc độc này. Chắc là đi Vegas.”
“Chỗ ấy mà để hồi phục tâm thần thì quá tuyệt còn gì.”
McCaleb lờ đi ý mỉa mai của chị.
“Tôi biết. Vậy ta gặp nhau ở đâu được?”
“Tôi phải ráp vụ này lại càng nhanh càng tốt thành thử tôi cần bản tường trình của anh. Cho nên sáng nay lúc nào cũng được hết. Tôi sẽ thu xếp thời gian tiếp anh.”
“Vậy tôi đi ngay đây.”
Buddy Lockridge đang ngủ trên ghế dài trong buồng lái.
McCaleb khều anh ta và anh ta giật thót mình tỉnh dậy.
“Cái gì – ơ này, Terror, anh bạn về rồi đấy à.”
“Ừ, tôi về rồi đây.”
“Xe tôi sao rồi bạn?”
“Vẫn chạy. Nghe này, dậy đi, tôi phải đi thêm một chuyến nữa rồi thì tôi cần anh thả tôi lại đó.”
Lockridge chầm chậm cất mình lên trong tư thế ngồi.
Anh ta đang nằm dưới một cái túi ngủ. Anh vơ cái túi choàng quanh mình rồi dụi mắt.
“Mấy giờ rồi?”
“Bảy rưỡi.”
“Mẹ khỉ, anh bạn.”
“Tôi biết, nhưng đây sẽ là lần cuối.”
“Mọi chuyện ổn chứ?”
“Ừ, ổn cả. Tôi chỉ cần anh thả tôi xuống văn phòng cảnh sát trưởng để tôi lấy xe của tôi. Trên đường tôi cần ghé qua một ngân hàng.”
“Còn sớm thế này ngân hàng họ đâu đã mở cửa.”
“Đến khi mình đi tới Whittier thì họ sẽ mở thôi.”
“Vậy nếu tôi lái xe đưa anh đến đó lấy xe của anh thì sẽ ai lái nó từ đó về đây?”
“Tôi. Đi nào.”
“Nhưng anh nói anh chưa được lái xe mà, bạn. Nhất là xe có túi khí.”
“Đừng lo chuyện đó, Buddy.”
Nửa giờ sau họ đã trên đường đi. McCaleb mang theo một túi xách to đựng quần áo để thay và mọi thứ cần thiết cho chuyến hành trình. Ông cũng mang theo một bình thủy đựng cà phê và hai cái tách. Dọc đường ông rót cà phê rồi tóm tắt cho Buddy về vụ án và tất cả những gì đã xảy ra. Buddy vừa lái xe vừa đặt câu hỏi suốt.
“Chắc là mai tôi sẽ phải mua báo đây,” anh nói.
“Vụ này có lẽ còn được phát trên tivi nữa.”
“Này, liệu có được viết thành sách không? Có tôi trong ấy không?”
“Tôi không biết. Chắc là hôm nay báo chí biết chuyện cả rồi. Tôi nghĩ người ta quyết định mua một cuốn sách hay không là còn tùy chuyện hấp dẫn đến đâu.”
“Người ta có trả tiền cho anh để được dùng tên anh như thế không? Ý tôi là trong một cuốn sách ấy. Hay là như trong phim?”
“Tôi không biết. Tôi đoán có lẽ anh cũng có thể đòi hỏi chút gì đó. Anh góp một phần quan trọng mà. Anh đã phát hiện ra bức ảnh bị thiếu trong xe của Cordell.”
“‘Đúng thế, là tôi phát hiện mà.”
Lockridge xem ra tự hào về vai trò của mình và cái triển vọng kiếm được ít tiền nhờ đấy.
“Còn khẩu súng nữa chứ. Tôi đã tìm thấy khẩu súng mà thằng chó ấy giấu dưới thuyền.”
McCaleb cau mày.
“Anh biết không, Buddy? Nếu như có cuốn sách nào hoặc bất cứ nhà báo hay tay cớm nào lai vãng tới thì tôi sẽ thích hơn nhiều nếu anh đừng bao giờ nhắc tới khẩu súng ấy. Làm thế là anh giúp tôi nhiều lắm đấy.”
Lockridge liếc sang ông rồi lại nhìn ra đường.
“Chẳng sao cả. Tôi sẽ im như thóc.”
“Tốt. Cứ thế chừng nào tôi chưa bảo anh làm khác. Rồi thì nếu có ai tới gặp tôi để viết sách, nhất định tôi sẽ bảo họ đến gặp anh.”
“Cám ơn anh bạn.”
Đến khi họ đánh vật xong với dòng xe cộ mà tới được Whittier thì đã hơn chín giờ. McCaleb bảo Lockridge dừng lại cạnh chi nhánh Ngân hàng Mỹ quốc trong khi ông vào ghi một phiếu rút tiền trị giá 1.000 đô, lấy tiền mặt mệnh giá hai mươi và mười đô.
Vài phút sau chiếc Taurus tấp vào bãi đỗ xe của Trung tâm Sao. McCaleb đếm riêng ra 250 đô đưa cho Lockridge.
“Chỗ này là gì đây?”
“Trả cho anh đã cho tôi mượn xe và lái xe chở tôi hôm nay. Còn nữa, tôi sẽ đi vắng ít ngày, anh để mắt trông thuyền hộ tôi nhé?”
“Tôi sẽ để mắt, anh bạn. Anh đi đâu?”
“Chưa biết nữa. Mà tôi cũng không biết khi nào về.”
“Được thôi. Hai trăm rưỡi thì được khá lâu đấy.”
“Còn nhớ cái bà đến thăm tôi chứ? Bà xinh xinh ấy?”
“Nhớ chứ.”
“Tôi hy vọng bà ta sẽ ghé chỗ thuyền tìm tôi. Trông chừng bà ta nhé.”
“OK. Nếu bà ta tới thì tôi làm gì?”
McCaleb nghĩ một thoáng.
“Chỉ cần bảo bà ta là tôi vẫn đang đi vắng nhưng tôi mong bà ta sẽ ghé.”
McCaleb mở cửa xe. Trước khi chui ra, ông bắt tay Lockridge và nói với anh ta lần nữa rằng anh ta đã giúp ông rất nhiều.
“OK. Tôi thoát khỏi đây rồi.”
“Nhất định rồi, anh bạn, chúc may mắn nhá.”
“À này, có chuyện này. Chắc là tôi sẽ lái xe nhiều đấy. Anh cho tôi mượn một trong mấy cây harmonica của anh có được không?”
“Thích cái nào cứ lấy.”
Anh ta lục lọi trong túi để đồ nơi cửa xe, lôi ra ba cây harmonica. McCaleb chọn cây mà ông đã thổi trong lúc lái xe dọc xa lộ ven bờ biển đêm hôm nọ.
“Cây đó được đấy. Mình chơi bắt đầu từ khóa C đấy nhé.”
“Cám ơn. Buddy.”
“Anh xài giờ dây thun quá đó,” Winston nói khi McCaleb đi lại bàn làm việc của chị. “Tôi đang tự hỏi chả biết anh biến vào cái xó nào rồi.”
“Tôi đi vòng vòng trong sân giam xe nãy giờ cả tiếng rồi,” McCaleb đáp. “Tôi không tin người của chị được. Các người lấy xe tôi đi bằng một cái trát trời đánh thế mà chính tôi phải trả phí lai dắt với phí lưu bãi. Một trăm tám mươi đô. Chả hề có công lý trên thế giới này, Jaye ạ.”
“Thôi nào, người ta chưa làm mất và khi anh nhận lại nó vẫn còn nguyên vẹn thì cũng còn may chán đấy. Ngồi đi. Tôi chưa sẵn sàng đâu.”
“Thế thì chị ca cẩm chuyện tôi tới muộn để làm gì chứ?”
Chị không đáp. McCaleb ngồi vào cái ghế bên hông bàn làm việc của chị rồi quan sát trong khi chị đọc một báo cáo đánh máy, hình như là đọc để sửa, sau đó thì ký nháy vào cuối mỗi trang.
“Được rồi,” chị nói “Tôi sắp dùng một trong mấy phòng thẩm vấn. Băng đã lắp sẵn rồi. Ta đi chứ?”
“Đợi tí đã. Từ đêm qua tới giờ chuyện gì xảy ra vậy?”
“Ồ, phải. Anh đâu có mặt đâu.”
“Chị đã lấy được dấu tay nào từ mấy cái bóng đèn chưa?”
Chị vừa mỉm cười rạng rỡ vừa gật đầu.
“Sao chị không bảo tôi?” McCaleb phản đối. “Bọn chị tìm được gì?”
“Tất tật. Hai lòng bàn tay, cả hai ngón cái, bốn ngón tay. Chúng tôi cho vào máy và tìm ra một quả bất ngờ. Thằng đó là dân vùng này. Tên là Daniel Crimmins, ba mươi hai tuổi. Anh còn nhớ cái chân dung anh lập ra cho lực lượng đặc nhiệm trong vụ Sát thủ Mật mã chứ? Anh quả là đoán như thần, McCaleb. Không sai chạy mảy may.”
McCaleb cảm thấy sinh lực dâng tràn trề bên trong mình, mặc dù bề ngoài ông cố giữ bình thản. Những mảnh ghép nối cùng của câu đố đang rơi vào đúng vị trí. Ông cố nhớ lại tên của nghi phạm từ các hồ sơ vụ án nhưng chịu không nhớ được.
“Kể tôi nghe đi.”
“Hắn từng học ở Học viện cảnh sát Los Angeles nhưng bị loại. Đó là chuyện năm năm trước. Theo chỗ chúng tôi biết thì từ đó tới giờ hắn làm một số việc liên quan đến dịch vụ an ninh tư. Không phải nghề thám tử tư đâu. Là nghề vi tính ấy. Hắn quảng cáo trên Internet, có một trang web, hắn gửi thư đến các doanh nghiệp, về cơ bản hắn bán giải pháp an ninh máy tính. Chúng tôi nghe nói đôi khi hắn kiếm được việc làm bằng cách đột nhập vào máy tính của một công ty rồi thì gửi email cho chủ tịch công ty đó, cho ông ta biết làm việc đó dễ đến cỡ nào và tại sao họ nên thuê hắn để hắn làm cho hệ thống của họ an toàn không ai đột nhập được.”
“Hệ của CMN?”
“Anh đoán đúng đấy. Hiện giờ chúng tôi đang có một đội ở đó nhưng họ vừa mới gọi về mới ban nãy thôi. Có một vị lãnh đạo nhớ là đã nhận được email của Crimmins hồi năm ngoái. Nhưng ông ta chả thèm để ý, coi là thư rác. Ông ta xóa béng đi và chả bao giờ nhận thêm cái nào nữa. Nhưng nó cho thấy Crimmins từng chui vào trong hệ thống CMN.”
McCaleb gật đầu.
“Đã có ai lấy hồ sơ của hắn ở chỗ cảnh sát Los Angeles chưa?”
“Rồi, Arrango. Hồi học ở đó hắn là kẻ chả ai ưa, hắn có quan hệ với ai cũng chỉ vì cần thiết mà thôi. Nhưng về cơ bản thằng cha trụ được ở đó năm tháng. Lý do khiến người ta cho hắn thôi là – theo lời họ – hắn không phát triển được trong bầu không khí trường lớp của học viện. Nói thế là ta hiểu rằng: gã này là một tay hướng nội chẳng đời nào trụ lâu được trong một tổ tuần tra cơ động. Sẽ chẳng một cộng sự nào chịu được hắn. Thành thử họ mới cho hắn ra rìa. Gay cho hắn ở chỗ hắn là thế hệ thứ hai làm cảnh sát. Ông già hắn nghỉ hưu, chuyển về Blue Heaven cách đây mười năm. Uhlig đã cho người ở văn phòng tác chiến Idaho đi tìm ông bố rồi. Ông ta nói là theo chỗ ông ta biết, con trai ông hiện đang làm việc ở Sở cảnh sát Los Angeles. Ông ta không biết thằng nhóc cưng của mình đã bị đá đít vì thằng nhóc có kể cho ông ta đâu. Ông ta nói đã năm sáu năm rồi ông ta không gặp thằng con nhưng mỗi khi nói chuyện qua điện thoại thì thằng con luôn luôn kể những câu chuyện chiến đấu ly kỳ.”
“Ừ, toàn bịa tuốt.”
McCaleb thấy tất cả đều khớp. Phức cảm quyền lực. Sau khi bị cho ra rìa, Crimmins chuyển cái phức cảm đó từ người cha sang Sở Cảnh sát Los Angeles. Việc hắn bị loại khỏi học viện có thể đã gây ra đổ vỡ tâm lý, nó có tác dụng biến một cuồng tưởng hư cấu vô hại thành trò giải trí chết người. Các vụ án mạng đều xảy ra trên địa phận của cảnh sát Los Angeles. Hắn làm thế để buộc cái cơ quan từng cho hắn là kẻ không xứng đáng phải thấy rằng hắn thông minh, sáng láng và xứng đáng đến thế nào.
McCaleb chợt nảy ra ý nghĩ rằng lúc lập chân dung của Sát thủ Mật mã cách đây ba năm, ông đã gợi ý rằng nên ưu tiên thẩm vấn các sĩ quan cảnh sát bị sa thải và học viên cảnh sát bị loại. Theo chỗ ông biết thì điều đó người ta đã làm.
“Đợi đã. Cái thằng này lẽ ra phải bị thẩm vấn từ hồi đó rồi chứ. Trong chân dung có ghi là sự nghiệp cảnh sát dở dang kia mà.”
“Hắn có bị thẩm vấn. Thành thử Arrango mới đang lục hồ sơ ra. Bằng cách nào đó, Crimmins qua được bài sát hạch. Hắn bị một nhóm của lực lượng đặc nhiệm thẩm vấn, nhưng hắn chẳng nhướng một cái lông mày hoặc cho người ta có cơ sở gì để nghi ngờ. Nhưng dù gì thì chắc chuyện đó làm hắn hoảng. Hắn bị thẩm vấn chỉ bốn tuần sau vụ giết người cuối cùng mang tên Sát thủ Mật mã. Có lẽ đó là lý do khiến hắn thôi.”
“Có thể. Dẫu sao, nếu như người ngoài họ biết được mình đã thẩm vấn thằng này rồi lại để vuột mất thì chẳng hay ho lắm.”
“Tệ quá là tệ ấy chứ. Thôi thì chuyện tới đâu hay tới đó. Chúng tôi đã bố trí họp báo lúc ba giờ chiều rồi.”
McCaleb cân nhắc điều Winston vừa nói, rằng các vụ giết người đã ngưng lại sau khi Crimmins bị thẩm vấn. Ông cảm thấy khoan khoái hài lòng bởi cũng có thể chính chỉ thị của ông về việc cần thẩm vấn các học viên cảnh sát bị loại đã khiến các vụ giết người ngưng lại. Trong khi ông khoan khoái với ý nghĩ đó, Winston mở một tập hồ sơ, lấy ra một tấm ảnh màu từ một xấp giấy tờ trong đó. Chị trao ảnh cho McCaleb. Trong ảnh là Crimmins mặc đồng phục học viện cảnh sát. Áo quần chỉn chu, mày râu nhẵn nhụi, khuôn mặt hẹp và cặp mắt đầy hy vọng dường như để lộ ra sự tự tin của hắn. Như thể ngay lúc người ta chụp bức ảnh hắn đã biết mình sẽ không đi tới cùng, rằng sẽ chẳng có bức ảnh lễ tốt nghiệp nào hết.
“Vậy là trông cũng như lúc hắn mạo danh Noone, chẳng cải dạng gì nhiều,” ông nói. “Chỉ cần cặp kính cộng với cái gì đó nhét trong cặp má hắn để cho mặt hắn trông đầy hơn.”
“Đúng. Có lẽ vì hắn biết hắn sẽ tiếp xúc trực tiếp với cảnh sát thành thử nếu cải dạng nhiều quá thì sẽ lộ.”
“Tôi giữ tấm này được không?”
“Được chứ, hôm nay chúng tôi sẽ phân phát ảnh này mà.”
“Còn gì nữa? Chị có tìm ra địa chỉ không?”
“Chẳng có gì hay cả. Hiện giờ vẫn chỉ có cái nhà kho anh phát hiện mà thôi. Nhưng ắt phải có chỗ khác nữa. Trang web của hắn vẫn hoạt động cả sau khi chúng tôi cắt điện cái nhà kho nghĩa là hắn phải có máy tính khác ở đâu đó. Đang hoạt động ngay lúc ta đang trò chuyện đây.”
“Họ không thể lần theo đường dây điện thoại sao?”
“Hắn có một nhà cung cấp nặc danh.”
“Nghĩa là sao?”
“Bất cứ cái gì đi vào trang web này hoặc từ đó đi ra đều phải qua nhà cung cấp quyền truy cập Internet ẩn danh này. Chúng tôi không thể truy ra mà cũng không thể đột nhập vào hệ thống của nhà cung cấp do có cái Tu chính án số Một chết giẫm. Vả lại, chuyên gia của chúng tôi ở đằng Cục là Bob Clearmountain có bảo tôi những người như hắn bây giờ dùng sóng vi ba chứ không dùng đường điện thoại thường. Khiến truy cho ra và định vị được lại càng khó.”
Các chi tiết về công nghệ nằm ngoài sức hiểu của McCaleb. Ông đổi đề tài.
“Lúc họp báo chị sẽ nêu rõ danh tính hắn chứ?”
“Chắc vậy. Chúng tôi sẽ trưng ảnh ra, cho người ta xem cuốn băng quay buổi thôi miên, để xem phản ứng của họ thế nào. À này, Keisha Russell ở tờ Thời báo ấy. Anh có hứa sẽ cho cô ta biết trước à?”
“Tôi nợ cô ấy một cuộc gọi. Cô ấy đã giúp tôi ngay từ đầu vụ này. Sáng nay tôi đã cho cô ấy một tin nhắn thoại. Chắc tôi sẽ cho cô ấy lợi thế biết đầu tiên. Xin lỗi.”
“Không sao, thế cũng được. Tôi thích cô ta. Dù sao tôi cũng cần nói chuyện với cô ta. Nevins có kể với tôi điều anh nói đêm qua, rằng có thể chính thằng cha này đã gửi thư tới tòa soạn gợi ý họ viết bài về anh trên tờ Thời báo.”
“Phải. Cô ấy có giữ lá thư không?”
“Không. Cô ấy chỉ nhớ thư ký tên là Bob gì đấy. Ắt là hắn rồi. Hắn dàn dựng vụ này kỹ thế kia mà.”
McCaleb chợt nghĩ đến một điều. Graciela có kể với ông rằng mãi đến khi có người tự xưng từng làm việc chung với Glory gọi điện báo cho nàng về bài báo trên tờ Thời báo viết về ông thì nàng mới biết. Chừng đó nàng mới đến thư viện đọc bài báo. McCaleb nhận ra rằng kẻ gọi điện đó cũng có thể là chính Crimmins đang khởi động kế hoạch của hắn.
“Gì vậy?” Winston hỏi.
“Không có gì. Chỉ là tôi đang nghĩ thôi.”
Ông quyết định chưa nói cho Winston biết về linh cảm của mình. Ông sẽ tự mình kiểm chứng. Làm vậy thì ông sẽ có lý do để phá vỡ lời hứa không gọi điện cho Graciela. Ông có thể biến nó thành một cuộc gọi vì công việc.
“Vậy thì,” Winston hỏi, “theo anh hắn đang ở đâu?”
“Crimmins á?” Ông do dự. “Trong gió, chắc vậy.”
Winston dò xét gương mặt ông trong một thoáng. “Tôi nghĩ chắc anh đang có ý tưởng gì đây.”
Ông ngoảnh đi không nhìn chị nữa mà nhìn xuống mặt bàn.
“Ừ thì, gió không thể thổi mãi mãi được,” chị nói, cho qua chuyện ấy. “Hắn rồi sẽ phải xuống đất ở đâu đó.”
“Hy vọng vậy.”
Đoạn họ im lặng, đã nói hết với nhau những gì cần nói ngoại trừ cái thủ tục hình thức là bản tường trình mà ông sẽ phải thu băng.
“Có thể là chẳng liên quan gì tới tôi,” Winston nói, “nhưng anh sẽ xử trí thế nào với chuyện này đây?”
“Tôi đang nghĩ đây.”
“Này, nếu anh cần ai đó để bàn bạc…”
Ông gật đầu tỏ ý cảm ơn.
“OK, vậy chúng ta sẽ cùng nhau kết thúc vụ này nhé?”
Một giờ sau McCaleb ngồi một mình trong phòng thẩm vấn. Ông đã thuật lại chuyện của mình cho Winston và chị đã rời phòng mang cuốn băng đi cho người ta ghi lại thành văn bản. Chị cho phép ông dùng cái điện thoại trên bàn và bảo nếu cần ông có thể dùng căn phòng bao lâu cũng được.
Ông sắp xếp các ý nghĩ của mình trong một lát rồi mới bấm số điện thoại trực y tá ở khoa cấp cứu bệnh viện Holy Cross. Ông xin gặp Graciela, nhưng người phụ nữ nghe máy nói rằng Graciela không có ở đó.
“Có phải cô ấy nghỉ giải lao không?”
“Không, hôm nay cô ấy không đến đây.”
“OK, cám ơn chị.”
Ông gác máy. Ông đoán rằng nàng có gọi điện báo ốm. Ông không trách nàng được. Với những tin tức ông đã kể cho nàng đêm trước thì ông không thể trách nàng, ông tìm số ở nhà nàng. Nhưng sau năm hồi chuông chỉ có máy trả lời tự động lên tiếng. Sau tiếng bíp ông cứ lúng ta lúng túng không biết để lại tin nhắn gì.
“Ừm… Graciela ơi, là anh, Terry đây, em có đó không?”
Ông đợi một hồi lâu rồi nói tiếp.
“Ừm, anh chỉ muốn… họ nói em không đi làm nên anh, ờ, anh muốn chào em, với lại có đôi câu hỏi anh cần hỏi em về vài chuyện. Chủ yếu là vài mắc mứu chưa giải được… nhưng sẽ tốt nếu như… dù sao thì, anh sắp phải đi, chắc anh sẽ thử gọi lại em sau. Ừm, chắc anh sẽ đi trên đường thành thử em không phải lo gọi lại cho anh đâu.”
Ông ước gì có thể xóa tin nhắn đó đi rồi bắt đầu lại. Ông tự rủa mình và gác máy, rồi thì tự hỏi không biết lời rủa có bị ghi lại không. Ông lắc đầu, đứng dậy rời khỏi phòng.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.