Vợ Người Du Hành Thời Gian

CHƯƠNG 37: MỘT CẢNH TƯỢNG KHÓ ƯA



Thứ Tư, 28/6/2006 (Henry 43, và 43)
HENRY: Tôi hiện ra trên sàn nhà bê tông lạnh trong bóng tối. Tôi gượng đứng dậy nhưng cảm thấy chóng mặt nên lại nằm xuống. Đầu tôi đau nhức. Tôi đưa tay dò dẫm; sau tai trái của tôi đang sưng vù. Khi mắt đã quen với bóng tối, tôi nhìn thấy những đường nét mờ ảo của những dãy bậc thang, và tấm biển Lối Ra, xa phía trên đầu tôi là chiếc đèn huỳnh quang trơ trọi đang phát ra những tia sáng lạnh lẽo. Xung quanh tôi là những thanh sắt nối nhau ngang dọc của cái lồng. Tôi đang ở thư viện Newberry sau giờ làm việc, bên trong cái lồng.
“Đừng hốt hoảng”, tôi nói to với chính mình. “Không sao cả. Không sao cả. Không sao cả.” Tôi dừng lại khi nhận ra tôi không nghe thấy những gì mình đang nói. Tôi tìm cách đứng dậy. Lạnh cóng. Tôi tự hỏi mình sẽ phải đợi bao lâu. Rồi tự hỏi các đồng nghiệp sẽ nói gì khi họ nhìn thấy tôi. Bởi đây chính là thời điểm đó. Thời điểm họ phát hiện ra thực tế tôi là một sản phẩm kì dị của thiên nhiên đến mức nào. Tôi không hề mong giây phút này sẽ đến.
Tôi đi lại để giữ ấm, nhưng việc đó chỉ khiến đầu tôi càng thêm co giật, nên tôi từ bỏ và ngồi xuống sàn nhà, ở ngay chính giữa cái lồng, rồi co quắp mình chặt hết mức có thể. Nhiều giờ đồng hồ trôi qua. Tôi tua lại sự cố này trong đầu, chuẩn bị lời giải thích, và cân nhắc tất cả những tình huống có thể khiến chuyện đã xảy ra theo chiều hướng tốt đẹp hơn, hoặc tệ hơn. Cuối cùng tôi phát ngấy với việc đó và rủ rỉ hát thầm trong đầu.That’s Entertainment của The Jam, Pills and Soap của Elvis Costello, Perfect Day của Lou Reed. Tôi đang gắng nhớ lại lời ca khúc I Love a Man in Uniform của Gang of Four thì các bóng đèn nhấp nháy sáng lên. Dĩ nhiên, không ai khác, đó là Kevin – anh chàng bảo vệ Đức quốc xã – đang mở cửa thư viện. Kevin là người cuối cùng trên đời này tôi muốn gặp khi đang trần như nhộng và mắc kẹt trong lồng. Tất nhiên, cậu ta nhìn thấy tôi ngay khi bước vào. Tôi đang cuộn tròn trên sàn, nằm im giả chết.
“Ai đó?” Kevin nói, to hơn mức cần thiết. Tôi hình dung Kevin đứng đó, mềm nhũn và dặt dẹo trong ánh nắng bình minh ẩm ướt của dãy cầu thang. Giọng của cậu ta nẩy quanh, vọng lại từ những tảng bê tông. Kevin đi xuống, rồi đứng dưới chân cầu thang, cách tôi chừng ba mét. “Làm sao anh vào được bên trong?” Cậu ta đi vòng quanh cái lồng. Tôi tiếp tục giả vờ như bất tỉnh. Nếu đã không thể giải thích, tôi chẳng thà không bị tra hỏi. “Chúa ơi, là anh hả, DeTamble”, tôi có thể cảm thấy Kevin đang đứng đó kinh ngạc. Rồi cậu ta nói vào bộ đàm, “10-4, xin chào, Roy.” Tiếng rè rè đáp lại, “Phải, Roy, là tôi, Kevin. Cậu có thể xuống A46 một lát được không? Phải, ở bên dưới.” Lại tiếng rè. “Cứ xuống đây sẽ biết.” Kevin tắt bộ đàm. “DeTamble, tôi không biết anh định chứng tỏ điều gì, nhưng anh đã làm đủ rồi đấy.” Tôi nghe tiếng cậu ta đi vòng quanh. Đôi giày của cậu ta kêu lộc cộc và cậu ta đang phát ra những tiếng cằn nhằn lí nhí. Chắc hẳn cậu ta đang ngồi trên bậc cầu thang. Sau vài phút, cánh cửa tầng trên mở ra và Roy đi xuống. Roy là cậu bảo vệ tôi thích nhất. Cậu ấy là một anh chàng da đen to lớn luôn có nụ cười thường trực. Cậu ấy là ông hoàng của khu vực lễ tân; tôi luôn thích thú khi đến nơi làm việc và được đắm mình trong sự hồ hởi ấn tượng của cậu ấy. “Ồ”, Roy nói. “Ai thế này?”
“Là DeTamble. Tôi không thể hiểu nổi làm thế nào anh ta vào được trong đây.”
“DeTamble? Ái chà. Anh chàng này khoái cởi truồng chạy rông nhỉ? Đã bao giờ tôi kể cho cậu nghe lần tôi bắt gặp anh ta đang đi bách bộ trên tầng ba trong tình trạng nguyên thuỷ chưa?”
“Có. Anh đã kể.”
“Dù sao thì, chúng ta phải đưa anh ta ra khỏi đó.”
“Anh ta không hề động đậy.”
“Ít nhất vẫn còn đang thở. Cậu nghĩ anh ta có bị thương không? Có lẽ chúng ta nên gọi xe cấp cứu.”
“Chúng ta sẽ cần đến đội cứu hoả để dùng kìm cắt sắt mới có thể mang nổi anh ta ra khỏi đó.” Kevin có vẻ phấn khích. Tôi không muốn dính đến đội cứu hoả lẫn cứu thương. Tôi rên rỉ và ngồi dậy.
“Chào buổi sáng, anh DeTamble” Roy thủ thỉ. “Anh đến có hơi sớm đấy.”
“Chỉ một chút thôi”, tôi đồng tình, khoanh đầu gối lên tới cằm. Tôi lạnh đến nỗi răng tôi đau nhức vì va vào nhau lập cập không ngừng. Tôi nhìn Kevin và Roy đăm chiêu, họ nhìn lại tôi. “Có lẽ tôi không thể hối lộ các cậu được đâu nhỉ?”
Họ nhìn nhau trao đổi. “Còn tuỳ xem anh muốn gì.” Kevin nói. “Chúng tôi không thể giữ bí mật chuyện này, vì chúng tôi không thể đưa anh ra khỏi đó chỉ dựa vào sức mình.”
“Không. Tôi không trông đợi vào chuyện đó.” Họ có vẻ nhẹ nhõm. “Nghe này, tôi sẽ đưa cho các cậu mỗi người 100 đô nếu các cậu làm giùm tôi hai việc. Việc đầu tiên là, tôi muốn nhờ một trong hai cậu lấy giùm tôi cốc cà phê.”
Roy nở nụ cười tươi rói thường lệ. “Gì chứ việc đó tôi sẵn sàng làm miễn phí. Nhưng tôi tự hỏi anh định uống nó bằng cách nào?”
“Mang cho tôi một cái ống hút. Đừng lấy cà phê từ máy trong phòng nghỉ. Hãy ra ngoài mua một cốc tử tế. Có kem và không đường.”
“Được rồi”, Roy nói.
“Điều thứ hai là gì?” Kevin hỏi.
“Nhờ cậu lên khu vực sách đặc biệt vào lấy cho tôi bộ quần áo trong ngăn kéo bên dưới bàn làm việc của tôi. Sẽ có thưởng thêm nếu cậu làm việc đó mà không để ai phát hiện.”
“Không vấn đề.” Kevin nói, và tôi tự hỏi tại sao tôi từng không thích anh chàng này.
“Nên khoá cửa cầu thang này thì hơn”, Roy nói vớiKevin, người đang gật đầu và đi làm theo. Roy đứng bên hông lồng và nhìn ái ngại. “Rốt cục thì làm sao anh vào được đó?”
Tôi nhún vai. “Tôi thực sự không có lời giải thích thoả đáng.”
Roy mỉm cười rồi lắc đầu. “Hãy suy nghĩ thêm trong lúc tôi đi lấy cà phê cho anh.”
Hai mươi phút trôi qua. Cuối cùng tôi nghe tiếng mở khoá và Kevin bước xuống cầu thang, theo sau là Matt và Roberto. Kevin nhìn tôi và nhún vai như để nói, tôi đã cố. Cậu ấy nhét áo sơ mi của tôi qua song sắt. Tôi mặc nó vào trong lúc Roberto đứng lạnh lùng nhìn tôi, tay khoanh trước ngực. Mất một lúc để nhét chiếc quần vào được lồng sắt. Matt ngồi trên bậc cầu thang, vẻ hồ nghi. Tôi nghe tiếng cửa lại được mở một lần nữa. Là Roy mang cà phê và một ổ bánh mì ngọt. Cậu ấy nhét ống hút vào cốc rồi đặt nó lên sàn nhà cạnh ổ bánh mì. Tôi phải khó khăn lắm để rời mắt khỏi chúng và nhìn vào Roberto, người đang quay sang Roy và Kevin hỏi, “Các cậu để chúng tôi nói chuyện riêng với nhau nhé.”
“Dĩ nhiên rồi, tiến sĩ Calle.” Hai anh chàng bảo vệ đi lên cầu thang và bước ra khỏi cánh cửa dẫn tới tầng một. Chỉ còn tôi ở lại, đơn độc, bị mắc kẹt, và không có một lời giải thích thoả đáng, cho Roberto, người tôi kính trọng và người tôi không ngừng nói dối trong suốt thời gian qua. Chỉ còn cách nói ra sự thật, mà nghe còn khó tin hơn bất kì lời nói dối nào của tôi trước đây.
“Được rồi, Henry”, Roberto nói. “Bắt đầu đi.”
HENRY: Đó là một buổi sáng tháng Chín đẹp trời. Tôi hơi muộn giờ làm một chút vì Alba (con bé không chịu mặc quần áo) và vì tàu điện (nó không chịu đến) nhưng không quá muộn, ít nhất là theo tiêu chuẩn của tôi. Khi tôi đến bàn lễ tân, Roy không có mặt, thay vào đó là Marsha. Tôi nói, “Chào Marsha. Roy đâu rồi?” và cô ấy đáp, “Ồ, anh ấy đang có chút công chuyện.” Tôi nói, “Ồ”, rồi bước vào thang máy đi lên tầng bốn. Khi tôi tới Khu vực Sách đặc biệt, Isabelle nói, “Anh đến muộn”, và tôi đáp trả, “Không quá muộn.” Tôi vào văn phòng của mình và thấy Matt đang đứng cạnh cửa sổ, nhìn ra ngoài công viên.
“Chào Matt”, tôi nói, Matt giật nẩy mình.
“Henry!” Cậu ấy thốt lên, mặt trắng bệch. “Làm thế nào cậu thoát ra được khỏi lồng sắt?”
Tôi đặt ba lô xuống bàn và nhìn cậu ấy chằm chằm. “Lồng sắt?”
“Cậu… Tớ vừa từ đó về… cậu đang bị mắc kẹt trong lồng sắt. Roberto ở dưới đó với cậu… cậu bảo tớ lên đây đợi, nhưng cậu đã không nói đợi gì…”
“Ôi Chúa ơi.” Tôi ngồi xuống bàn. “Ôi Chúa ơi.” Matt ngồi xuống ghế của tôi và ngẩng đầu lên nhìn tôi. “Hãy nghe tớ giải thích…” tôi bắt đầu giải trình.
“Cậu có thể giải thích sao?”
“Dĩ nhiên rồi.” Tôi suy nghĩ. “Tớ… chuyện là… ôi, chết tiệt.”
“Là chuyện gì đó rất kì cục phải không Henry?”
“Phải. Đúng vậy.” Chúng tôi nhìn nhau chằm chằm. “Nghe này, Matt, hãy xuống dưới đó xem chuyện gì đang diễn ra, tớ sẽ giải thích cho cậu và Roberto cùng một lượt, được chứ?”
“Được rồi.” Chúng tôi đứng dậy và đi xuống tầng dưới.
Trong lúc chúng tôi đi qua dãy hành lang phía đông, tôi nhìn thấy Roy đang lởn vởn gần lối vào cầu thang. Cậu ấy đơ người khi nhìn thấy tôi, và ngay khi cậu ấy chuẩn bị hỏi điều hiển nhiên sẽ hỏi thì Catherine nói, “Chào mọi người, khoẻ chứ?” Cô ấy đi qua chúng tôi và cố gắng mở cửa cầu thang. “Roy, tại sao không mở được cửa?”
“Cô Mead”, Roy liếc nhìn tôi, “chúng tôi đang gặp vấn đề với…”
“Không sao đâu Roy”, tôi nói. “Đi nào, Catherine. Roy, cậu không phiền đứng trên này chứ?” Cậu ấy gật đầu và để chúng tôi đi vào cầu thang.
Ngay khi bước vào, tôi nghe tiếng Roberto đang nói, “Tôi không muốn ngồi đây nghe cậu kể chuyện giả tưởng. Nếu tôi muốn đọc khoa học giả tưởng, tôi sẽ hỏi mượn Amelia.” Ông ấy đang ngồi dưới chân cầu thang. Khi chúng tôi bắt đầu đi xuống, ông ấy quay người lại.
“Chào Roberto”, tôi nói khẽ. Catherine thốt lên, “Ôi Chúa ơi! Ôi Chúa ơi!” Roberto đứng vội dậy và mất thăng bằng. Matt chạy tới đỡ ông ấy. Tôi nhìn vào trong lồng sắt và thấy tôi. Tôi đang ngồi trên sàn, mặc áo sơ mi trắng và quần kaki của tôi, đang co gối trước ngực, dễ nhận thấy tôi đang rét run và đói lả. Có một cốc cà phê đặt bên ngoài lồng sắt. Roberto, Matt và Catherine im lặng nhìn chúng tôi.
“Cậu đến từ thời điểm nào?” tôi hỏi.
“Tháng Tám, 2006.” Tôi cầm cốc cà phê lên, giữ ngang cằm, đút ống hút qua khe hở của lồng sắt. Cậu ấy hút tì tì. “Cậu muốn ăn bánh mì không?” Có. Tôi bẻ nó ra thành ba mảnh và đẩy vào lồng.
Tôi có cảm giác như mình đang ở trong sở thú. “Cậu bị thương rồi”, tôi nói. “Tớ đập đầu vào thứ gì đó”, cậu ấy nói. “Cậu sẽ ở đây thêm bao lâu nữa?”
“Khoảng nửa tiếng.” Cậu ấy chỉ tay về phía Roberto. “Rắc rối đây.”
“Chuyện gì đang diễn ra vậy?” Catherine hỏi.
Tôi hội ý với tôi. “Cậu muốn giải thích chứ?”
“Tớ mệt rồi. Cậu làm đi.”
Nên tôi giải thích. Tôi giải thích rằng mình là người du hành thời gian, giải thích cách thức và khía cạnh di truyền của nó. Tôi giải thích rằng tất cả chỉ là một loại bệnh nào đó và tôi không thể điều khiển nó. Tôi giải thích về Kendrick, về cách mà tôi và Clare đã gặp nhau. Tôi giải thích về các mối tương quan, về cơ học lượng tử và tốc độ ánh sáng. Tôi giải thích về cảm giác sống ngoài dòng thời gian, về những lần nói dối, những lần trộm cắp và về nỗi sợ hãi. Tôi giải thích về sự cố gắng để có được một cuộc sống bình thường. “Và một phần của một cuộc sống bình thường là một công việc bình thường”, tôi kết luận.
“Tôi sẽ không gọi đây là một công việc bình thường”, Catherine nói.
“Tôi sẽ không gọi đây là một cuộc sống bình thường”, tôi đang ngồi trong lồng nói.
Tôi nhìn vào Roberto, người đang ngồi trên những bậc thang, tựa đầu vào tường. Ông ấy có vẻ mệt lử và đăm chiêu. “Vậy”, tôi hỏi, “ông sẽ sa thải tôi chứ?”
Roberto thở dài, “Không. Không, Henry ạ. Tôi sẽ không sa thải cậu.” Ông ấy cẩn thận đứng dậy, và phủi vai áo phía sau. “Nhưng tôi không hiểu tại sao cậu không giải thích cho tôi sớm hơn.”
“Ông sẽ không tin tôi”, tôi nói. “Mới đây ông đã không tin tôi, cho đến khi ông nhìn thấy tôi khác xuất hiện.”
“Phải…” Roberto nói, nhưng lời tiếp theo của ông ấy đã bị nuốt chửng trong tiếng rít kì cục ré lên mà đôi lúc vẫn xuất hiện mỗi khi tôi đến và đi. Tôi quay người lại để nhìn thấy đống quần áo đang nằm trên sàn nhà trong lồng sắt. Trưa nay tôi sẽ quay lại đây để khều chúng bằng cây móc quần áo. Tôi quay trở lại với Matt, Roberto và Catherine. Họ đang sững sờ.
“Chúa ơi,” Catherine nói. “Như thể chúng ta đang làm việc cùng Clark Kent vậy.”
“Tôi cảm thấy mình như Jimmy Olsen”, Matt nói.
“Điều đó có nghĩa cô là Lois Lane”, Roberto chọc Catherine.
“Không, không. Clare mới là Lois Lane”, cô ấy đáp.
Matt nói, “Nhưng Lois Lane hoàn toàn mù tịt về mối quan hệ Clark Kent/Superman, ngược lại với Clare.”
“Không có Clare, chắc tôi đã từ bỏ từ lâu rồi”, tôi nói, “Tôi đã không hiểu tại sao Clark Kent tìm đủ mọi cách để giữ bí mật với Lois Lane.”
“Như vậy chuyện mới thú vị hơn.” Matt nói.
“Thật sao? Tôi không chắc về điều đó.” Tôi đáp.
Thứ Sáu 07/07/2006 (Henry 43)
HENRY: Tôi đang ngồi trong văn phòng của Kendrick và lắng nghe ông ấy giải thích tại sao việc điều trị không có hiệu quả. Bên ngoài, thời tiết đang oi bức, cái nóng đan lên người lớp áo ẩm ướt mồ hôi. Trong phòng, điều hoà để lạnh khiến tôi sởn gai ốc. Chúng tôi đang ngồi đối diện nhau trên những chiếc ghế chúng tôi vẫn hay ngồi. Trên bàn là chiếc gạt tàn đầy. Kendrick không ngừng châm thuốc mới ngay khi điếu cũ vừa tàn. Đèn trong phòng không được bật, không khí nặng nề với cái lạnh và khói thuốc. Tôi muốn uống một li rượu. Tôi muốn la hét. Tôi muốn Kendrick ngừng nói để tôi có thể hỏi ông ấy. Tôi muốn đứng dậy và ra ngoài. Nhưng thay vào đó, tôi ngồi im lắng nghe.
Khi Kendrick ngừng nói, những âm thanh vọng lại xa xăm trong toà nhà bỗng trở nên mãnh liệt.
“Henry? Cậu nghe tôi nói chứ?”
Tôi ngồi bật dậy và nhìn ông ấy như một cậu học sinh vừa bị phát hiện đang mơ màng trong lớp. “Ơ, không.”
“Tôi đã hỏi cậu có hiểu những gì tôi đang nói, lí do tại sao việc điều trị không có hiệu quả, không?”
“À có.” Tôi cố gắng lấy lại tâm trí. “Nó không hiệu quả vì hệ thống miễn dịch của tôi đã hoàn toàn rối loạn. Và vì tôi đã già. Vì có quá nhiều gen liên quan.”
“Phải.” Kendrick thở dài và dụi thuốc vào cái gạt tàn đầy ụ. Những làn khói túa ra trốn thoát rồi tan biến. “Tôi rất tiếc.” Ông ấy dựa lưng vào ghế, chắp đôi bàn tay hồng hào vào nhau và đặt trên đùi. Tôi nghĩ đến lần đầu tiên gặp ông ấy, trong căn phòng này tám năm trước. Lúc đó cả hai chúng tôi đều trẻ trung hơn và tự mãn hơn, chúng tôi đã tin vào sự hào phóng của di truyền học, đã sẵn sàng dùng khoa học để thách thức tự nhiên. Tôi nhớ đến lần cầm con chuột có khả năng đi xuyên thời gian của Kendrick trong tay, đến sự dâng trào của niềm hi vọng tôi đã cảm thấy khi đó. Tôi nghĩ đến cảm giác của Clare khi tôi bảo với cô ấy rằng việc điều trị không có hiệu quả. Mặc dù cô ấy chưa bao giờ nghĩ nó có hiệu quả.
Tôi lấy lại giọng. “Còn Alba thì sao?”
Kendrick vắt chân vào nhau và bồn chồn. “Sao là sao?”
“Nó sẽ có hiệu quả với con bé không?”
“Chúng ta sẽ không bao giờ biết chắc. Trừ khi Clare thay đổi ý định và để tôi tác động vào DNA của Alba. Và cả hai chúng ta đều biết rằng Clare không thích liệu pháp gen một chút nào. Cứ mỗi khi tôi tìm cách trao đổi với cô ấy về chuyện đó, cô ấy lại nhìn tôi như thể tôi là Josef Mengele.”
“Nhưng nếu ông có DNA của Alba, ông sẽ có thể tạo chuột thí nghiêm và tiến hành nghiên cứu để khi con bé đủ 18 tuổi, nó có thể tự mình quyết định có muốn hay không.”
“Phải.”
“Vậy ngay cả khi tôi đã vô phương cứu chữa, ít ra Alba cũng sẽ được giúp đỡ một ngày nào đó.”
“Phải.”
“Vậy thì được rồi.” Tôi đứng dậy và xoa hai tay vào nhau, phe phẩy chiếc áo sơ mi đang dính chặt vào người vì mồ hôi đã hoá lạnh. “Đó là điều chúng ta sẽ làm.”
Thứ Sáu, 14/06/2006 (Clare 35, Henry 43)
CLARE: Tôi đang làm giấy Gampi trong xưởng vẽ. Đó là loại giấy rất mỏng và trong suốt, bạn có thể nhìn xuyên qua nó. Tôi nhúng nguyên liệu vào hũ và lôi nó lên, cẩn thận lăn đống vữa dễ đứt cho đến khi nó được trải đều một cách hoàn hảo. Tôi đặt nó lên chiếc hũ chờ ráo nước. Tôi nghe có tiếng Alba đang cười, con bé chạy qua khu vườn, vừa đi vừa hét, “Mẹ! Xem bố mua cho con cái gì này!” Con bé chạy vụt qua cửa và lao về phía tôi, Henry bình thản theo sau. Tôi ngó xuống để xem thứ gì khiến con bé phấn khích đến vậy, và tôi nhìn thấy một đôi giầy hồng ngọc.
“Hệt như của Dorothy!” Alba nói đoạn thực hiện một điệu nhảy clacket. Con bé gõ gót chân vào nhau ba lần, nhưng nó không biến mất. Dĩ nhiên, con bé đang ở nhà. Tôi cười, Henry có vẻ hài lòng với chính mình.
“Anh đã ghé bưu điện chứ?”
Mặt anh ấy đổi sắc. “Khỉ thật. Anh quên mất. Xin lỗi, mai anh sẽ đi.” Alba đang xoay vòng quanh, Henry đưa tay ra ngăn con bé lại. “Đừng, Alba. Con sẽ bị chóng mặt đấy.”
“Con thích bị chóng mặt.”
“Đó không phải là ý hay.”
Alba đang mặc áo phông và quần sooc. Phía trên khuỷu tay con bé có dán một chiếc băng cá nhân. “Tay con bị sao vậy?” tôi hỏi con bé. Thay vì trả lời, con bé nhìn Henry, tôi cũng làm theo.
“Không có gì nghiêm trọng đâu,” anh ấy nói. “Con bé đã mút tay mình và để lại một vết hằn.”
“Vết hằn là gì ạ?” Alba hỏi Henry đang chuẩn bị giải thích cho con bé thì tôi nói, “Tại sao lại dán băng cá nhân lên vết hằn?”
“Anh không biết”, Henry nói. “Con bé muốn vậy.”
Tôi linh cảm có điều gì đó không ổn; giác quan thứ sáu của người mẹ. Tôi bước lại gần Alba. “Hãy xem nào.”
Con bé rụt tay lại, đưa tay còn lại lên ôm chặt. “Mẹ đừng tháo băng cá nhân ra, đau lắm.”
“Mẹ sẽ cẩn thận.” Tôi túm chặt lấy tay con bé. Nó rên rỉ, nhưng tôi đã kiên quyết. Tôi từ từ duỗi tay con bé, khẽ lột băng cá nhân. Có một vết chàm nhỏ màu đỏ ở giữa vết bầm màu tím. Alba nói, “Đau lắm mẹ ơi, đừng mà.” Tôi thả con bé ra. Nó dán băng cá nhân lại và nhìn tôi, chờ đợi.
“Alba, con hãy đi gọi điện cho Kimy và hỏi bà có muốn ghé qua dùng bữa tối không nhé.” Alba mỉm cười và chạy ùa ra khỏi xưởng vẽ. Sau một phút, cánh cửa sau của nhà chính đóng sầm lại, Henry đang ngồi trên bàn vẽ, xoay tới xoay lui chiếc ghế của tôi. Anh ấy nhìn tôi, đợi cho tôi nói gì đó.
“Em không thể tin anh dám làm như vậy”, cuối cùng tôi lên tiếng.
“Anh không còn lựa chọn nào khác”, Henry nói. Giọng anh ấy nhỏ lí nhí. “Con bé… anh không thể bỏ con bé ở lại mà không, ít nhất, giúp nó… anh muốn chuẩn bị cho con bé. Để Kendrick tìm hiểu nó, tìm hiểu con bé, phòng khi cần kíp.” Tôi đi về phía anh ấy, phát ra những tiếng cót két trong đôi ủng và tạp dề cao su. Tôi tựa vào cạnh bàn. Henry nghiêng đầu. Ánh sáng trùm lên khuôn mặt của anh ấy, khiến tôi có thể nhìn rõ các nếp nhăn trên trán, quanh khoé miệng và khoé mắt. Anh ấy đã sút cân thêm nữa. Cặp mắt của anh ấy to lồ lộ trên khuôn mặt. “Clare, anh đã không nói với con bé điều gì cả. Em có thể nói với nó khi… đến lúc.”
Tôi lắc đầu. Không. “Gọi cho Kendrick và bảo ông ấy dừng lại.”
“Không.”
“Vậy thì em sẽ gọi.”
“Clare, đừng…”
“Henry, anh có thể làm bất cứ điều gì anh muốn với cơ thể của mình, nhưng…”
“Clare!” Henry rít tên tôi qua hai hàm răng nghiến chặt.
“Sao?”
“Kết thúc rồi, được chứ? Anh đã kết thúc rồi. Kendrick nói ông ấy chẳng thể làm gì hơn.”
“Nhưng…” tôi ngừng lại để hấp thu những gì anh ấy vừa nói. “Nhưng vậy thì… chuyện gì sẽ xảy ra?”
Henry lắc đầu. “Anh không biết. Có lẽ điều chúng ta đã nghĩ sẽ xãy ra… sẽ xảy ra. Nhưng nếu đó là sự thật, thì… anh không thể bỏ Alba ở lại mà không làm gì để giúp con bé… Ôi, Clare, hãy để anh được làm việc này vì con bé! Nó có thể sẽ không hiệu quả, con bé có thể sẽ không bao giờ dùng đến nó… có thể con bé sẽ thích được du hành thời gian, có thể con bé sẽ chẳng bao giờ bị lạc, hay bị đói hay bị cưỡng hiếp, đánh đập. Nhưng sẽ thế nào nếu con bé không thích du hành thời gian? Sẽ thế nào nếu con bé muốn được làm một cô gái bình thường? Clare? Ôi, Clare, đừng khóc…” Nhưng tôi không thể ngừng, tôi đứng đó thổn thức trong chiếc tạp dề màu vàng của mình, và cuối cùng, Henry đứng dậy, quàng tay qua người tôi. “Chúng ta chẳng phải là những người được Chúa thương xót, Clare”, anh ấy nói khẽ. “Anh chỉ muốn đảm bảo an toàn cho con bé.” Tôi có thể cảm thấy xương sườn của anh ấy qua làn vải. “Em sẽ cho phép anh để lại cho con bé ít nhất là điều đó?” Tôi gật đầu, và Henry hôn lên trán tôi. “Cảm ơn em”, anh ấy nói, rồi tôi lại bắt đầu khóc.
Thứ Bảy, 27/10/1984 (Henry 43, Clare 13)
HENRY: Giờ thì tôi đã biết kết thúc của mình. Nó sẽ diễn ra như thế này: tôi sẽ ngồi trên đồng cỏ, trong một buổi sáng mùa thu. Trời sẽ âm u và lạnh lẽo. Và tôi sẽ mặc một chiếc áo choàng bằng len, đi ủng và găng tay. Đó sẽ là một ngày không nằm trong Danh Sách. Clare sẽ đang ngủ, trên chiếc giường ấm áp của cô ấy. Cô ấy đang mười ba tuổi.
Xa xa, một tiếng súng sẽ xé toạc không khí khô hanh và lạnh lẽo. Đang mùa săn nai rừng. Đâu đó ngoài kia, đàn ông trong những bộ áo màu cam sẽ ngồi đợi để được nổ súng. Rồi sau đó họ sẽ uống bia, ăn sandwich mà vợ họ đã chuẩn bị.
Gió sẽ nổi lên, sẽ băng qua vườn cây ăn quả, và cuốn những chiếc lá vàng vô dụng khỏi những ngọn cây. Cánh cửa sau của căn biệt thự Sáo Bắc Mỹ sẽ đóng sầm lại và hai bóng người tí hon trong bộ quần áo huỳnh quang màu vàng sẽ xuất hiện, mang theo khẩu súng trường. Họ sẽ đi về phía tôi, vào trong đống cỏ, Philip và Mark. Họ sẽ không nhìn thấy tôi vì tôi sẽ lẩn trong những ngọn cỏ cao, một vị trí tối tăm và im lìm giữa cánh đồng vàng và màu xanh chết chóc. Khi đến cách tôi khoảng hai mươi thước, Philip và Mark sẽ đi ra khỏi con đường mòn và tiến vào trong.
Họ sẽ dừng lại để nghe ngóng. Họ sẽ nghe thấy trước tôi: một tiếng lạo xạo, có thứ gì đó đang di chuyển trên những ngọn cỏ, thứ gì đó to lớn và lóng ngóng, một ánh chớp loé lên, chiếc đuôi chăng? Và nó sẽ tiến về phía tôi, về phía khoảng rừng thưa; Mark sẽ nâng khẩu súng trường của anh ấy lên, cẩn thận nạp đạn, rồi bóp cò, và:
Một tiếng súng vang lên, rồi một tiếng la hét, tiếng người. Rồi im lặng. Rồi: “Clare! Clare!” và lại im lặng.
Tôi sẽ ngồi yên trong thoáng chốc, không suy nghĩ, không cả thở. Philip sẽ chạy, và tôi sẽ chạy, Mark cũng sẽ chạy, và chúng tôi cùng tụ về một điểm:
Nhưng sẽ chẳng có gì. Chỉ có vệt máu loang ra trên mặt đất, lấp lánh và lênh láng. Những ngọn cỏ dập. Chúng tôi sẽ nhìn nhau chằm chằm mà chẳng nhận ra nhau, bên trên lớp đất trống trơn.
Trên giường, Clare sẽ nghe có tiếng thét. Cô ấy sẽ nghe thấy như có ai đó đang gọi tên mình, và sẽ ngồi dậy, tim cô ấy sẽ nện từng nhịp mạnh mẽ trong lồng ngực. Cô ấy sẽ chạy xuống nhà, ra ngoài cửa, vào đồng cỏ, trong bộ đầm ngủ của mình. Khi cô ấy nhìn thấy ba chúng tôi, cô ấy sẽ dừng lại, bối rối. Sau lưng bố và anh trai cô ấy, tôi sẽ đặt một ngón tay lên môi. Trong lúc Philip đi về phía cô ấy, tôi sẽ quay đi chỗ khác, sẽ đứng trong sự che chắn của vườn cây ăn quả và ngắm cô ấy run lẩy bẩy trong cái ôm của bố, trong lúc Mark đang đứng bên cạnh, nôn nóng và lúng túng, những sợi râu lởm chởm tuổi mười lăm của cậu ấy sẽ trùm lên chiếc cằm, và cậu ấy sẽ nhìn tôi, như thể đang cố nhớ ra tôi là ai.
Và Clare sẽ nhìn tôi, tôi sẽ vẫy tay với cô ấy, và cô ấy sẽ quay trở vào nhà cùng bố, cô ấy sẽ vẫy tay đáp lại, yếu ớt, chiếc đầm ngủ sẽ phất phơ trong gió như thể cô ấy là một thiên thần, và cô ấy sẽ trở nên nhỏ dần, nhỏ dần, và sẽ mất hút vào trong khoảng cách, sẽ biến mất trở vào trong nhà, còn tôi sẽ đứng bên cạnh vệt đất loang lổ máu nhỏ và tôi sẽ biết: đâu đó ngoài kia, tôi đang chết.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.