Vụ Bí Ẩn Người Tiền Sử Lang Thang

CHƯƠNG 5: ĐI THĂM MỘT NGƯỜI CHẾT



Các nhà khoa học đã đi khi Eleanor và ba thám tử trưởng trở ra phòng khách. Một người phụ nữ mập mạp đang sắp xếp gối trên ghế salon lại cho ngay thẳng. Còn một thanh niên tóc nâu sậm đang lau rửa kính cửa dẫn ra sân thượng và hồ bơi.
– Chào Eleanor, người phụ nữ nói. Cháu đã đưa vài người bạn đến đây à. Hay lắm.
Hannibal nhận ra người phụ nữ ngay khi bà nói chuyện. Chính bà Collinwood, đã đến giúp Eleanor vào hôm tiến sĩ Karl Birkensteen qua đời. Bây giờ bà lại mang bộ tóc giả vàng thay cho bộ màu hung đỏ, nhưng lông mi bà vẫn dày đen. Bà chớp chớp lông mi để làm duyên khi Eleanor giới thiệu ba thám tử.
– À. Phải! bà nói khi bắt tay Hannibal. Nhớ rồi. Cậu chính là chàng trai trẻ dễ thương đã giúp Eleanor rất nhiều. Cậu biết không, trông cậu rất giống anh Charles yêu thương của tôi. Charles Collinwood, người chồng cuối cùng của tôi, người chồng mà tôi thương nhất. Một người rất tốt bụng, mặc dù hơi bị mập quá.
Bà Collinwood rất thích nói, ba thám tử nhanh chóng nhận ra rằng bà cứ huyên thuyên không ngừng. Ba thám tử không thể làm gì khác ngoài đứng yên để cho dòng lời nói xối xả qua đầu mình.
Bà Collinwood thích thú kể cho ba thám tử nghe về người chồng đầu tiên của bà, bán bảo hiểm, rồi người chồng thứ nhì, chủ nhiệm phim, rồi người chồng cuối cùng, mà bà thương yêu nhất, một bác sĩ thú y.
– Cả ba đều rất tốt, bà Collinwood nói. Nhưng tất cả đều mất sớm. Buồn lắm. Rồi tôi đến đây sống làm quản gia cho hội. Lúc đầu trông mấy ông nhà khoa học rất đáng sợ. Lúc nào cũng nghiêm trang, lúc nào cũng đang suy nghĩ. Nhưng khi đã biết mấy ông rồi, thì cũng chẳng khác gì những người đàn ông khác. Ông tiến sĩ Terreano thì cứ luôn nói về tính hung bạo nơi con người, nhưng ông rất tử tế và hiền như bụt. Còn tiến sĩ Brandon thì cứ khẳng định rằng con người ta không bạo lực, nhưng ông ấy lại có tính khí rất nóng nảy. Lẽ ra ông ấy không nên bỏ quá nhiều thời gian vì dượng của cháu, Eleanor à. Chỉ làm cho tiến sĩ bực mình thêm thôi.
– Dạ cháu biết, Eleanor nói khẽ.
Bà Collinwood chào rồi đi ra. Chàng trai trẻ đang lau rửa cửa sổ ngừng tay thả bàn chải vào chậu nước.
– Em đang cho mây bạn nhỏ kia đi tham quan chuyến mười đô la trọn gói đó hả? Anh ta hỏi Eleanor.
Eleanor có vẻ bực mình nhưng vẫn giới thiệu anh chàng.
– Đây là Frank, – Eleanor nói, Frank DiSteíano. Anh Frank cũng giúp thêm nhiều việc ở hội, y như chị.
Chàng trai mỉm cười.
– Chào. Rất vui được biết các bạn. Eleanor à, anh xin lỗi vì tối hôm qua. Anh bị bể bánh xe rồi mắc bận với cái bánh xe đó cho đến… sau đó trễ quá nên anh nghĩ em không chờ.
– Không sao đâu, Eleanor nói.
Eleanor đưa ba thám tử sang phòng thư viện nằm ngay bên cạnh phòng khách, rồi đi qua một tiền sảnh vuông nhỏ.
Chuồng ngựa cách nhà khoảng năm mươi mét. Eleanor bước đến đó không nói tiếng nào. Khi đã đến bên Blaze, con ngựa từng thuộc trách nhiệm của tiến sĩ Karl Birkensteen, thì tâm trạng Eleanor thay đổi hẳn, cô lại vui vẻ hơn. Eleanor chải lông cho ngựa, nói chuyện với nó, vuốt ve nó. Rồi cô hãnh diện cho ba thám tử xem con ngựa biết đếm như thế nào. Eleanor đặt bốn quả táo trên vách ngăn quanh chuồng.
– Bao nhiêu? Eleanor hỏi.
Con ngựa giậm chân bốn lần.
– Giỏi quá! Eleanor vỗ tay rồi cho ngựa ăn táo.
Ba thám tử chia tay với Eleanor tại chuồng ngựa, đi xuống đồi vào thành phố ăn trưa. Đường sá đông nghẹt người hơn bao giờ. Ba Thám Tử Trẻ quyết định bỏ qua quầy bán hamburger thịt khủng long, nhưng phải chờ gần một tiếng mới mua được hamburger ở quán cà phê Lazy Daze.
Sau khi ăn xong, ba thám tử đi lang thang trong thành phố, quan sát đám đông và ghi nhận các biện pháp đón mừng việc khai trương hang động của các chủ tiệm. Hang động sẽ được mở cửa vào ngày mai. Vài cửa kính được trang trí với hình vẽ bằng phân những người tiền sử mặc lông thú và cầm gậy. Trên một tấm hình, một người đàn ông tiền sử đang túm mái tóc một người phụ nữ tiền sử mỉm cười, lôi đi. Vài mặt tiền cửa hiệu có cờ xí trang trí màu đỏ, trắng, xanh.
Sau một hồi, Ba thám tử trẻ trở về bãi cỏ phía sau nhà MacFee. Ở đó cũng rộn ràng lăng xăng. Một người đàn ông cao gầy như cây sậy, mặc quần áo bảo hộ lao động cũ mèm, đang xếp hộp đồ nghề ra sau một chiếc xe lán, vừa làm vừa lầm bầm một mình.
– Không được, ông tuyên bố, không được tí nào. Rồi họ sẽ hối hận. Rồi mọi người sẽ thấy.
Ba thám tử bước lại gần hơn, nhìn thấy ngăn tủ âm tường trong xe lán, bếp lò nhỏ xíu xài khí butan và một cái tủ lạnh rất nhỏ. Có cái giường ngủ, chăn xếp gọn gàng. Ba thám tử thắc mắc không hiểu con người trông lôi thôi kia có sống trong xe lán không.
Người đàn ông chau mày lườm ba thám tử.
– Các cậu cũng sẽ không thích, nếu các cậu bị như thế! Ông tuyên bố thẳng thừng.
Rồi phía đằng sau có người la lên.
– Đồ ngốc!
Chính James Brandon đang la. Ông đứng bên ngoài tòa nhà không cửa sổ bằng gỗ đỏ vừa mới được xây bên mạn đồi.
– Cút đi khỏi đây! Newt MacFee hét lên từ ngưỡng cửa viện bảo tàng của mình.
MacFee đang cầm cây súng trong tay.
Brandon lui ra xa khỏi MacFee, hai nắm tay nắm chặt lại.
– Đồ vô học dốt nát! Brandon nói với MacFee. Bộ xương kia không phải của ông, cũng y như nước mưa không thể là của ông được, hay mặt trời cũng thế. Làm sao ông dám dùng mấy thứ trang trí vớ vẩn của ông bao vây mẫu sinh thể họ người kia!
– Ông đang vượt qua ranh giới rồi đó, MacFee nói. Cút đi khỏi đây, và nếu còn muốn được nhìn người tiền sử kia nữa, thì ngày mai trở lại và trả năm đô la như mọi người!
Brandon thốt lên một tiếng như mắc nghẹn rồi quay lưng bỏ đi.
MacFee mỉm cười.
– Bất đồng quan điểm một tí, – ông nói với ba thám tử.
– Không đúng! Không phải! Người đàn ông bên xe lán lầm bầm.
– Có ai hỏi ý kiến mày xem đúng sai bao giờ đâu, MacFee quát. Không phải việc mày. Này các cậu có muốn tôi cho các cậu vào xem thử trước khi tôi cho ra mắt chính thức ấy? Có thích xem thằng người tiền sử của tôi, và cái viện bảo tàng mà tôi đã xây cho nó không?
MacFee quay trở vào tòa nhà nhỏ, Ba Thám Tử Trẻ háo hức đi theo ông. Tuy nhiên khí vừa bước qua ngưỡng cửa, ba thám tử đứng lại, há hốc kinh ngạc.
Newt MacFee đã trang trí viện bảo tàng bằng hình chụp phóng to treo trên tường: hình xương và đầu lâu. Giữa những hình ảnh tương đối ghê tởm này, có những hình màu hấp dẫn và quen thuộc hơn: hơi nước bay ra từ lòng đất ở Lassen, thác nước đổ xuống từ vách đá ở Yosemite, sóng biển vỗ vào bờ gần Big Sur.
Trên bàn ngay giữa phòng, có mô hình đồng quê Californie ở các giai đoạn lịch sử địa chất khác nhau. Một cảnh trưng bày hầu như toàn bang bị sông băng che phủ. Ở cảnh khác, thì băng đã rút lui, để lại phía sau thung lũng và hồ. Có mô hình khu trại Da Đỏ với những tượng hình Da Đỏ nhỏ xíu gần như khoả thân, đang cúi xuống đống lửa, nấu ngô theo đủ thứ kiểu. Có cả mô hình người tiền sử đang đấu tranh với một con voi mamut khổng lồ.
– Tuyệt vời chưa? MacFee nói. Dĩ nhiên mấy thứ này là để khai vị, lấy le thôi. Cái cốt yếu nằm bên trong kia.
Đối diện với cửa vào, bốn bậc thềm dẫn lên cái mặt bằng nhỏ. Dưới mặt bằng là nền đất trần hông đồi và lỗ hở vào hang. Đèn chiếu sáng vào chỗ hở.
Hannibal, Bob và Peter băng qua phòng bảo tàng, bước iên bậc thềm, nhìn xuống hang và thấy người hóa thạch.
Hannibal thở hổn hển, còn Bob rùng mình.
Người tiền sử là một bộ xương không đầy đủ. Phần lớn là cái sọ, nâu đen, gớm ghiếc. Hai hốc mắt trống rỗng nhìn trân trân, còn quai hàm trên như nở một nụ cười rùng rợn. Không có quai hàm dưới. Còn được vài cái xương sườn nhô lên từ nền hang, ở phía dưới là một phần xương chậu và vài cái xương chân. Những khúc xương của một bàn tay nhỏ nằm khá gần cửa hang, như đang cố với tới một cái gì đó.
MacFee đã cho lấp đèn trên trần hang. Còn dưới đất, gần cái sọ thì có đống lửa trại giả lấp lánh. Gần bộ xương có tấm chăn kiểu bộ tộc Da Đỏ Navajo xếp lại và một cái rổ đan theo kiểu Da Đỏ.
Ngay lập tức, ba thám tử cảm thấy thông cảm cơn giận của Brandon. Cách trưng bày thật ngu ngốc. Nhưng tệ hơn nữa, có dấu chân khắp xung quanh bộ xương. Bộ hóa thạch quý báu đã xém bị giẫm nát khi người nào đó vào lắp ánh sáng và đống lửa giả.
– Tôi định để thêm một đôi dép mọi gần chỗ lẽ ra có chân của nó, nếu như nó có chân, MacFee nói. Sẽ trông y như nó vừa mởi cởi dép ra rồi nằm xuống ngủ. Nhưng tôi sợ hơi quá đáng.
Bob thốt lên lên một tiếng giật mình.
– Có lẽ thời đó họ chưa đi dép, phải không? MacFee hỏi.
Ba thám tử không trả lời. Ba bạn quay lưng lại với hang, đi qua trước một chỗ trưng bày những cái móc chìa khóa sáng bóng và người tiền sử bằng nhựa, để bán cùng với những chiếc áo thun có in dòng chữ “Citrus Grove, cái nôi của nhân loại.”
– Sẵn sàng hết rồi, Newt MacFee vừa nói vừa tắt đèn khóa cửa. Thằng John Du mục sẽ canh gác đây đêm nay, không cho ai vào làm lộn xộn lên hết.
– John Du mục à? Hannibal hỏi lại.
MacFee hất cằm về hướng người đàn ông gầy bây giờ đang ngồi trên cái giường bên trong xe lán.
– Chính hắn. Chúng tôi gọi hắn là John Du mục bởi vì hắn sống trong chiếc xe kia, thay vì có ngôi nhà thật.
MacFee trở về nhà. John Du mục bước ra khỏi xe lán.
– Được thôi, ông nói. Muốn tôi canh, thì tôi sẽ canh. Nhưng kẻ quá cố trong kia sẽ không thích chuyện này đâu. Tôi cũng sẽ không thích bị mọi người đến xem xương của tôi.
– Nhưng đã chết rồi thì làm sao mà biết được, Peter nhấn mạnh, ông ấy chết rồi mà? Người chết đâu có biết khi người ta nhìn mình.
– Có chắc không? John Du mục hỏi lại.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.