Ý và tình

Chương 12



Sớm mai chủ nhật, mặt trời chói loà. Quang cảnh trong châu thành Sài Gòn đã có vẻ xanh tươi tự nhiên, mà nhờ nam thanh nữ tú áo quần loè loẹt, người đi bộ, kẻ ngồi xe, nghễu nghến cùng đường nên cái vẻ xanh tươi ấy có thêm cái nét kiều diễm là nét thường làm rung động tâm hồn hoạ sĩ.

Thế mà bác vật Xuân, mấy tháng nay mới mướn một căn phố lầu dọn ở nơi đường Testard, sớm mai nầy đầu không chải nên tóc chôm bôm, ông cứ ngồi ghì tại bàn viết trên lầu, mắt chăm chỉ ngó mấy tờ giấy đã viết trong đêm hồi hôm, cả tâm hồn đều trút hết vào đó, không kể những quyển sách để lộn xộn trên bàn với mấy tờ nhựt trình nằm tàng lang gây ra cái cảnh hỗn loạn mà thuở nay những ai ưa trật tự trong nhà thường bực tức trái tai gay mắt, không thể chịu được.

Thằng Chí, cũng như chị Chín Thiện đã trở lại giúp việc cho Xuân mấy tháng nay, bưng ly cà phê với đĩa bánh mì nướng đem lên lầu cho Xuân lót lòng. Thấy trên bàn viết chẳng còn một chỗ trống nó bèn để cà phê và bánh mì trên cái bàn tròn ở giữa phòng rồi chắp tay nói: “Bẩm ông, xin ông lót lòng kẻo cà phê nguội.”

Xuân day lại ngó thằng Chí với cặp mắt chưng hửng, lần lần nhớ tới sự sống thực tế mới đứng dậy đi lại bàn ăn lót lòng.

Thằng Chí lấy một tờ báo, tính sắp lại bàn viết cho có thứ tự.

Xuân la lớn:

–         Đừng! Ðừng động đến đồ trên bàn viết. Thây kệ, để đó.

Thằng Chí giựt mình, thụt tay, rồi bỏ đi lấy chổi quét nhà, vừa quét vừa nói: “Bẩm ông, áo quần tôi lấy ra để sẵn trong phòng ngủ. Ông lót lòng rồi rửa mặt thay đồ.”

Xuân ngó thằng Chí mà không trả lời, ngó một hồi rồi hỏi:

–         Mầy có bịnh hay sao mà bữa nay mắt mầy coi trỏm lơ[1]  vậy Chí?

–         Bẩm, tôi không có bịnh chi hết. Bị thằng con tôi nó bịnh hai đêm nay tôi phải thay phiên với vợ tôi đặng thức mà dỗ nó. Tôi thiếu ngủ lên mệt một chút.

–         Con mầy đau hay sao?

–         Bẩm, nó ấm đầu rồi nhõng nhẽo chớ không đau gì lắm.

–         Nghèo mà bày đặt có vợ có con làm chi cho thêm cực khổ.

–         Bẩm ông, người mình họ hay nói: “ Con là nợ, vợ là oan gia”. Lời ấy tôi nghĩ thiệt là đúng. Vợ con thiệt là mối nợ của trời, trời định cho đàn ông con trai phải trả, bởi vậy ai cũng phải có vợ con. Nếu mình trốn lánh, hoá ra mình trái lịnh trời định.

–         Mầy khéo nói giễu! Trời nào bắt buộc mầy phải có vợ con. Tại mầy muốn mang mối nợ vào thân, nên mầy phải chịu cực khổ đó chớ.

–         Bẩm ông, có vợ có con cực khổ thiệt. Nhưng nhiều khi vợ con nó cũng làm mình vui vẻ lắm, nó làm mình quên cực khổ hết.

–         Vui lắm hay sao?

–         Bẩm, vui lắm. Có bữa tôi làm mệt, vể thấy con nó cười mà mừng tôi. Tôi ôm mà nựng con mà sự mệt nhọc tiêu tan mất hết. Có khi tôi buồn chán việc đời ban đêm than thở với vợ. Vợ tôi thỏ thẻ khuyên giải, nhứt là nó nhắc tới con, rồi trong trí tôi quên hết thân phận của tôi, chỉ biết sống cho vợ con, nhờ vậy mà tôi hăng hái làm việc không ngao ngán dài dài nữa. Bởi vậy, có vợ có con tuy cực song vui lắm. Tại ông cứ ở một mình lên ông chưa nếm được cái vui ấy.

–         Nếu được cái vui gia đình thì phải cực. Thì ta kiếm thứ vui mà khỏi cực ta mua, há chẳng lợi hơn sao?

–         Bẩm, ở đời có cực mới có vui. Tôi tưởng chẳng có thú vui nào khỏi cực mà mua được.

Xuân nghe thằng Chí luận một cách thật thà mà ẩn ý cao xa thì ngồi lơ lửng.

Thằng Chí nói tiếp: “Ông Còm-mi Quan có vợ con rồi coi bộ ổng vui dữ.”

Lời nói nầy càng làm cho Xuân thêm khó chịu nên bưng uống cạn ly cà phê rồi đứng dậy đi vô phòng ngủ mà rửa mặt thay đồ.

Thằng Chí quét nhà rồi bưng ly và dĩa xuống từng dưới mà rửa và cất.

Xuân chải đầu láng bóng, mặc bộ đồ trắng mới ủi trở ra bàn viết dòm giấy tờ trên bàn rồi rùng vai đi thẳng ra đứng dựa lan can lầu phía trước mà ngó xuống đường. Một cô thiếu nữ mặc áo xanh, che dù đỏ, mặt dồi phấn trắng toát, môi thoa son đỏ lòm, cặp tay một cậu thanh niên, đi lững thững vừa nói vừa cười, bộ hân hoan thoả thích. Một đứa nhỏ mang giỏ bánh tây đi bán rao bánh om sòm. Một chú khách ngồi trên xe kéo phơi bụng chang bang, đè nặng phu xe lê lết chạy không muốn nổi.

Xuân đứng ngó mà trí lơ lửng, vừa tự hỏi riêng: “Bây giờ mình làm việc gì?” thì lại thấy Quan cầm bánh chiếc xe hơi nhỏ, ở phía dưới chạy lên, bớt máy rà sát lề đường rồi đậu ngay trước nhà.

Xuân đứng trên, thấy bạn đi có một mình thì kêu hỏi lớn: “Toa đi đâu đó?”

Quan ngước lên nhích miệng cười rồi đi thẳng vô nhà không thèm trả lời. Xuân biết Quan đến thì đi luôn lên lầu, nên trở vô đứng tại cửa lầu mà chờ, không cần đón tiếp. Thiệt quả Quan lên lầu. Hai anh em bắt tay mừng nhau.

Quan ngó ra bàn viết rồi hỏi:

–        Toa vẫn cứ lo việc đó hoài hay sao?

Xuân thở dài, rồi lại ngồi xuống chống tay lên bàn tròn mà đáp:

–        Moa phiền lắm, moa muốn bỏ hết, không thèm lo tính nữa. Ngặt vì moa nghĩ mình sống giữa một đám người mù, duy chỉ có một mình mình sáng; nếu mình không chỉ dùm đường cho người ta, mình không dìu dắt người ta, thì mình có tội. Tại như vậy nên moa muốn nghe lời toa mà bỏ hết, song vì lương tâm cắn rứt nên moa bỏ không đành.

Quan kéo ghế ngồi ngang bạn, vừa cười vừa nói:

–        Toa nhớ không? Ngày xưa ở bên tây mới về, moa khuyên toa đổi tánh ý, nên chú trọng vào việc thực tế, chớ đừng đuổi theo chuyện viễn vông. Tại toa không chịu nghe lời moa, nên bây giờ mới thất vọng mà chán ngán đó.

–        Phải, moa nhớ. Toa khuyên moa làm công ích nho nhỏ. Theo ý của toa thì trước hết nên khuyên đồng bào mỗi người đều biết lo công ích như vậy đã; chừng nào tạo chí công ích của mỗi người được rồi, thì sẽ đề xướng các vấn đề lợi ích quốc gia.

–        Ừ, khai hoá thì phải lập chương trình cho có thứ tự, bắt đầu từ chỗ gần đi đến chỗ xa, từ chỗ thấp lên tới chỗ cao mới được. Toa muốn cất một toà nhà lầu, trước hết toa phải lo xây cái nền cho chắc đã chớ. Toa không kể nền, toa cứ xây từng lầu trước, thì cái nhà đứng làm sao được.

–        Ở bên tây bảy năm, moa cứ cặm cụi lo học cho có tài. Moa tưởng ở nhà anh em đồng bào cũng lo ung đúc trí tuệ như moa, cũng đã hăng hái nhiều ít trên đường tiến hoá, chớ moa có ngờ đâu người ta quá nguội lạnh bơ thờ quá như vậy.

–        Moa đã nói truớc với toa: Người mình có tiến hoá chớ chẳng không, song tiến hoá trong những đường trái hẳn với đường toa ham muốn. Họ tiến hoá trong đường ích kỷ, trong đường vật chất, trong đường hoan lạc. Mỗi người mắc lo kiếm tiền cho nhiều, miễn có tiền thì thôi, dầu dùng phương pháp nào cũng được. Có tiền đặng mặc y phục cho loè loẹt, đánh bài bạc cho to lớn, sắm xe hơi cho lộng lẫy, cất nhà cửa nguy nga, ăn xài ngoả nguê, chơi bời phóng túng, chớ không phải có tiền đặng lo giúp dân giúp nước chi hết. Với những người đầy lòng ích kỷ họ chỉ cho phận họ sung sướng, họ chỉ lo loè con mắt thiên hạ đặng vinh mày vinh mặt, mà toa đem việc công ích toa nói thì họ có hiểu gì đâu? Họ không thèm hiểu mà họ còn cười toa nói bậy là khác. Tại như vậy nên mấy tháng nay toa nhọc công viết sách, toa tốn tiền mướn nhựt trình cổ động sự chấn hưng nông nghiệp, toa tận tâm mà không công hiệu gì hết. Những ý tứ tốt, những lời nói hay của toa cũng như nước đổ lá môn, ích chi đâu. Moa xin toa hãy dẹp hết việc đó đi, đừng thèm tính tới nữa.

Xuân chống tay lên trán mà suy nghĩ, rồi thở ta mà nói:

–        Bỏ dẹp sao được! Xã hội của mình trụy lạc đến nỗi không thích đường ngay, không ưa lẽ phải nữa. Mình là bọn thanh niên trí thức, mình phải làm sao, chớ mình giận lẫy mà bỏ xụi, thì còn gì nước nhà, còn gì chủng tộc?

–        Thuở nay toa có lòng thương quốc gia, thương xã hội, đến nỗi quyết hy sinh cả hạnh phúc trong đời để giúp ích cho nước cho dân, thiệt moa tôn kính toa lắm. Toa nhờ tây học ung đúc trí não toa như vậy, bây giờ bảo toa phải đổi trí sửa lòng, toa làm sao đổi sửa cho được.

–        Không thể được. Moa chịu tốn công tốn của mà học cho đến cùng, lại vì moa muốn có cái học thức văn minh hoàn toàn của Âu Mỹ, đặng đem gieo rải vào xã hội mình, dầu thế nào moa cũng phải dùng học thức đó mà khai hoá đồng bào chớ không chịu thối chí mà bỏ xụi, làm thế nầy không được thì moa kiếm thế khác.

–        Chấn hưng nông nghiệp đã không thành rồi, bây giờ toa tính làm việc gì nữa?

–        Hồi nãy toa có tỏ một ý, moa nghĩ hữu ý lắm. Toa nói muốn cất nhà lầu, trước hết phải lo xây nền cho chắc. Phải, phải lắm. Khi moa ở bên tây về, moa tưởng ở nhà đã có xây nền rồi, moa cất nhầu nhà lầu, té ra cái nền đó bằng bùn, phập phều bở rẹt, nên không chống chịu nhà lầu nổi. Bây giờ moa tính lo xây nền lại cho vững đã. Chừng nào nền cứng chắc rồi sẽ lo cất nhà.

–        Phải lắm. Mà toa tính xây nhà cách nào đâu toa nói sơ cho moa nghe thử coi.

–        Bây giờ phải lo cho xã hội mình có một cơ sở luân lý vững chắc đã. Bài trừ những thói xa xỉ, thói loè loẹt, thói hoan lạc thói ích kỷ. Đồng thời, mình phải tập cho mỗi người có lòng thành thực, có tánh kiên nhẫn, có chí tự cường, biết tôn kính cái hay, cái tốt, cái phải, cái cao, biết chê ghét cái dở, cái xấu, cái quấy, cái hèn, biết ham cần lao, biết yêu trật tự, biết yêu nhân nghĩa, biết quý can thường, biết thương yêu nước nhà, biết chuộng nòi giống. Phải dọn cho có cái cơ sở luân lý đó thì trồng cây công ích mới đơm bông trổ trái, nhành lá sum sê được. Phải có cái nền tảng vững chắc đó, thì mới cất nhà lầu cao chót vót được.

–        Phải rồi, phải rồi. Toa làm như vậy thì hay lắm. Làm đi, tuy moa học ít, cũng không có của nhiều, song moa sẽ tận tâm mà tiếp sức với toa, tiếp đến cùng. Mà moa chắc hết thảy thanh niên tân học, là hạng cảm nhiễm âu hoá, chẳng ai mà chẳng hợp tác với toa mà cải lương xã hội về phương diện đó.

–        Toa chịu cách chấn hưng xã hội như vậy đó phải không?

–        Chịu lắm. Mà moa chắc em Quế của moa cũng chịu nữa.

–        Vậy để moa suy nghĩ cẩn thận rồi moa sắp một chương trình cho có tuần tự để đuổi theo cho mau có hiệu quả.

Hai anh em bàn luận tới đó kế nghe có tiếng giày lên thang lầu. Hai người day lại mà ngó. Thằng Chí hào hển chạy lên thưa: “Bẩm ông, có cô Hai và cậu Triều.”

Thiệt quả cô Quế với cậu Triều tiếp theo sau thằng Chí.

Xuân với Quan thấy Triều thì chưng hửng.

Triều la lớn:

–         Xuân, toa học có bằng kỹ sư nông phố, toa làm bác vật canh nông rồi toa quên anh em cũ hết hả? Về mấy tháng nay toa không xuống thăm moa, mà cũng không thèm viết một bức thơ cho moa hay. Làm phách chi quá vậy ông Bác vật?

–         Xuân chưa kịp trả lời thì cô Quế tiếp nói:

–         Anh Triều ghé tiệm em mà hỏi thăm anh Xuân. Em nói anh Quan đưa em xuống tiệm rồi mới đi lên nhà anh Xuân. Anh Triều bắt em lên xe dắt ảnh đi kiếm. Lên tới đây em thấy xe anh Quan còn đậu đó em mới chắc hai anh còn ở nhà, chớ hồi nãy em sợ hai anh đi chơi quá.

Xuân đưa tay ra muốn bắt tay Triều mà nói:

Xin anh cả tha lỗi. Moa về bảy tám tháng rồi, nhưng vì mắc công việc quá nên không viếng thăm anh em được. Công việc của moa Quan biết rõ.

Triều co tay không chịu nắm tay Xuân mà nói:

–         Moa phiền quá. Moa biết mà, mấy tháng nay toa mắc kêu gọi điền chủ hiệp với toa để chấn hưng nông nghiệp. Toa kêu thiên hạ, mà toa không thèm kể đến moa. Toa khinh bỉ moa quá. Toa viết sách viết báo mà cổ động dữ lắm. Vậy đã thành công hay chưa?

Xuân buồn bực đáp:

–         Không ra cóc rác gì hết. Hai anh em moa mới bàn luận với nhau đây.

Triều điểm mặt Xuân mà nói:

–         Ông già giận toa lung lắm, trách toa sao đi tây về không thèm xuống thăm. Để chừng toa gặp ông già rồi toa coi.

–         Việc đó thiệt moa có lỗi nhiều lắm. Chú thím dưới nhà mạnh khoẻ?

–         Mạnh luôn luôn.

–         Cô Quế lăng xăng nhắc ghế cho anh em ngồi và cô buộc phải ngồi theo thứ tự: Mai, Lan, Cúc, Trước như hồi xưa.

Xuân ngó Triều mà nói:

–         Hôm mới về moa có hỏi thăm toa. Em Quế nói bây giờ toa là một nông gia hoàn toàn. Thiệt là em Quế nói đúng quá.

–         Phải. Moa là tên dân làm ruộng mà moa lấy làm tự hào về nghề của moa. Moa không phải Bác vật bác vẹo gì hết, mà khá, ruộng của moa trúng mùa luôn luôn.

–         Moa mừng cho toa. Năm nay toa được mấy đứa con?

–         Ba đứa.

–         Giỏi quá.

–         Không giỏi gì lắm. Có vợ gần bảy năm mà có ba đứa con thì có hơn ai đâu.

–         Hồi moa sửa soạn đi thì toa đã có nói[2] vợ bên Long Mỹ. Nghe nói sau toa không cưới chỗ đó nữa phải không?

–         Ai nói mà toa biết?

–         Em Quế.

–         Ừ, moa nói chỗ đó rồi moa bỏ. Toa biết tại sao hay không? Họ chê moa không đủ hai bằng tú tài, rồi họ làm eo sách, nên moa ghét moa đi cưới chỗ khác.

–         Toa ham giàu, ham lập gia đình mà gặp việc trắc trở như vậy toa không chán, thiệt toa bền chí quá.

–         Chán nỗi gì? Cưới chỗ nầy không được ta kiếm chỗ khác. Thiếu gì con gái, thiên hạ họ không có bằng cấp chi hết mà họ cũng cưới vợ được, huống chi moa là cậu “tú nửa”, moa cũng bảnh lắm chớ.

–         À, còn em Quyên, chắc năm nay em lớn đại rồi hả?

–         Lớn đại, 23 tuổi, nó cũng làm ruộng nên mạnh mẽ lắm.

–         Có lẽ em cũng đã có chồng con rồi chớ?

–         Chưa…nó chờ toa!

–         Hả? Chờ moa làm chi?

–         Nó chờ toa đi tây về rồi cưới nó!

–         Trời ơi! Toa nói chơi sao chớ.

–         Moa nói thiệt đa, chớ không phải nói chơi đâu.

Xuân, Quan và cô Quế nhìn nhau chưng hửng. Triều chúm chím cười mà nói tiếp: “Moa không dè mấy năm nay em moa nó chờ toa nên nó không chịu lấy chồng. Moa mới hay mấy bữa rày. Moa giận toa lắm nên moa không  muốn gặp mặt toa. Ngặt có chuyện con Quyên như vậy nên moa phải kiếm toa đặng nói  cho toa biết.”

Quan ngó vợ mà  cười. Cô Quế vui vẻ nói:

–        Người ta nói vợ chồng là duyên nợ. Em nghĩ phải lắm. Phải có duyên nợ trời định thì mới kết nghĩa vợ chồng được. Như anh Triều hồi trước ảnh tính cưới vợ bên Long Mỹ, công chuyện đã xong rồi, mà vì không phải duyên nợ nên khiến có chuyện trắc trở cho ảnh hồi đặng ảnh về cưới chị Triều ở cùng làng. Em với anh Quan đây cũng vậy. Hồi trước hai đứa em đâu có ý định kết nghĩa vợ chồng. Vì có duyên nợ nên không tính trước mà cũng phải phối hiệp. Anh Xuân cũng vậy nữa, tại ảnh có duyên nợ với cô Quyên nên bảy tám năm nay cô Quyên phải chờ ảnh chớ không thể lấy chồng khác được.

Xuân châu mày nói:

–        Bày đặt chuyện! Duyên nợ là cái quái gì? Tôi đã nhứt định ở một mình mà lo việc đời, tôi có tính cưới vợ đâu.

Triều châm hẩm đáp:

–        Toa không tính mà con Quyên nó tính!

–        Ủa! Em Quyên tính sao được…Em tự do mà tính cho phận em, chớ em có quyền gì mà tính cho phận moa.

–        Có chớ, nó có quyền bắt moa phải cưới nó!

–        Lời nói đó cao quá trí khôn của moa, moa hiểu không tới.

–        Có khó chỗ nào đâu mà không hiểu. Toa gieo giống ái tình trong lòng em moa, toa làm cho nó mong mỏi chuyện trăm năm với toa, bởi vậy nó nhứt định chờ toa bảy tám năm nay không ưng chỗ nào hết. Tình nghĩa của nó nặng nề, công đợi chờ của nó dài dặc, như vậy nó có quyền ép toa chớ. Không phải em moa hư hèn nên moa kiếm lời chuốt ngót mà tấn cho toa. Moa chỉ nói cho toa biết, nếu toa thối thác không chịu cưới con Quyên thì toa là thằng vong tình bội nghĩa, dầu toa làm ông gì toa cũng không là người Việt nữa!

–         Moa có gieo tình cho em Quyên hồi nào đâu? Thuở nay moa coi em như em ruột của moa, đối với em moa chẳng bao giờ nuôi một ý gì đê tiện. Huống chi hồi moa chưa đi tây thì em còn con nít. Bảy tám năm nay moa không gặp em, moa có dịp nào mà gieo tình cho em được?

–         Có. Có dịp! Nó chịu thiệt với moa hết. Năm toa bán đất toa ở trong nhà moa hơn mười ngày phải không? Mỗi bữa toa cầm bánh xe hơi chở em moa đi chơi với toa phải không?

–         Phải…

Xuân lơ lửng ngẫm nghĩ chuyện xưa rồi gật đầu nói tiếp:

–         Phải. Moa nhớ moa có chụp hình cho em Quyên. Hình của em vẫn còn trong cuốn “album” của moa. Lúc moa xuống ở tại nhà toa thì toa đi Đà Lạt. Mỗi buổi chiều moa chở em Quyên đi kiếm chỗ chụp hình chơi. Nhưng mà toa phải biết, moa chỉ tỏ tình anh em mà thôi, chớ moa chẳng có tình ý chi khác.

–         Toa thì vô ý, mà nó lại hữu tình, biết sao bây giờ. Moa với ông già bà già không dè có chuyện kỳ cục như vậy. Bữa hổm có người cậy mai xin cho coi nó. Nó không chịu. Bà già dỗ hỏi nó mới nói thiệt nó chờ toa. Nó lại nói gắt nếu nó không được làm vợ toa thì nó cạo đầu đi tu, chớ nó không thèm làm vợ người nào khác. Chuyện như vậy, toa liệu lấy.

Xuân nghe rõ rồi ngồi thở dài, không biết lấy chi mà chữa mình nữa. Cô Quế mới xen vô nói:

–         Cô Quyên nặng tình với anh Xuân quá. Cô để trọn cái đời của cô vào ta anh Xuân. Ảnh thong thả muốn xây hạnh phúc hay là muốn xây thống khổ tự ý ảnh. Nếu ảnh vì chủ nghĩa mà phụ rẫy tình cô Quyên thì tội nhiệp cho cô lắm. Phải vậy hay không anh Quan?

Quan gật đầu:

–         Chớ sao. Moa đồng ý với em.

–         Ái tình nguy hiểm lắm, nhiều khi nó giết chết người ta chớ chẳng phải chơi.

–         Thiệt như vậy. Bởi vậy anh Xuân là người có nhân, ảnh không nỡ để cho cô Quyên thất tình thất vọng đâu.

Xuân lắc đầu nói:

–         Anh em đừng có cám dỗ. Làm sao tôi cưới em Quyên được. Thuở nay tôi đã quyết chí cô lập, mà đối em Quyên tôi lại không có chút tình nào hết. Tâm hồn của tôi như vậy, nếu tôi cưới em Quyên thì tôi làm khổ cho em chớ không phải làm phước. Tôi không thể làm như vậy được.

Cô Quế rước mà cãi:

–         Em nghe nói trong đạo vợ chồng nhiều khi chẳng cần phải có tình. Ăn ở với nhau lâu ngày rồi nó sanh cái nghĩa cũng đủ sức buộc chặt niềm phu phụ đến trăm năm vậy.

–         Em là đàn bà tân thời mà sao em lại nói như vậy.

–         Tân thời là tân về bề cư xử, tân về hình thức, chớ lẽ trời với đạo làm người mà tân làm sao được? Cô Quyên đã nặng tình với anh. Dầu bây giờ anh chưa có tình với cô, song chừng cưới cô rồi anh thấy tình của cô anh sẽ cảm, rồi tự nhiên anh cũng sẽ có tình với cô sau, em chắc như vậy.

–         Làm việc cầu may như thế sao được.

Triều bước lại vỗ vai Xuân mà nói:

–         Nầy Xuân, moa nói thiệt với toa nếu toa không thèm cưới con Quyên, thì chẳng những là em moa phiền não mà thôi  mà tía má moa cũng giận toa lắm. Hổm nay ông bà bàn tính nhiều chuyện ngộ hết sức. Moa không muốn nói rõ để rồi sau toa sẽ biết!

–         Không được, nhứt định không được.

–         Toa là anh em, moa phải phân cạn lời với toa, chớ moa không ép buộc. Song moa nói trước cho toa biết, toa định liệu lẽ nào thì toa lãnh lấy trách nhiệm. Phận sự của moa là phải tỏ hết nỗi lòng của em moa cho toa hiểu thì moa đã làm xong rồi.

Xuân ngơ ngẩn vì trong trí rất bối rối. Quan nói:

–         Thôi, chuyện đó còn đó. Để thủng thẳng cho Xuân suy nghĩ, bây giờ mời hết lên nhà tôi chơi rồi ăn cơm trưa với vợ chồng tôi.

Triều nói:

–         Không được, thằng làm ruộng nầy lâu đi Sài Gòn nên mắc công việc nhiều lắm; phải đi kiếm mua phảng mua cuốc mua đủ thứ. Chiều nay tựu nhau mà ăn cơm tối thì được. Moa nhứt định mời hết anh em đãi một tiệc kêu là tiệc “Mai, Lan, Cúc, Truớc tái hội”. Bảy giờ tối nay anh em hội viên phải có mặt tại nhà hàng Đại Đồng chỗ mình hội lại lúc đưa Xuân đi tây đó. Không ai được phép vắng mặt.

Cô Quế nói:

–         Em muốn mời lên nhà em.

Triều gạt ngang:

–         Im! Anh cả đã định. Không được phép cãi. Thôi bây giờ anh cả đi mua xẻng mua cuốc. Chiều nay bảy giờ hay đến sớm hơn cũng được. Mọi người phải ghi nhớ.

Triều nói dứt lời liền đội nón rồi bắt tay mọi người mà từ giã. Ai nấy thấy cái cử chỉ độc tài của Triều đều tức cười, ríu ríu dắt nhau đưa Triều xuống lầu. Triều hỏi cô Quế như muốn về tiệm thì Triều đưa cô về. Cô nói để cô về với Quan, Triều không ép, một mình lên xe mà đi.

Vợ chồng Quan theo Xuân trở vô nhà, có lẽ cặp phượng hoàng tính hoà hiệp nhau đặng kêu chỉ đường cho thanh niên nam nữ.

 


[1] thụt sâu và đỏ

[2] hỏi vợ


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.