Vợ Người Du Hành Thời Gian

PHẦN III: LUẬN THUYẾT CỦA NỖI KHÁT KHAO – CHƯƠNG 46: BIỆT LY



Bốn mươi ba năm cuộc đời anh. Cái kết thời gian bé nhỏ.
Thời gian của anh – người đã nhìn thấy sự bất tận qua vô vàn các vết nứt
của lớp vỏ trơ trụi của vạn vật, và chết bởi nó.
– A.S. Byatt, Chiếm hữu
Cỏ chậm rãi bước theo, cứ từ từ tiến tới,
như thể có điều gì đó ngáng đường;
ấy vậy mà: cũng như thể một khi vượt qua nó,
cô sẽ không còn phải bước thêm nữa, và cô sẽ giang cánh bay.
– Trích Mù
Rainer Maria Rilke
 
o O o
 
Thứ Bảy, 27/10 – Thứ Hai, 1/1/2007 (Henry 43, Clare 35)
HENRY: Bầu trời trơ trụi và tôi đang rơi xuống bãi cỏ cao khô ráo, hãy đến nhanh đi, và mặc dù tôi cố ngồi im không động đậy, tiếng kêu răng rắc của cây súng trường vang lên từ xa nghe có vẻ chẳng liên quan gì đến tôi, nhưng không: tôi ngã lăn ra đất, tôi nhìn xuống cái bụng đang mở ra như quả lựu của mình, một món canh nội tạng và máu đựng trong cái bát của thân thể tôi; không đau chút nào. Không lẽ? Có ai đó đang chạy lại. Tất cả những gì tôi muốn nhìn thấy là Clare trước khi… trước khi… Tôi gọi to tên cô ấy, Clare, Clare!
Và Clare cúi xuống nhìn tôi, thổn thức khóc, còn Alba thì thầm, “Bố ơi…”
“Mãi mãi…”
“Henry…”
“Yêu em…”
“Ôi Chúa ơi, Chúa ơi…”
“Suốt đời…”
“Không!”
“Suốt kiếp…”
“Henry!”
CLARE: Phòng khách chìm trong yên lặng. Mọi người đứng yên không động đậy, đông cứng, nhìn xuống chúng tôi. Billie Holiday đang hát, rồi ai đó tắt đầu máy và sự im lặng bao trùm. Tôi ngồi trên sàn ôm chặt Henry. Alba đang quỳ bên cạnh anh ấy, thì thầm vào tai và lắc mạnh. Da Henry vẫn còn ấm, mắt anh ấy vẫn mở đang nhìn xuyên qua tôi, anh ấy nặng trĩu trên tay tôi, rất nặng, làn da xanh xao của anh ấy đang dần biến mất, màu đỏ chồm lên ngự trị, thân thể bị xé thủng đang mở ra thế giới bí mật của máu. Tôi ẵm Henry vào lòng. Có máu dính ở một bên mép của anh ấy. Tôi chùi nóđi. Pháo hoa đang được bắn lên ở đâu đó gần đây. Gomez nói, “Có lẽ chúng ta nên gọi cảnh sát.”
 
o O o
 
Thứ Sáu, 2/2/2007 (Clare 35)
CLARE: Tôi ngủ suốt ngày. Tiếng động vang lên quanh nhà: tiếng xe rác chạy trong hẻm, tiếng mưa, tiếng những ngọn cây gõ cửa phòng ngủ của tôi. Tôi ngủ. Tôi sống trong giấc ngủ triền miên, muốn có nó, tận dụng nó, và xua đuổi những giấc mơ, khước từ, cự tuyệt. Giấc ngủ đã trở thành người bạn tình, sự chối bỏ, liều thuốc mê và sự lãng quên của tôi. Điện thoại đổ chuông rồi lại đổ chuông. Tôi đã tắt hộp thư thoại có tiếng trả lời của Henry. Đang là buổi trưa, đang là đêm tối, và đang là bình minh. Mọi thứ chỉ còn xoay quanh chiếc giường này, giấc ngủ bất tận biến mọi ngày vào một ngày, khiến thời gian ngừng lại, kéo giãn và co rút thời gian cho đến khi nó trở nên vô nghĩa.
Có đôi lúc giấc ngủ bỏ rơi tôi, và tôi phải giả vờ như đang ở trong nó, giống như những lần Etta vẫn đến đánh thức tôi dậy đi học. Tôi thở chậm và sâu. Tôi khiến đôi mắt mình bất động bên dưới hai mi, tôi khiến tâm trí tôi bất động, và không lâu sau giấc ngủ sẽ nhìn thấy bản sao hoàn hảo của chính nó và đến hoà làm một.
Có đôi lúc tôi thức dậy và với tay sang Henry. Giấc ngủ xoá hết mọi sự khác biệt: xưa và nay; sự sống và cái chết. Tôi không còn đói khát, không còn những sự phù du hão huyền rỗng tuếch, không còn bận tâm. Sáng nay tôi liếc thấy khuôn mặt mình trong gương khi vào nhà vệ sinh. Tôi gầy hốc hác, làn da nhợt nhạt tựa giấy, mắt thâm quầng và tóc rối bù. Tôi trông như đã chết. Tôi chẳng còn tha thiết điều gì.
Kimy ngồi cuối chân giường. Bà nói, “Clare? Alba đã đi học về… Cháu có muốn để nó vào một lát không?” Tôi giả vờ như đang ngủ. Bàn tay nhỏ nhắn của Alba vuốt má tôi. Nước mắt lọt qua khoé mắt tôi. Alba đặt thứ gì đó, ba-lô của con bé? Hay hộp đàn violon? xuống sàn nhà và Kim nói, “Cởi giày ra đã, Alba”, rồi Alba trèo lên giường với tôi. Con bé quàng tay tôi qua người nó, gối đầu bên dưới cằm tôi. tôi thở dài và mở mắt. Alba vờ như đang ngủ. Tôi nhìn đăm đăm vào đôi lông mi đen dài, vào chiếc miệng rộng và làn da trắng của con bé; con bé đang thở từ tốn, cẩn thận, nó bám lấy hông tôi bằng bàn tay mạnh mẽ, con bé có mùi bút chì mới gọt, mùi nhựa bôi dây đàn và mùi xà phòng. Tôi hôn lên đầu nó. Alba mở mắt và bóng dáng Henry trong con bé khiến tôi gần như không thể đương đầu. Kimy đứng dậy đi ra khỏi phòng.
Hãy mở ra sau khi anh mất
Ngày 10/12/2006 Clare thân yêu,
Trong lúc viết những dòng chữ này, anh đang ngồi ở chiếc bàn trong căn phòng ngủ cuối nhà và nhìn ra xưởng vẽ của em bên kia khu vườn đầy tuyết xanh của trời đêm, mọi vật trơn bóng và giòn giã trong băng tuyết, thật tĩnh lặng. Đó là một trong những buổi tối khi cái lạnh của vạn vật dường như khiến thời gian chậm lại, như điểm giữa của chiếc đồng hồ cát nơi thời gian chảy qua từ tốn. Anh có cảm giác, rất giống với những khi anh sắp hết thời gian nhưng hầu như không bao giờ ngược lại, rằng anh đang trôi bồng bềnh trong dòng thời gian, lênh đênh thư thái trên bề mặt của nó như một phụ nữ phì nhiêu đang bơi lội. Có gì đó thúc giục anh, trong buổi tối ở nhà một mình này (em đang đi dự buổi tiệc độc tấu của Alicia ở nhà thờ thánh Lucy) phải viết cho em một lá thư. Bỗng nhiên anh muốn để lại thứ gì đó, sau khi anh mất. Anh nghĩ rằng thời gian còn lại của mình đang dần cạn kiệt. Anh cảm thấy như thể năng lượng, niềm vui thú, sự duy trì dự trữ của mình đang rất mong manh và nhỏ bé. Anh không nghĩ mình có thể tiếp tục được lâu nữa. Anh biết rằng em hiểu.
Nếu em đang đọc những dòng chữ này, thì chắc hẳn anh đã chết. (Anh nói chắc hẳn, vì chúng ta chẳng bao giờ biết được chuyện gì sẽ xảy ra; sẽ là ngớ ngẩn và tự coi trọng bản thân thái quá nếu vạch định cái chết của ai đó như một sự việc tuyệt đối.) về phần mình, anh hi vọng nó sẽ đơn giản, nhanh chóng và rõ ràng. Anh hi vọng rằng mình sẽ không khiến mọi chuyện trở nên om sòm. Anh xin lỗi. (Những lời này nghe như một bức thư tuyệt mệnh. Thật lạ.) nhưng em biết rằng nếu có thể ở lại, nếu anh có thể lựa chọn tiếp tục sống, anh sẽ bấu víu vào từng giây phút. Cái chết này, bất kể nó là gì, em biết nó đã tự tìm đến anh và mang anh đi như một đứa trẻ bị bắt bởi những con yêu tinh.
Clare, anh muốn nói với em một lần nữa, rằng anh yêu em. Tình yêu của chúng ta đã như một sợi chỉ dẫn lối qua mê hồn trận, như tấm lưới chắn bên dưới người đu dây, là điều duy nhất có thực trong cuộc sống kì lạ này của anh để anh tin tưởng. Đêm nay anh cảm thấy tình yêu của anh dành cho em hiện hữu trong thế giới này nhiều hơn cả bản thân mình, như thể nó sẽ nán lại và vây quanh em, giữ lấy em và ôm em vào lòng sau khi anh đi mất.
Anh ghét phải nghĩ đến việc để em phải chờ đợi. Anh biết em đã đợi anh cả cuộc đời này, luôn tự hỏi con đường của sự chờ đợi này còn kéo dài đến bao lâu. Mười phút, mười ngày. Một tháng. Anh thật là một ông chồng vô dụng, chẳng thể cậy nhờ, còn em, Clare, như một người thuỷ thủ, như Odysseus đơn độc và bị vùi dập bởi những con sóng lớn, bởi những trái ngang và đôi khi chỉ như một món đồ chơi của Thượng đế. Hãy vì anh, Clare. Sau khi anh chết, hãy thôi chờ đợi, hãy tự do, hãy giải phóng mình khỏi anh. Hãy đặt anh vào sâu thẳm trong em và tiến vào thế giới ngoài kia mà sống. Hãy yêu thế giới ngoài kia và yêu chính em trong nó, hãy đi qua nó như thể nó chẳng mang lại trở ngại gì cho em, như thể thế giới là một phần tự nhiên của em. Anh đã mang đến cho em một cuộc sống vội vã bất định. Anh không có ý nói rằng em đã không sống. Em đã tạo ra những điều tuyệt diệu và ý nghĩa, trong các tác phẩm của em, trong Alba, con bé thật không lời nào tả xiết; và đối với anh, đối với anh, em là tất cả.
Sau khi mẹ anh mất, bố anh đã không còn nhựa sống. Chắc hẳn bà sẽ rất buồn nếu biết được. Mọi phút trong cuộc sống của bố anh kể từ đó đã nhuốm màu u tối vì sự ra đi của mẹ, mọi hành động của ông đã thiếu chiều kích vì bà không còn ở đó để làm chuẩn mực. Khi còn trẻ, anh đã không hiểu, nhưng giờ, giờ thì anh đã hiểu, sự biệt li có thể theo ta như một tổn thương vĩnh cửu, như một con chim đen.
Nếu anh phải sống mà không có em, anh biết rằng mình sẽ không thể chịu nổi. Anh có một giấc mơ, anh nhìn thấy em bước đi vững vàng, mái tóc em long lanh dưới ánh nắng. Tuy chỉ là một giấc mộng, nhưng nó đã gắn chặt vào tâm trí anh, anh luôn muốn khắc hoạ hình ảnh đó, và anh hi vọng rằng nó sẽ trở thành sự thật.
Clare, còn một điều cuối cùng mà anh đã không dám nói với em, vì anh sợ rằng nếu anh nói ra nó sẽ không thể trở thành sự thật (anh biết, thật ngớ ngẩn phải không?) và bởi vì anh vừa không ngừng khuyên em hãy thôi chờ đợi và điều này có thể sẽ là nguyên nhân khiến em phải chờ đợi dài hơn tất cả những lần chờ đợi trước đây. Nhưng anh sẽ nói, phòng khi em cần điều gì đó giúp em bước tiếp, sau khi anh chết.
Mùa hè trước, khi anh đang ngồi trong phòng đợi của Kendrick thì đột nhiên anh thấy mình đứng giữa hành lang của một ngôi nhà xa lạ. Anh mắc kẹt giữa một núi ủng đi mưa, chúng có mùi như những cơn mưa rào. Cuối hành lang, ánh sáng mờ ảo đang bao quanh cánh cửa, nên anh đã tiến lại gần cửa rồi nhìn vào trong, rất chậm rãi và rất khẽ khàng. Căn phòng có màu trắng, và ngập tràn trong ánh bình minh. Bên cửa sổ, một phụ nữ đang ngồi quay lưng lại phía anh, và mặc chiếc áo len màu đỏ san hô, mái tóc dài bạc trắng xoã xuống lưng. Một cốc trà đặt trên chiếc bàn bên cạnh. Chắc hẳn anh đã gây ra tiếng động, hoặc cũng có thể bà ấy cảm nhận được anh đang đứng phía sau nên đã quay lại và nhìn thấy anh. Người phụ nữ đó là em, Clare, đó là em trong hình hài của một bà lão, ở tương lai. Anh đã thật hạnh phúc, Clare, thật hạnh phúc không lời nào tả xiết khi được gặp em, như trở về từ cái chết và ôm em vào lòng, được nhìn những năm tháng hiển hiện trên khuôn mặt em. Anh sẽ không kể cho em thêm nữa, để em có thể tự hình dung, để em có thể bất ngờ đón nhận nó khi thời gian đến, vì nó sẽ, và nó đã. Chúng ta sẽ gặp lại nhau, Clare ạ. Cho đến khi đó, hãy sống thật trọn vẹn và sống cho hiện tại trong thế giới tuyệt đẹp này.
Trời đã tối và anh đang dần kiệt sức. Anh yêu em, mãi mãi. Thời gian chẳng có nghĩa lí gì với tình yêu đó.
Henry.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.