Vợ Người Du Hành Thời Gian

CHƯƠNG 27: BẢY



Thứ Năm, 8/12/2000 (Henry 33 và 37tuổi, Clare 29 tuổi)
HENRY: Tôi đang đứng trong phòng ngủ của chúng tôi, ở tương lai. Đang là nửa đêm, nhưng ánh trăng đem đến cho căn phòng một vẻ sáng bừng đơn sắc phi thường. Hai tai tôi đang ù đi, như cách chúng vẫn thường xảy ra khi tôi ở tương lai. Tôi nhìn xuống Clare và tôi đang ngủ. Có cảm giác như cái chết. Tôi cuộn tròn người ngủ, đầu gối chạm vào ngực, trùm chăn kín mít, miệng hơi hé mở. Tôi muốn chạm vào tôi. Tôi muốn ôm tôi trong tay mình, nhìn vào mắt tôi. Nhưng chuyện đó sẽ không xảy ra; tôi đứng nhìn đăm đăm không dứt vào tôi đang ngủ của tương lai trong vài phút đằng đẵng. Cuối cùng tôi bước khẽ về phía Clare, quỳ xuống. Tôi cảm thấy hệt như đang ở trong hiện tại. Tôi cố quên đi cái thân thể khác của mình đang nằm trên giường để tập trung vào Clare.
Cô ấy cựa người, mở mắt. Cô ấy không chắc mình đang ở đâu. Tôi cũng vậy.
Tôi tràn ngập trong cảm hứng, trong sự khao khát được gắn kết với Clare mãnh liệt hết mức có thể, để được ở đây, lúc này. Tôi hôn nhẹ cô ấy hồi lâu. Cô ấy vẫn đang say sưa trong giấc ngủ, đưa tay lên mặt tôi và dần tỉnh táo hơn khi cảm nhận được sự vững chắc của tôi.
Giờ thì Clare đã tỉnh; cô ấy vuốt dọc tay tôi âu yếm. Tôi cẩn thận gỡ tấm ga giường ra khỏi người cô ấy để khỏi kinh động đến bản thể khác của tôi, người mà Clare vẫn chưa nhận ra. Tôi tự hỏi liệu tôi khác này có không thể nào thức dậy, nhưng rồi tôi quyết định không tìm hiểu thêm, tôi nằm trên người Clare, che chắn hoàn toàn cô ấy bằng thân thể mình. Tôi ước gì có thể ngăn cô ấy khỏi quay đầu lại, nhưng cô ấy sẽ sớm quay đầu.
Khi tôi bắt đầu đi vào trong Clare, cô ấy nhìn tôi và tôi nghĩ mình như không tồn tại. Một giây sau đó, cô ấy quay đầu đi và nhìn thấy tôi. Cô ấy kêu lên, không quá to, rồi quay lại nhìn tôi, đang ở trên cô ấy, bên trong cô ấy. Rồi cô ấy nhớ ra, và chấp nhận nó, việc này khá kì cục nhưng chẳng sao cả, trong khoảnh khắc đó tôi yêu cô ấy hơn cả cuộc sống này.
Thứ Hai, 12/12/2001 (Henry 37 tuổi, Clare 29 tuổi)
HENRY: Tâm trạng của Clare rất kì lạ suốt tuần vừa rồi. Cô ấy có vẻ lơ đễnh. Như thể có điều gì đó mà chỉ mình cô ấy nghe thấy đã thu hút tất cả sự chú ý của cô ấy, như thể cô ấy đang nhận sự tiết lộ từ Chúa, hay đang tìm cách đọc mã tín hiệu truyền từ vệ tinh của Nga trong đầu cô ấy. Khi tôi hỏi, cô ấy chỉ mỉm cười và nhún vai. Thật không giống với Clare một chút nào, nên tôi cảnh giác.
Tôi trở về nhà từ nơi làm việc một buổi tối nọ và chỉ nhìn Clare tôi đã biết có chuyện gì đó tồi tệ vừa xảy ra. Biểu hiện của cô ấy vừa có vẻ sợ hãi, vừa van nài. Cô ấy tiến lại gần tôi rồi dừng lại, chẳng nói gì. Có lẽ ai đó đã qua đời. Ai? Bố tôi? Kimy? Philip? “Em hãy nói gì đi”, tôi hỏi. “Có chuyện gì xảy ra vậy?”
“Em đã có mang.”
“Làm thế nào.. ” tôi biết làm thế nào. “Quên đi, anh nhớ ra rồi”. Đối với tôi, đêm đó đã là nhiều năm trước, nhưng đối với Clare nó chỉ vài tuần trước. Tôi đã đến từ năm 1996, khi chúng tôi đang gắng hết sức để thụ thai, và Clare hầu như còn chưa tỉnh giấc. Tôi nguyền rủa chính mình vì sơ suất ngu ngốc đó. Clare đang đợi tôi nói gì đó. Tôi buộc chính mình phải mỉm cười.
“Bất ngờ lớn nhỉ?”
“Phải.” Cô ấy có vẻ chực khóc. Tôi ôm cô ấy vào lòng và cô ấy ôm lại tôi thật chặt.
“Em sợ không?” tôi thì chầm vào tai Clare.
“Có.”
“Trước đây em chưa bao giờ sợ.”
“Trước đây em đã sợ. Nhưng giờ em biết…”
“Biết nó là gì.”
“Biết điều gì sẽ xảy ra.”
Chúng tôi đứng và nghĩ về điều sẽ xảy ra.
Tôi ngập ngừng. “Chúng ta có thể…” tôi bỏ lửng câu nói.
“Không. Em không thể.” Phải rồi. Clare không thể. Một lần theo Công Giáo, cả đời theo Công Giáo.
Tôi nói, “Có thể sẽ không sao cả. Một tai nạn hạnh phúc.”
Clare mỉm cười, và tôi nhận ra rằng cô ấy muốn điều này, rằng cô ấy thực sự hi vọng 7 sẽ là con số may mắn của chúng tôi. Cổ họng tôi nghẹn lại, và tôi phải quay mặt đi chỗ khác.
Thứ ba, 20/2/2001 (Clare 29 tuổi, Henry 37 tuổi)
CLARE: Đồng hồ trên radio đang điểm 7 giờ 46 phút sáng, và đài trung ương đang tiếc thương nói với tôi rằng có một vụ tai nạn máy bay ở đâu đó, 86 người đã chết. Tôi chắc rằng mình là một trong số họ. Phía giường của Henry đang trống trơn. Tôi nhắm mắt lại và thấy mình đang nằm trên chiếc giường nhỏ trong cabin của một chiếc du thuyền, lênh đênh giữa biển cả dữ dội. Tôi thở dài và cẩn thận bước xuống giường, đi vào nhà vệ sinh. Tôi vẫn đang nôn mười phút sau đó khi Henry thò đầu vào cửa và hỏi tôi có ổn không. “Tuyệt. Chưa bao giờ khỏe hơn.”
Anh ấy ngồi xuống thành bồn tắm. Tôi thà không có khán giả chứng kiến cảnh tượng này. “Anh có nên lo lắng không? Trước đây em chưa bao giờ ốm nghén.”
“Amit nói đây là dấu hiệu tốt; em phải nôn.” Nó có liên quan gì đấy đến việc cơ thể tôi tiếp nhận đứa trẻ như một phần của tôi, thay vì như một cơ thể xa lạ. Amit đã đưa cho tôi loại thuốc mà họ đưa cho các bệnh nhân sau khi cấy ghép nội tạng.
“Có lẽ chốc nữa anh nên đi hiến thêm máu cho em.” Henry và tôi cùng nhóm máu O. Tôi gật đầu và lại nôn. Chúng tôi là ngân hàng máu của nhau; anh ấy đã phải truyền máu hai lần, còn tôi ba lần, một trong những lấn ấy cần một lượng máu lớn. Tôi ngồi đó một lúc rồi lảo đảo đứng dậy. Henry giữ cho tôi đứng vững. Tôi lau miệng và đánh răng. Henry xuống dưới nhà chuẩn bị bữa sáng. Một cơn thèm cháo yến mạch không thể cưỡng nổi dấy lên trong tôi.
“Anh nấu cháo yến mạch nhé!” tôi hét vọng xuống dưới nhà.
“Được rồi!”
Tôi bắt đầu chải tóc. Hình ảnh của tôi trong gương hồng hào và sưng húp. Tôi tưởng phụ nữ có mang đáng lẽ phải đỏ hây hây. Tôi chẳng hây hây chút nào. Ừ thì, tôi vẫn có mang, và đó là tất cả những gì đáng bận tâm.
Thứ Năm, 19/4/2001 (Henry 37 tuổi, Clare 29 tuổi)
HENRY: Chúng tôi đang ở văn phòng của Amit Montague để siêu âm. Clare và tôi vừa nóng lòng vừa miễn cưỡng làm việc này. Chúng tôi không đồng ý chọc ối, vì chúng tôi biết chắc rằng sẽ mất đứa bé nếu chọc nó bằng một cây kim khổng lồ. Clare đã có mang 18 tuần. Đã được nửa đường; nếu chúng tôi có thể gập thời gian lại làm hai như bài kiểm tra Rorschach thì đây sẽ là điểm gấp chính giữa. Chúng tôi sống trong tình trạng phập phồng lo lắng, e ngại không dám thở vì sợ sẽ thổi đứa bé ra quá sớm.
Chúng tôi ngồi trong phòng đợi với các cặp sớm thành phụ huynh khác và những bà mẹ đẩy xe nôi, những đứa trẻ chập chững chạy quanh rồi ngã bổ vào đồ đạc. Văn phòng của bác sĩ Montague luôn khiến tôi sầu não, vì chúng tôi đã dành quá nhiều thời gian ở đây, lo lắng và không ngừng nghe những tin không vui. Nhưng hôm nay thì khác. Hôm nay mọi chuyện sẽ tốt đẹp.
Y tá gọi tên chúng tôi. Chúng tôi vào phòng khám. Clare cởi quần áo ra, nằm lên bàn và đang được bôi trơn, được nội soi. Kĩ thuật viên theo dõi màn hình. Amit Montague, một phụ nữ cao ráo quý phái người Pháp, theo dõi màn hình. Clare và tôi nắm chặt tay nhau. Chúng tôi cùng theo dõi màn hình. Từ từ, hình ảnh được hiện lên, từng chút một.
Trên màn hình là bản đồ thời tiết của thế giới. Hoặc một dải ngân hà, vòng xoáy của những vì sao. Hoặc là một đứa trẻ.
“Là một bé gái”, bác sĩ Montague nói. “Cô bé đang mút ngón tay cái của mình. Cô bé rất kháu khỉnh. Và rất lớn.”
Clare và tôi thở phào. Dải ngân hà xinh xắn trên màn hình đang mút ngón tay cái của nó. Trước sự chứng kiến của chúng tôi, con bé đưa tay ra khỏi miệng.
Bác sĩ Montague nói, “Cô bé đang mỉm cười”. Và chúng tôi cũng vậy.
Thứ Hai, 20/8/2001 (Clare 30, Henry 38)
CLARE: Con bé sẽ được sinh ra sau hai tuần nữa và chúng tôi vẫn chưa quyết định được sẽ đặt tên nó là gì. Thậm chí, chúng tôi hầu như không hề trao đổi về chuyện này, chúng tôi lảng tránh chủ đề này một cách mê tín, như thể việc đặt tên sẽ khiến ba nữ thần Furies để ý đến nó và đầy đọa nó. Cuối cùng Henry mang về nhà cuốn Từ điển Tên.
Chúng tôi đang nằm trên giường. Lúc này là 8 giờ 30 phút tối, và tôi rất mệt. Tôi nằm nghiêng người, bụng tôi là cả một bán đảo, đối diện với Henry cũng đang nằm nghiêng, đầu dựa vào tay, cuốn sách được đặt giữa chúng tôi. Chúng tôi nhìn nhau, mỉm cười lo lắng.
“Em có ý tưởng nào không?” anh ấy nói, đọc lướt qua cuốn sách.
“Jane”, tôi trả lời.
Anh ấy nhăn mặt. “Jane?”
“Em thường đặt tên cho tất cả những con búp bê và thú nhồi bông của mình là Jane. Tất cả.”
Henry tìm đến nó. “Nó có nghĩa là Quà tặng của Chúa.”
“Em thích như vậy.”
“Hãy chọn tên nào đó khác lạ một chút. Em thấy Irette thế nào? Hay Jodotha?” Anh ấy lật sách. “Tên này hay: Loololuluah. Tiếng Ả rập, có nghĩa là Ngọc Trai.”
“Tên Pearl 1 thì thế nào?” Tôi tưởng tượng con bé như một quả bóng trắng mịn màng óng ánh.
“Ôi. Cuốn sách này dở tệ.” Tôi giật lấy nó từ tay Henry, và để tiêu khiển, tôi tìm “Henry (tên Đức) Người trị vì tổ ấm: người cai quản nơi trú ngụ.”
Anh ấy cười. “Tìm Clare đi.”
“Chỉ là một cách viết khác của Clara (tiếng Latin): rạng rỡ, sáng sủa.”
“Tên hay”, anh ấy nói.
Tôi lật sách ngẫu nhiên. “Philomele?”
“Anh thích cái tên đó”, Henry nói. “Nhưng biệt danh của nó mới khủng khiếp làm sao, Philly? Mel?”
“Pyrene (Hy Lạp) Tóc đỏ?”
“Nếu tóc con bé không đỏ thì sao?” Henry với tay qua quyển sách và túm một nắm tóc của tôi, rồi đặt ngọn tóc vào miệng anh ấy. Tôi giật nó lại và đẩy ra sau lưng.
“Em tưởng chúng ta đã biết tất cả những gì cần biết về con bé. Chắc hẳn Kendrick đã kiểm tra nếu tóc nó đỏ hay không?” tôi nói.
Henry lấy lại quyển sách. “Yseult? Zoe? Zoe được đấy.”
“Nó có nghĩa gì?”
“Cuộc sống?”
“Hay đấy. Hãy đánh dấu lại.”
“Eliza”, Henry đề nghị.
“Elizabeth.”
Henry nhìn tôi, ngập ngừng. “Annette.”
“Lucy.”
“Không.” Henry nói chắc nịch.
“Thì không”, tôi đồng ý.
“Điều chúng ta cần là một sự khởi đầu mới”, Henry nói, “Một bắt đầu mới. Hãy gọi con bé là Tấm Bảng Trắng.”
“Hoặc Titan Trắng.”
“Blanche, Blanca, Bianca…”
“Alba”, tôi nói.
“Như trong nữ công tước?”
“Alba DeTamble.”
“Nghe hay đấy, tất cả các âm tiết đôi nhỏ, nhịp nhàng…” Anh ấy lật tìm trong sách. “Alba: Trắng (tiếng Latin), Bình minh của ngày mới (tiếng Roman). Hừm.” Henry tụt xuống giường. Tôi có thể nghe thấy tiếng anh ấy sục sạo trong phòng khách; anh ấy trở lại sau vài phút với Tập I của OED trên tay, cuốn từ điển Random House to bự và cuốn Bách khoa Văn hóa Hoa Kì Tập I cũ kĩ của tôi. “Khúc nhạc sớm của những nhà thơ Roman… dành tặng những cô nhân tình.‘Reveilles, a Vaurore, par le cri du guet-teur, deux amants qui viennent de passer la nuit ensemble se separent en maudissant le jour qui vient trop tat; tel est le theme, non moins invariable que celui de la pastourelle, d’un genre dontle nom est emprunte au mot alba, qui figure parfois au debut de la piece. Et regulkrement a la fin de chaqtie couplet, ou ilforme refrain.’ 2 Thật buồn làm sao. Thử Random House nhé. Cái này khá hơn. ‘Thành phố trắng trên đồi. Một pháo đài.'” Henry ném cuốn Random House xuống đất và mở cuốn bách khoa toàn thư. “Aesop, Age of Reason 3, Alaska… đây rồi, Alba.” Anh ấy lướt qua lời giải thích. “Một loạt các thành phố đã bị xóa sổ ở Italy cổ đại. Và Công tước Alba.”
và thể chế xã hội ở thế kỉ 18.
Tôi thở dài rồi nằm ngửa ra. Con bé đang cựa mình. Chắc hẳn nó đang ngủ nãy giờ. Henry tiếp tục đọc. “Chuyện tình, con Tatu. Vú. Chúa ạ, dạo này họ in đủ thứ tạp nham.” Anh ấy lướt tay xuống dưới áo ngủ của tôi, chậm rãi di chuyển nó trên cái bụng tròn căng của tôi. Con bé đạp mạnh ngay chỗ tay anh ấy đang để. Henry nhìn tôi sửng sốt. Hai bàn tay anh ấy rong đuổi tìm đường vượt qua những địa hình quen thuộc lẫn xa lạ. “Em có thể nhét thêm bao nhiêu DeTamble vào đó nữa?”
“Lúc nào cũng đủ chỗ cho một người nữa.”
“Alba”, anh ấy nói khẽ.
“Một thành phố trắng. Một pháo đài vững chãi trên ngọn đồi tinh khôi.”
“Con bé sẽ thích cái tên đó.” Henry kéo quần lót của tôi ra. Anh ấy ném nó xuống đất và nhìn tôi.
“Cẩn thận…,” tôi bảo anh ấy.
“Rất cẩn thận”, anh ấy đồng tình, trong lúc cởi bỏ quần áo của mình.
Tôi cảm thấy mênh mông rộng lớn, như một đại lục giữa biển gối và chăn. Henry cúi xuống tôi, chuyển động bên trên tôi, như một nhà thám hiểm đang khám phá làn da của tôi bằng lưỡi. “Chậm thôi, chậm thôi…” tôi ái ngại.
“Một khúc nhạc được cất lên bởi những người hát rong giữa hừng đông…” anh ấy thì thầm với tôi trong lúc đi vào trong tôi.
“… tới những cô nhân tình của họ”, tôi đáp lại. Mắt tôi nhắm chặt và tiếng Henry xa xăm như vọng lại từ phòng bên:
“Cứ thế…” và rồi, “Ôi. Ôi!”
——————————–
1 Pearl: Ngọc trai.
2 Bị đánh thức khi tới Vaurore bởi tiếng quát của người canh gác, đôi tình nhân vừa qua đêm cùng nhau liền chia tay và nguyền rủa trời sao mau sáng. Chủ đề ấy, cũng thường xuất hiện như chủ đề cô nàng mục đồng, mượn từ chữ alba xuất hiện đôi lần ngay từ đầu vở diễn. Và cứ thế đều đặn, cuối mỗi đoạn, nó trở thành một điệp khúc. (Tạm dịch
3 Age of Reason (Thời đại lí tính): Phong trào ủng hộ lí tính trong việc chấp nhận các ý tưởng

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.