13 VỤ ÁN

NGÔI ĐỀN NỮ THẦN ASTARTE



“Thưa mục sư Pender, ngài định kể lại chuyện gì đây?”
Ngài mục sư nhếch mép cười, khoan thai nói:
“Cả đời tôi quanh quẩn nơi chốn lặng lẽ”, ông nói, “chẳng nghe thấy biến cố gì lớn lao. Nhớ lại cái hồi còn thanh niên tôi đã trải qua những kỷ niệm không thể quên”.
“Ồ”. Joyce Lempriere thích thú kêu lên.
“Chuyện đó với tôi không khi nào quên” ngài mục sư kể lại. “Nó đã in sâu trong trí từ dạo đó, mãi đến hôm nay, dù chỉ gợi lại nhưng tôi nhớ rõ mồn một cái cảnh tượng khủng khiếp… nhìn nạn nhân chết tức tưởi vì một lý do không đâu”.
“Nghe kể tôi thấy rùng mình, Pender”. Ngài Henry hồi hộp.
“Từ lúc đó, hễ mỗi khi nghe ai nhắc tới cảnh tượng đó tôi cảm thấy không cười nổi. Chuyện đó có thật mà. Có rất nhiều cái ta vừa cảm thấy lành hoặc dữ, dường như vừa có cảm giác là có một thế lực vô hình nào đó”.
“Ngôi nhà đó, Larches, như thể là một điềm gở”. Bà Marple nhắc lại. “Lão Smithers mất hết của trắng tay phải bỏ đi nơi khác. Tiếp đến nhà Carslakes, đến một bữa Johnny Carslake té cầu thang gãy chân, bà Carslake sức khỏe suy yếu phải đi về miền nam nước Pháp tịnh dưỡng. Nghe nói nhà Burdens mới dọn về ở thì ông Burden phải vô nằm nhà thương chờ mổ”.
“Nói chung tôi thấy các người chỉ tin vô chuyện mê tín dị đoan”. Ông luật sư Petherich nói “Nơi đó đã chịu nhiều mất mát nên thiên hạ phao tin đồn đại vô tội vạ”.
“Tôi biết một vài ‘hồn ma’ tính cách mạnh mẽ còn hơn cả người thật”. Ngài Henry vừa cười khúc khích vừa kể.
“Tôi đề nghị”, Raymond nói, “ta ngồi lại lắng nghe ngài Pender kể tiếp câu chuyện”.
Joyce đứng dậy với tay tắt bớt hai ngọn đèn, căn phòng sáng lên nhờ ánh lửa từ bếp sưởi.
“Một bầu không khí u tịch”, cô nói “Nào ta có thể bắt đầu được rồi đấy”.
Ngài Pender nhìn qua nàng cười, ông ngồi dựa lưng ra sau ghế gỡ cặp kính kẹp mũi ra, ông bồi hồi kể lại:
“Ở đây có ai biết vùng cao nguyên Dartmoor chưa. Câu chuyện tôi sắp kể đây xảy ra ở một nơi gần biên giới Dartmoor. Ngôi nhà là một món tài sản rất quý giá, bán mấy năm nhưng chưa có ai tới dạm hỏi. Lúc đó nhằm vào mùa đông lạnh lẽo, nhưng ai cũng nhìn thấy những nét đẹp kỳ ảo của ngôi nhà. Về sau nó được bán cho một vị khách tên là Haydon – ông Richard Haydon. Tôi biết ông từ ngày còn học ở đại học, bẵng đi một thời gian chúng tôi không liên lạc dù vẫn còn gắn bó. Cho đến khi nhận được giấy mời tới thăm khu rừng có tên gọi là Silent Grove – là cái tên mà ông mới đặt khi làm chủ ở đây.
Bữa tiệc mời không có gì là ồn ào. Chủ nhân Richard Haydon và người bà con tên là Elliot Haydon. Ngoài ra còn có phu nhân Monnering dắt theo cô con gái mắt mũi xấu xí, dáng điệu rụt rè tên là Violet. Hai vợ chồng Đại úy Rogevin là những nhà chơi thể thao, mặt mũi rám nắng, thích môn đua ngựa, săn bắn. Phải kể thêm hai vợ chồng trẻ nhà Syrnonds và cả cô nàng Diana Ashley. Tôi biết chút ít về cô nàng này. Hình chụp cô nàng được đưa lên báo xã hội thường xuyên, một trong những người đẹp nhiều tai tiếng nhất trong vùng. Sự xuất hiện của nàng phải nói là gây xôn xao. Trông bề ngoài ngăm ngăm đen, khổ người cao ráo, làn da phơn phớt màu kem nhạt. Đôi mắt đen láy khép hờ nhìn chếch về một bên tạo cho nàng một gương mặt huyền bí đông phương. Nàng được trời phú cho giọng nói thanh tao.
Tôi biết ngay ông bạn Richard Haydon say mê con bé, đoán chừng bữa tiệc có ý dành riêng cho nàng. Còn nàng nghĩ ngợi ra sao tôi chịu, không thể đoán. Nàng có những sở thích bốc đồng. Một hôm đang nói chuyện với Richard nàng không thèm nhìn đến những người xung quanh, qua bữa sau đổi ý thích, tán tỉnh Elliot anh chàng bà con cùng họ. Hôm đó, cô ta quên bẵng Richard, tật xấu không chừa, cô ta liếc mắt đưa tình với anh chàng bác sĩ Symonds âm thầm lặng lẽ ngồi khuất ở một nơi.
Qua bữa sau tôi được chủ nhà dẫn đi coi một vòng quanh nhà. Nhà thì chẳng có gì lạ, xây bằng loại đá granite lấy ở Devonshire, một chất liệu xây dựng bền bỉ, không đẹp nhưng mát mẻ thoải mái. Đứng bên cửa sổ nhìn ra bao quát cả một vùng quang cảnh Moor, những dãy đồi phủ kín loài cây chịu hạn, cây Tors.
Xuôi theo triền đồi Tor, nơi gần nhất nổi lên những chòi nhà tranh di tích thời kỳ Đồ Đá. Bên quả đồi kia là khu mộ cổ vừa được khai quật, thu nhặt được vài mớ dụng cụ bằng đồng còn sót lại. Haydon là một tay thích sưu tầm đồ cổ, ông ta thao thao kể đây là nơi còn lưu lại rất nhiều di tích thời cổ.
Những cư dân thời kỳ Đồ Đá mới, người Druids, người Roman cả những dấu tích của giống người cổ đại Phoenicians còn lưu lại nơi đây”.
“Có thể nói chỉ còn nơi này còn sót lại nhiều điều kỳ thú”, ông ta kể. “Nơi này được đặt cho cái tên là Silen Grove. Thế đấy, ta sẽ hiểu ngay vì sao vùng đất được đặt cho một cái tên lạ hoắc”.
“Ông ta chỉ tay về phía trước mặt, một vùng đất trống trải – một vùng đá sỏi, chỉ còn loài cây thạch thảo, cây dương xỉ – phải đi xa hơn trăm mét mới đến cánh rừng rậm rạp”.
“Đây là khu di tích thời cổ”, Haydon nói, “cây khô lâu nay đã được trồng mới, nhìn bao quát tưởng đâu là khu rừng nguyên sinh – như trong thời kỳ người Phoencians đi khai phá. Hãy đi theo tôi”.
“Chúng tôi đi theo ông ta. Vừa thấy khu rừng một cảm giác kỳ lạ ập đến với tôi. Phải nói như lạc lối vô một vùng tĩnh lặng, cây cối um tùm không nghe thấy một tiếng chim hót. Một cảm giác ghê rợn và hoang vắng. Tôi nhìn lại thấy Haydon nhếch mép cười khó hiểu”.
“Ông thấy chỗ này ra sao, Pender?”Ô ta hỏi tôi. “Có gì lạ à? Hay là ông thấy khó chịu trong người?”
“Tôi không thích chỗ này”. Tôi lặng lẽ đáp.
“Đó là cảm giác của ông. Đây là cứ điểm của một bộ tộc thời trước nghịch với tín ngưỡng của ông. Nơi đây là khu rừng Nữ thần Astarte”.
“Nữ thần Astarte?”
“Astarte hay là Ishtar hoặc Ashtoreth, gọi theo cách nào cũng được. Tôi thích gọi tên Astarte như người Phoencian. Quanh vùng này có một khu rừng gọi là Grove of Astarte nằm về hướng Bắc của bức tường thành. Tuy chưa rõ nhưng tôi tin là đã có một khu rừng mang tên Grove of Astarte. Không đâu xa, ngay trong khu rừng này xưa kia là nơi tế lễ linh thiêng”.
“Tế lễ linh thiêng?” Diana Ashley nói khẽ, mắt nàng nhìn xa xôi. “Họ là ai vậy, tôi chưa hiểu”.
“Một bộ tộc không có tiếng tăm”. Đại úy Roger cười vang, nói bâng quơ.
Haydon chẳng màng để ý.
“Theo tôi có thể còn một ngôi đền ngự trị ngay giữa khu rừng”. Ông kể. “Tôi chưa vô tới ngôi đền, nhưng nghĩ là có nó!
“Cũng vừa lúc chúng tôi bước ra ngoài tới một nơi trống trải ngay giữa cánh rừng. Ngay nơi này có một cái chòi xây bằng đá. Diana Ashley ngơ ngác nhìn qua Haydon”.
“Tôi nghĩ nên gọi nó là Idol House”, ông ta nói “Đấy là ngôi đền Idol House of Astarte”.
“Ông ta đi vô trong. Bên trong phía trước mặt chúng tôi là một cây cột gỗ mun khắc chạm hình tượng ngươi đàn bà sừng nhọn, cưỡi sư tử”.
“Nữ Thần Astarte của người Phoenician”, ông Haydon vừa nói, “Nữ thần Mặt trăng”.
“Nữ thần Mặt trăng”. Diana kêu lên một tiếng. “Chà, đêm nay ta làm tiệc giữa rừng thử một bữa. Ta mặc đồ hóa trang. Tất cả cùng bước ra ngoài dạo dưới ánh trăng làm lễ tôn vinh nữ thần Astarte”.
“Bỗng tôi xoay người lại, nhanh chân, Elliot Haydon – người anh em họ với Richard – tiến lại gần chỗ tôi đứng”.
“Ông không thích mấy chỗ này hở Padre?” Anh ta hỏi.
“Không”. Tôi nói ra ngay. “Không thích”.
Anh ta ngơ ngác nhìn tôi. “Chuyện vớ vẩn. Dick làm sao biết đây là nơi chốn linh thiêng. Anh ta thích đùa thế thôi. Nhưng mà nếu quả thật…”
“Nếu quả thật thì sao…?”
“Vậy thì…” Anh ta cười gượng gạo. “Ông không tin có chuyện đó, phải không? Bởi ông là một người tu hành”.
“Tôi không chắc chuyện một người tu hành tin hay không chuyện này”.
“Nhưng mà chuyện thần thánh đó thì đã qua từ lâu”.
“Tôi cũng không biết ra sao”, tôi nói hờ. “Nhưng tôi biết một việc: tôi cảm thấy không hợp với không khí nơi này, lúc mới bước vào rừng, một cảm giác kinh dị và ma quái vây quanh tôi”.
“Anh ta liếc nhìn qua vai một cách khó chịu”.
“Ờ”, anh ta nói “Đấy, nó lạ kỳ lắm. Tôi hiểu ý ông muốn nói nhưng do chúng ta quá tưởng tượng đó thôi. Symonds, anh định nói gì vậy?”
Anh chàng bác sĩ ngẫm nghĩ một hồi mới lặng lẽ nói ra:
“Tôi không thích chỗ đó, nhưng tôi không biết tại sao. Thật tình tôi không thích lui tới những chỗ này”.
Cũng vừa lúc Viôlet Mannering chạy tới.
“Tôi không thích vô đây” nàng kêu lên “Tôi chán chỗ này, ta đi khỏi đây đi”.
“Chúng tôi rủ nhau bỏ đi ra chỉ mỗi nàng Diana Ashley còn nấn ná ở lại. Ngẩng đầu liếc nhìn qua vai, thấy nàng đứng đó tần ngần một hồi trước ngôi đền, ngắm nhìn say sưa hình tượng chạm khắc trên mặt đá”.
“Ngày hôm đó tôi có cảm giác nóng bức khác thường, nhưng là một ngày đẹp trời, Diana Ashley đề nghị mở hội hóa trang, tức thì mọi người hưởng ứng nhiệt liệt. Tiếng cười nói khúc khích lặng lẽ bên nhau lo may cho xong đồ hóa trang, đến khi mọi người ngồi vô bàn ăn nhìn nhau rồi cười rộ lên. Hai vợ chồng nhà Rogers giả trang người thời Đồ Đá Mới – không hiểu vì sao còn thiếu tấm thảm lót trước bếp sưởi. Richard Haydon trong bộ đồ thủy thủ người Phoencian, bên cạnh người anh em họ sắm vai tên cướp biển, bác sĩ Symond trong vai bếp trưởng, phu nhân Mannering làm cô y tá, cô con gái đóng vai kẻ nô lệ người Circassian, còn tôi trong vai một tu sĩ áo mũ trùm kín. Người đến sau cùng là Diana Ashley, mọi người cảm thấy không hài lòng vì nàng khoác trên người chiếc áo choàng đen kinh dị”.
“Tôi là kẻ vô danh”, nàng ung dung nói “Tôi muốn vậy. Nào chúng ta cùng ngồi vô bàn”.
“Sau bữa ăn bọn tôi ra ngoài. Không khí quang đãng mát dịu, chúng tôi ngắm nhìn trăng lên”.
“Chúng tôi đi dạo nói chuyện phiếm, thời gian trôi qua lúc nào không hay; vừa đi vừa trò chuyện nên thì giờ chóng qua. Mãi gần một tiếng đồng hồ chúng tôi phát hiện Diana Ashley không đi với chúng tôi”.
“Chắc chưa đi ngủ đâu”. Richard Haydon lên tiếng.
Violet Manering lắc đầu.
“Ồ, không”, cô nàng lên tiếng. “Tôi nhìn thấy cô ta đi về hướng này khoảng mười lăm phút”. Cô ta đưa tay chỉ về hướng cánh rừng um tùm, tối đen, dù trời có trăng.
“Giờ này mà bỏ đi đâu?” Richard Haydon nói “Cô ta định giở trò gì đây? Ta đi một vòng thử coi”.
“Mọi người cùng nhau đi, một phần vì hiếu kỳ muốn biết cô Ashley giở trò gì đây. Riêng tôi thì đang còn lưỡng lự chưa muốn tới chỗ khu rừng cây ma quái. Trong người tôi như có một sức mạnh vô hình muốn níu chân lại. Linh tính báo cho tôi biết chốn đó linh thiêng kỳ quái. Tôi nghĩ trong đầu mấy người kia cũng chẳng khác gì tôi, dù trong bụng không muốn nói ra. Khu rừng cây rậm rạp, ánh trăng không thể len lỏi xuyên qua đám lá để lọt xuống chút ánh sáng. Tai tôi nghe quanh đây những tiếng thì thầm than thở… Một cảm giác kỳ quái, liêu trai, như một phản xạ tự nhiên, không ai bảo ai bọn tôi xích lại nhau gần hơn!”
“Bỗng hiện ra phía trước mặt là một khoảnh đất sáng loáng, lọt thỏm giữa cánh rừng. Cả bọn kinh ngạc đứng nhìn sững sờ chưa biết gì, thì thấy một hình nhân sáng lung linh quấn băng bó sát người, trên đầu nhô lên hai chiếc sừng nhọn hoắt ngay phía trước thềm ngôi đền Idol House”.
“Lạy Chúa tôi!” Eichard Haydon nói, mồ hôi vã ra lấm tấm trước trán.
Nhưng Violet Mannering đã kịp định thần lại.
“Sao, chính là Diana!” Nàng kêu lên. “Cô định giở trò gì đây? Chao ôi, người sao mà khác đời”.
Hình tượng đứng trước cửa giơ tay lên vẫy chào, chân bước tới trước một bước, cất tiếng hát ngân vang.
“Ta là Nữ thần Astarte”, nàng ngân nga. “Coi chừng không được xích lại gần ta, bàn tay ta đẫm máu”.
“Thôi mà đừng làm vậy”. Phu nhân Mannering cất tiếng oán trách. “Cô đã làm cho cả bọn tôi sợ hãi”.
Haydon nhào tới trước.
“Lạy Chúa! Coi kìa Diana!” Ông ta kêu lên một tiếng. “Em thật lạ lùng”.
“Mắt tôi quen dần với ánh sáng trăng, tôi có thể nhìn rõ mọi thứ. Quả thật y như Violet nhận xét, nhìn cô ta lạ thường. Một gương mặt như được khắc họa. Nét huyền bí phương Đông, đôi mắt nàng để lộ ra những tia chớp độc địa, nụ cười lạ lẫm ngự trị trên môi. Lạ đến nỗi tôi như chưa từng nhìn thấy qua gương mặt này dù chỉ một lần”.
“Coi chừng…” Nàng thét lên một lời cảnh báo. “Không được xích lại gần nữ thần. Kẻ nào chạm vô mình ta kẻ đó sẽ chịu chết”.
“Em thật là tuyệt vời, Diana”. Haydon kêu lên. “Nhưng nói thật, tôi không thích em làm vậy đâu”.
“Ông ta bước về phía nàng, trên bãi cỏ. Nàng chỉ tay hướng về ông ta!”
“Đứng lại!” Nàng thét. “Bước lại gần, ta sẽ dụng phép tà của nữ thần Astarte trừng phạt mi”.
Richard Haydon cười phá ra, sấn tới trước, ngay tức thì một vật lạ xuất hiện. Ông ta ngần ngại chùn bước rồi toàn thân lảo đảo, ngã chúi xuống.
“Một hồi lâu, ông ta vẫn nằm sóng soài trên mặt đất”.
Bất chợt Diana cười rộ lên nghe thật man rợ, một âm thanh kỳ quái phá tan bầu không khí tĩnh lặng nơi chốn rừng thiêng.
Elliot quyết tử nhào tới.
“Ta không thể chùn bước”. Anh ta gào lên, “Dick, đứng lên! Anh đứng lên đi!”
“Richard Haydon không xê dịch một phân. Elliot bước tới gần bên quì xuống lấy tay nghiêng người qua, anh ta nghiêng người áp sát mặt nhìn cho rõ hơn”.
“Anh ta đứng ngay dậy, người đang còn đang run rẩy”.
“Bác sĩ…” Gã lên tiếng. “Bác sĩ… vì Chúa xin ông tới ngay đây. Tôi… tôi thấy anh ta đã chết”.
Symond vụt chạy tới, thấy vậy Elliot chậm rãi bước đến chỗ chúng tôi. Vừa bước đi, gã cúi nhìn xuống hai bàn tay với một vẻ kỳ lạ.
Chợt Diana rú lên nghe kinh rợn.
“Ta đã giết hắn!” Nàng kêu lên một tiếng. “Ôi, lạy Chúa! Ta không muốn nhưng ta phải giết hắn”.
Vừa hết câu nàng ngã nhào xuống đất người co rút lại trên bãi cỏ.
Bà Rogers than khóc.
“Hãy giúp chúng tôi thoát khỏi nơi địa ngục trần gian này”. Bà gào thét. “Chúng tôi liệu có bề gì không. Chao ôi, khiếp quá!”
Elliot bước tới níu lấy vai tôi.
“Làm sao như thế này được, ông ơi”. Gã thở hổn hển nói “Tôi muốn nói là không thể như vậy được. Ai nỡ giết một người vô tội. Phải nói là… là trái với đạo Trời”.
Tôi lựa lời nói cho anh ta nguôi ngoai.
“Tôi có thể giải thích được”, tôi nói “Anh của cậu có vấn đề bệnh tim nên lên cơn bất thường. Có thể do một cơn sốc hay vì ngây ngất…”
Anh ta cắt ngang giữa chừng.
“Ông chưa hiểu”, gã nói. Gã chìa bàn tay có một vệt đỏ. “Dick không phải chết do một cơn sốc, mà bị đâm một nhát… trúng ngay tim, nhưng không tìm thấy hung khí”.
Nghe nói tôi chưa vội tin. Cũng vừa lúc bác sĩ Symonds khám nghiệm xong tử thi trở lại chỗ cũ. Mặt mũi ông nhợt nhạt, người run rẩy.
“Chúng ta điên hết rồi hay sao?” Anh ta nói “Đây là đâu… chuyện gì xảy ra như thế này?”
“Nhưng sự thật là nó đã xảy ra”. Tôi nói.
Anh ta gật đầu.
“Vết thương trên người do một con dao cán dài phóng ra, nhưng nhìn lại… chẳng thấy dao đâu”.
Cả bọn chúng tôi nhìn nhau.
“Còn quanh đâu đây”. Elliot Haydon kêu lên. “Hung thủ chắc quăng gần đây thôi… đâu chừng trên bâi cỏ. đi quanh một vòng tìm thử coi”.
Nhìn quanh chẳng thấy đâu. Chợt Violet Mannering buột miệng nói:
“Trên tay hình như Diana nắm một vật gì đó. Như là con dao găm, tôi nhìn thấy một vật lóe sáng lên ngay khi cô ta cất tiếng cảnh giác”.
Elliot Haydon lắc đầu.
“Ông ta đứng xa chỗ cô ta không quá ba mét”. Gã cãi lại.
Phu nhân Mannering bước gần lại cúi người xuống nhìn.
“Trên tay cô ấy không thấy gì…” Phu nhân nói “… nhìn quanh bãi cỏ cũng không thấy. Violet, con nhìn thấy thật sao? Mẹ chẳng thấy gì”.
Bác sĩ Symonds chạy tới bên nạn nhân.
“Chúng ta hãy đưa cô ấy trở vô nhà”. Ông nói “Rogers, bà giúp tôi một tay đi nào”.
“Bọn tôi xúm lại đưa Diana trở vô nhà rồi quay trở ra xác ngài Richard”.
Ngài mục sư Pender xin phép được cắt ngang câu chuyện rồi ông nhìn quanh.
“Ở thời bây giờ chúng ta đã ta thông thạo hơn”, ông nói “Nhờ đọc truyện tiểu thuyết trinh thám. Ngay cả đứa trẻ cũng biết được chuyện phải giữ nguyên xác nạn nhân lại ngay tại hiện trường. Nhưng lúc đó chúng tôi không hiểu biết, bảo nhau xúm lại khiêng xác Richard. Haydon vô nhà, sai lão quản gia đạp xe chạy đi báo cho đồn cảnh sát – cách đấy khoảng mười hai cây số”.
Vừa lúc đó Elliot Haydon đẩy tôi qua một bên.
“Đến đấy”, gã nói “Tôi quay trở lại chỗ rừng cây. Phải tìm cho ra hung khí”.
“May ra thì còn”. Tôi buột miệng nói hờ.
Gã níu tay tôi giật giật. “Cậu lại nghĩ chuyện mê tín, anh tôi chết một cách lạ đời. Này, ta hãy đi trở ra chỗ rừng cây coi thử sao”.
“Tôi tò mò muốn biết hắn định làm gì. Tôi khuyên hắn không chịu nghe. Nghĩ tới lúc trở ra lại chỗ cánh rừng tôi cảm thấy ớn lạnh, linh tính báo cho biết gã sắp gặp chuyện tai ương. Elliot tính gàn dở. Hắn nhát gan nhưng làm như ta đây không sợ chết. Hắn muốn đi cho được để coi chuyện bí mật tới đâu”.
“Tôi còn nhớ cái đêm kinh hoàng, không ai chợp mắt được một chút chứ đừng nói muốn buồn ngủ. Lúc cảnh sát tới nơi nhìn thấy hiện trường khả nghi, muốn làm một cuộc khám nghiệm. Cô Ashley bảo chờ xin ý kiến bác sĩ Symonds, anh ta không chịu. Cô Ashley đã tỉnh lại, bác sĩ cho thêm một liều thuốc ngủ cực mạnh, tới sáng ngày mai mới tỉnh”.
Tới bảy giờ sáng hôm sau mọi người sực nhớ Elliot Haydon. Symonds quay qua hỏi gã bỏ đi đâu. Tôi kể mọi chuyện về Elliot, anh chàng Symonds nghe xong mặt mùi sa sầm. “Lẽ ra anh chàng không nên bỏ đi, liều – liều mạng thật!” Anh ta nói.
“Anh nghĩ là có gì nguy cho tính mạng anh ta hay sao?”
“Tôi hy vọng là không sao, Padre, tôi sẽ cùng với anh tới đó”.
“Anh ta đi trước, còn tôi thu hết can đảm cất bước đi theo. Chúng tôi lại ra đi đến chỗ rừng cây xúi quẩy hôm trước. Đến nơi bọn tôi gọi hai lần không nghe thấy Elliot lên tiếng. Thoáng chốc chúng tôi đã trở lại chỗ trảng đất trống, lờ mờ, u ám trong ánh sương mai, Symonds bấu chặt tay tôi khiến tôi phải kêu lên một tiếng. Mới tối hôm qua dưới ánh trăng chúng tôi đã nhìn thấy xác một người nằm úp mặt xuống bãi cỏ. Sáng sớm trở lại vẫn cảnh tượng đó, nhưng lại là xác Elliot Haydon nằm ngay chỗ người anh chết hôm qua?”
“Lạy Chúa tôi!” Symonds buột miệng nói “Anh ta cũng cùng chung một số phận”.
Bọn tôi chạy lại chỗ bãi cỏ. Elliot Haydon nằm bất tỉnh hơi thở thoi thóp, vật chứng gây ra vết thương còn ở trên ngực. Một thỏi kim loại đồng đỏ găm sâu vô vết thương.
“Nắm vai xoay người qua, đừng sờ vô chỗ trước ngực. Cũng còn may…” Anh chàng bác sĩ hướng dẫn. “Thiệt tình tôi không biết nên nói sao. Anh chàng chưa chết, ta hãy chờ nghe gã kể lại”.
Nhưng rồi gã chẳng nhớ được nhiều. Lời kể lại nghe rất mơ hồ. Gã hoài công cả đêm tìm kiếm con dao găm, nhưng đành bỏ cuộc ngay lúc vừa bước chân tiến gần tới bên ngôi đền Idol House, cũng là lúc gã giật mình nhìn thấy bóng người đứng rình ở bên bìa rừng. Gã muốn bỏ chạy nhưng không kịp nữa. Một luồng gió chướng vừa nổi lên, không phải gió của rừng, gió từ bên trong ngôi đền Idol House. Xoay người gã lại nhìn vô bên trong. Một khuôn mặt nhỏ bé của Nữ thần hiện lên, mắt gã muốn hoa cả lên. Khuôn mặt biến dạng phình to hơn mỗi lúc. Chợt gã cảm thấy một cú va đập hai bên thái dương, bước chân lảo đảo lùi lại, người ngã xuống, vừa lúc một cảm giác tê buốt ấn vô bên vai trái.
Con dao găm này nhìn giống như con dao tìm thấy trong lần khai quật đất trên đồi mà Richard Haydon mua lại được. Ông ta đem cất giấu một nơi trong nhà, hay bên trong ngôi đền Idol House, trong rừng cây, đến nay chưa ai rõ.
Cảnh sát cho rằng chính Ashley đã đâm chết. Theo chúng tôi chỗ nàng đứng cách nơi ông ta gần ba mét, thì không thể cho nàng là thủ phạm. Toàn bộ vụ việc còn trong vòng bí ẩn.
Mọi người lặng thinh.
“Tôi thấy không có gì đáng nói”. Joyee Lemprière lên tiếng. “Khiếp quá… lạ quá. Thưa ngài mục sư Pender, ngài có thể cho biết ý kiến”.
Ngài mục sư gật đầu. “Có chứ”, ông nói “Tôi có ý kiến thế này, nhưng ý kiến của riêng tôi nó có phần khác người. Theo tôi còn nhiều manh mối chưa tìm ra”.
“Tôi đã từng ngồi gọi hồn”. Joyce kể. “Các bạn nghĩ thế nào thì tùy, sẽ thấy được nhiều việc kỳ lạ chỉ có thể giải thích bằng phép thôi miên. Cô nàng kia đã hóa thân làm nữ thần Astarte, và không hiểu sao tôi thì cho là chính nàng đã đâm chết ông ta. Hay là nàng đã quăng con dao mà cô Mannering đã nhìn thấy”.
“Hay có thể đó là một cây thương”. Raymond West nói xen vô. “Lúc đó trăng đã mờ. Trên tay nàng thủ sẵn một ngọn giáo có thể đâm chết người từ một khoảng cách ở xa, và có thể suy diễn lúc đó mọi người như đang bị thôi miên. Ý tôi muốn nói là ông ta bị hạ gục do một sức mạnh vô hình”.
“Tôi đã được nhìn thấy nhiều vụ ly kỳ sử dụng dao hoặc các loại vũ khí ở nhà hát”. Ngài Henry kể: “Tôi đoán lúc đó một người đàn ông núp trong lùm cây từ đây hắn phóng một con dao và dao găm trúng vô người nạn nhân rất chính xác… Ta phải công nhận hắn là tay phóng dao nhà nghề. Nghe qua có phần suy diễn nhưng nghĩ lại không ngoài sức tưởng tượng của con người. Các bạn nên nhớ kẻ lạ kia lại tưởng đâu có người đang theo dõi đứng núp trong lùm cây. Và Mannering kể Ashley nắm trên tay một thứ vũ khí là con dao găm, người khác lại bảo thấy nàng hai tay không, theo tôi chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Nếu đặt trường hợp tôi các bạn sẽ nghĩ trong một lúc năm người trong cuộc cùng nhìn thấy một sự việc, chắc chắn lời kể của mỗi người cũng sẽ khác nhau, khó mà tin được”.
Ồng luật sư Petherick lại hỏi:
“Mãi lo kể chuyện chúng ta đã bỏ quên một manh mối chủ yếu”, ông nhắc lại. “Còn cái món vũ khí kia thì sao? Cô Ashley không thể buông ngọn dao rồi đứng sững ngay giữa trảng đất trống trải. Giả sử lúc đó một tên đứng núp trong bụi rậm rồi phóng dao thì tất nhiên mũi dao vẫn còn cắm sâu trên người nạn nhân. Tôi thấy phải loại bỏ những lập luận mơ hồ và phi lý để tìm ra đâu là manh mối cụ thể”.
“Manh mối cụ thể đưa ta đi tới đâu?”
“Tại đây, một bằng chứng cụ thể. Lúc nạn nhân ngã xuống đất không có ai ở gần, vậy ta có thể suy đoán gã tự đâm vô người. Một vụ tự sát, có thế thôi”.
“Quái lạ sao gã lại muốn tự sát nhỉ?” Raymond West chưa biết nên tin ai.
Ông luật sư lại húng hắng ho. “Chà, cậu lại rơi vô vòng lý thuyết lẩn quẩn nữa rồi”, ông nói “Lúc này tôi không muốn nói chuyện lý thuyết. Theo tôi thì loại trừ chuyện một sức mạnh vô hình gây ra cái chết cho nạn nhân thì chỉ có mỗi một cách giải thích sự việc như thế này. Nạn nhân tự đâm vô người lúc ngã xuống dang hai tay ra, con dao găm bị hất mạnh, văng vô trong bụi cây. Theo tôi thì có thể giải thích được dù xác suất có phần hiếm khi xảy ra”.
“Tôi chưa thể nói ra đây, đó là điều chắc chắn”, bà Marple nói, “tôi đang còn lúng túng. Bởi một việc lạ thế này. Năm trước tại một bữa tiệc ngoài sân vườn ở nhà phu nhân Sharpley, người phụ trách phân chia sân chơi golf bị sẩy chân lọt xuống lỗ. Y bất tỉnh nhân sự hết cả năm phút”.
“Vâng, thưa bà dì”, Raymond khiêm tốn nói “Nhưng gã không phải bị đâm chết, phải không?”
“Làm gì có chuyện đó, cháu ơi!” Bà Marple nói “Để dì kể cho cháu nghe, chỉ có một cách giải thích vì sao ngài Richard bị dâm chết, tôi biết nguyên nhân làm ông vấp ngã. Rõ ràng là chân ông vấp vô gốc cây. Lúc đó ông lo để mắt nhìn theo cô nàng, nhằm đêm trăng bước đi có thể bị hụt chân”.
“Bà Marple, ý bà muốn nói là chỉ có một nguyên nhân khiến ngài Richard bị đâm chết”. Ông mục sư nói đưa mắt nhìn theo.
“Một chuyện đau thương tôi không muốn nhắc lại. Anh ta thuận tay phải, đúng không? Tôi đoán có thể anh ta tự tay đâm vô vai bên trái. Nhớ lại tội nghiệp cho Jack Baynes trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Chắc ông còn nhớ chuyện người lính tự bắn vô chân sau một cuộc giao tranh ác liệt tại mặt trận diễn ra ở miền Bắc nước Pháp. Khi đến bệnh viện thăm, ông ta kể cho tôi nghe, ông cảm thấy nhục nhã vì việc làm đó. Về chuyện anh chàng Elliot, tôi muốn thấy gã chẳng được gì sau khi vụ án xảy ra”.
“Elliot Haydon”. Raymond kêu lên. “Dì cho là anh ta đã giết chết nạn nhân?”
“Theo tôi thấy không còn ai khác hơn”. Bà Marple nói, tròn xoe mắt có vẻ ngạc nhiên. “Tôi xin nói, theo như lời ông Petherick trình bày khá rõ, ta cần phải tìm ra manh mối loại bỏ chuyện thần thánh ngoại đạo ra. Gã bước tới chỗ nạn nhân, tay xoay người nạn nhân qua một bên, gã ngồi xuống, tư thế quay lưng về phía mọi người, nhờ lớp áo hóa trang làm một tên cướp, gã dễ lận theo trong lưng một món vũ khí. Tôi nhớ lại lúc còn con gái, trong một lễ hội hóa trang tôi có khiêu vũ với một anh chàng giả làm tướng cướp. Anh ta mang theo trong người năm thứ dao và một con dao găm, tôi thấy bất tiện và vướng víu khó chịu vô cùng khi phải nhảy cặp với anh ta”.
Mọi người quay nhìn về phía mục sư Pender.
“Tôi biết rõ đâu là sự thật”, ông nói “Năm năm sau kể từ khi câu chuyện đáng thương tâm kia xảy ra. Nội vụ được nhắc lại trong một bức thư Elliot Haydon gởi cho tôi. Gã thắc mắc không hiểu vì sao tôi nghi cho gã. Chỉ vì một sự thèm muốn bất chợt dâng trào lên trong người gã. Chính gã cũng muốn được yêu Diana Ashley, nhưng ngày đó gã đang là một chàng luật sư nghèo.
Nghe tin Richard sẽ được thừa hưởng chức tước và sản nghiệp, gã nhìn thấy ngay một cơ hội trước mắt. Lúc gã quỳ xuống ngồi bên xác người anh vạt áo vén lên khỏi lưng, mũi dao găm lòi ra ngoài, gã chưa kịp sửa lại, giấu vô lưng. Một lúc sau, gã tự tay đâm vô người nhằm đánh lạc hướng. Trước lúc lên đường làm một chuyến thám hiểm Bắc cực, gã viết thư cho tôi hay mọi sự việc để lỡ khi gã không trở về. Tôi thì cho là gã không về nữa đâu, tôi biết điều đó cũng như bà Marple cho là sau khi án mạng xảy ra gã chẳng được hưởng một món nào”.
“Ròng rã năm năm”, gã kể, “tôi như sống trong cảnh địa ngục trần gian. Tôi muốn được đền tội bằng cách được chết trong danh dự”.
Ông dừng lại giữa chừng.
“Tức là anh ta đã được chết trong danh dự”, ông Henry nói, “ông đã thay tên đổi họ nhân vật trong câu chuyện, thưa ngài mục sư, nhưng tôi biết họ là ai”.
“Như tôi đã kể”, ngài mục sư tiếp tục câu chuyện. “Tôi cho là trong câu chuyện này không hoàn toàn đúng với thực tế. Ở nơi chốn rừng thiêng kia còn lưu lại nhiều bí ẩn, tà ma đã xui khiến Elliot Haydon làm chuyện ác. Nhắc lại câu chuyện ngôi đền Astarte cho tới hôm nay tôi còn thấy rùng mình, ớn lạnh”.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.