80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới

Chương 3: Lễ hiến sinh



Hành khách tàu Mongolia lên bờ tại Bom-bay vào khoảng bốn giờ rưỡi chiều, và chuyến xe lửa đi Calcutta khởi hành vào đúng tám giờ.

Ông Fogg từ biệt những người bạn chơi bài, rời tàu, dặn kỹ người giúp việc về các món cần mua, rồi ông đi về phía văn phòng thị thực hộ chiếu.

Ông không màng tới việc đi thăm bất kỳ một kỳ quan nào của thành phố Bombay, cả Tòa Thị chính, Thư viện lẫn giáo đường. Không. Không nơi nào cả. Bước ra khỏi văn phòng, ông tới nhà ga và gọi bữa ăn tối.

Trong số các món ăn, người đầu bếp giới thiệu với ông món đặc sản ragu thỏ nấu rượu chát và Phileas Fogg đồng ý; Tuy nhiên mặc dầu có thêm nước sốt gia vị, ông vẫn thấy món ăn tồi quá.

Về phần Fix, ông ta chạy tới sở cảnh sát Bombay. Không hiểu người ta đã nhận được lệnh bắt từ Luân Đôn gởi tới chưa? Người ta không nhận được gì. Viên thám tử rất đỗi bối rối. Tin rằng Phileas Fogg đang lưu lại thành phố, ông quyết không để sẩy tên vô lại bí hiểm này.

Mua xong mấy chiếc sơ mi và vớ ngắn, Passepartout dạo bước trên các con đường của thành phố Bombay. Đúng vào ngày hôm đó, người ta cử hành lễ hội cacnavan theo truyền thống tôn giáo với những đám rước và những trò tiêu khiển trong đó xuất hiện các vũ nữ ấn Độ mặc vải the dệt hoa vàng và bạc, múa theo tiếng đàn violes.

Sau khi ngắm cảnh tượng đó, Passepartout thả bộ về phía nhà ga, khi đi qua ngôi đền Male-bar – Hill tôn nghiêm, anh nảy ý định vào thăm.

Tuy nhiên anh không biết hai điều: thứ nhất một số ngôi đền thuộc đạo Hindu cấm người theo đạo Cơ đốc không được vào, và tiếp theo là chính tín đồ cũng không được

vào đó nếu không bỏ giày dép ngoài cửa.

Bây giờ chàng trai đã vào đó, hoàn toàn ngu ngơ, và khi đang mải chiêm ngưỡng những đường nét trang trí rực rỡ của ngôi đền, bất ngờ anh bị.quật ngã nhào trên những tấm đá lát linh thiêng.

Ba nhà sư, ánh mắt đầy giận dữ, đang xông vào anh, lột phăng giày và vớ ngắn của anh, vừa đánh anh túi bụi vừa gào la ầm ĩ.

Chàng trai Pháp, vốn khỏe mạnh, vùng vẫy kịch liệt để thoát thân và chạy ào ra khỏi ngôi đền. Đến tám giờ kém năm, vài phút trước giờ xe lửa chạy, Passepartout tới nhà ga, đầu trần, chân trần, cái gói đựng các thứ vừa mua cũng mất tiêu trong cuộc ẩu đả.

Fix đang đứng đó, trên sân ga. Đi theo lão Fogg tới nhà ga, ông biết tên trộm của mình sắp rời Bombay. Tức thì ông quyết định đi theo hắn, nhưng giờ ông đang nghe Passepartout kể lại chuyến phiêu lưu của mình.

– Tôi mong điều đó sẽ không xảy ra với anh nữa. – Phileas Fogg chỉ nói có vậy và tìm chỗ ngồi trong toa. Chàng trai đáng thương, chân không, tiu nghỉu bước theo, không nói tiếng nào.

Còn Fix, ông đã đổi ý.

Mình ở lại, ông nhủ thầm. Đây là một vụ phạm pháp trên lãnh thổ ấn Độ…

Mình tóm được hắn rồi đây.

Đầu máy thét lên một hồi còi inh ỏi và đoàn xe lửa biến mất trong đêm tối.

Passepartout ngồi chung ngăn với ông chủ mình. Một nhân vật thứ ba ngồi ở góc đối diện.

Đó là thiếu tướng lữ đoàn trưởng, ngài Francis Cromarty, một trong những người bạn chơi bài của ông Fogg trong chuyến vượt biển từ Suez tới Bombay, ông đang trở về với đoàn quân của mình đóng gần Bénarès. Phileas Fogg không giấu ngài Cromarty về kế hoạch du lịch vòng quanh thế giới của mình. Ngài Cromarty chỉ thấy trong vụ đánh cuộc này một sự ngông cuồng sẽ chẳng đi tới đâu.

Một giờ sau khi rời Bombay, qua khỏi những cây cầu cạn, xe lửa băng qua đảo Salcette, chạy trên lục địa và chui vào những dãy núi bazan với những đỉnh cao phủ đầy tuyết.

Vào buổi trưa, xe lửa dừng tại Burhampour, Passepartout mua được một đôi giày hàm ếch có gắn hột trai với giá đắt và anh lấy làm hãnh diện khi mang chúng.

Giờ đây khi xe lửa xả hết tốc lực chạy xuyên qua ấn Độ, trong đầu chàng trai đã có sự thay đổi hoàn toàn. Bản tính phiêu lưu của những năm tháng trẻ tuổi nhanh chóng trở về, và anh bắt đầu tin rằng vụ đánh cuộc của ông chủ anh là thật. Cho nên anh lo lắng với những sự chậm trễ.có thể xảy ra và tính đi tính lại những ngày đã trôi qua đồng thời qui lỗi cho chiếc xe lửa chạy chậm rì. Vào buổi chiều, xe lửa chạy vào các đường đèo trên dãy núi Sutpour.

Tám giờ sáng ngày hôm sau, 22 tháng mười, xe lửa bất thần dừng lại giữa một cánh rừng thưa, ven rừng có vài căn nhà gỗ rộng hiên và những túp lều lụp xụp.

– Đề nghị tất cả hành khách xuống xe! -Người cầm lái hét to.

Phileas Fogg nhìn ngài Francis tỏ vẻ ngỡ ngàng không hiểu tại sao xe lửa bỗng dừng lại.

Sau khi nắm được tình hình, Passepartout nói:

– Thưa ngài, đường sắt tới đây là hết rồi. Xe lửa không tiếp tục chạy được nữa.

– Sao?

– Đường chưa làm xong. Nó sẽ tiếp tục khoảng năm mươi dặm nữa.

– Nhưng báo chí đã loan tin là con đường đã được mở hoàn toàn rồi cơ mà. – Thiếu tướng lữ đoàn trưởng nói.

– Các ông bán vé từ Bombay tới Calcutta à?

– ông Fogg hỏi người cầm lái.

– Đương nhiên rồi. – ông này đáp lại. -Nhưng mọi hành khách đều biết rằng họ phải tự lo liệu để được chuyển từ đây tới Allahabad.

Ngài Francis Cromarty nổi giận. Passepartout thì sẵn sàng nện chết người cầm lái bất lực. Anh không dám nhìn ông chủ.

– Ngài Francis, – ông Fogg bình tĩnh nói, -nếu ngài đồng ý, chúng ta sẽ tìm ra một cách nào đó để tới Allahabad.

– ông Fogg, sự chậm trễ này có hại cho quyền lợi của ông…

– ồ, tôi biết một trở ngại nào đó sớm hay muộn gì cũng nảy sinh trên đường đi của tôi.

Vậy mà không có gì tổn hại cả. Tôi dư được hai ngày. Có một chiếc tàu rời Calcutta để đi Hong – Kong vào trưa ngày 25. Chúng ta sẽ tới Calcutta kịp thôi.

Không có gì phải bàn với một câu trả lời có một sự tin chắc như vậy. Hầu hết hành khách đều biết đoạn đường đứt quãng này, họ chiếm lấy những phương tiện chuyên chở mà địa phương sẵn có: xe bò, cáng, ngựa giống nhỏ v.v…

Passepartout khám phá ra một điều.

– Thưa ông, – anh nói, – tôi nghĩ mình đã tìm ra một phương tiện chuyên chở. – Phương tiện gì?

– Một con voi. Nó thuộc về một người ấn Độ ở cách đây một trăm bước.

– Chúng ta hãy đến xem nó đi. – ông Fogg đáp.

Năm phút sau, ba người hành khách của chúng ta tới một căn lều nằm sát bên một vuông đất vây kín bằng những hàng rào cao, trong đó có một con voi. Kiouni, tên con vật, có thể đi nhanh trong suốt một thời gian dài, và Phileas Fogg quyết định sử dụng nó, nhưng người chủ ấn Độ dứt khoát từ chối.

Fogg cố nài và đề nghị một giá tiền thuê khổng lồ, mười đồng bảng mỗi giờ. Từ chối. Hai chục đồng bảng? Vẫn từ chối. Giá cứ tiếp tục tăng nhưng người đàn ông không dễ bị cám dỗ bởi tại ấn Độ voi rất hiếm.

Bấy giờ Phileas Fogg đề nghị với người chủ là ông sẽ mua con vật của hắn với một món tiền lớn. Chỉ cần tới giá hai ngàn bảng, người ấn Độ đã xiêu lòng.

Vụ việc kết thúc, vấn đề là tìm ra một người dẫn đường. Một người Pac-xi trẻ tuổi, mặt mày có vẻ thông minh, tới xin việc. ông Fogg hứa với anh một món tiền thù lao hậu hĩ, có thể làm tăng trí thông minh của anh gấp bội. Con voi được trang bị không chút chậm trễ. Anh chàng Pac-xi biết rõ nghề quản tượng của mình. Anh phủ một tấm vải lên lưng voi và bố trí hai chiếc ghế yên không mấy tiện nghi ở hai bên cạnh sườn.

Ngài Francis ngồi trong một chiếc, và Phileas Fogg trong chiếc kia. Passepartout ngồi trên tấm vải phủ bỏ thõng hai chân hai bên, còn anh chàng Pac-xi ngồi ngất nghểu trên cổ con voi. Lương thực chất trong một cái túi lớn. Vào lúc chín giờ, đoàn người và vật tiến sâu vào rừng cọ dày đặc.

Anh chàng người Pac-xi, vốn rất quen với vùng này, cho rằng sẽ được lợi hai chục ngàn dặm khi đi đường tắt qua rừng, và mọi người phó thác vào anh.

Phileas Fogg và ngài Francis ngồi khuất tới cổ trong chiếc ghế yên của họ, họ bị lắc mạnh bởi bước chân voi đi mau, nhưng họ chấp nhận với vẻ phớt tỉnh †ng lê không ai bì kịp. Còn Passepartout, khi thì anh phóng tới trước khi thì anh ngả người ra sau trên mông voi, anh lướt tới lướt lui như một anh hề trên tấm ván nhún.

Tám giờ tối, hành khách dừng lại dưới triền dốc phía bắc của dãy Vindhias trong một ngôi.nhà gỗ đã đổ nát. Họ đã đi được nửa đoạn đường.

Đêm lạnh giá. Anh chàng người Pac-xi nhóm một đống lửa và hành khách ăn tối với những thức ăn trữ sẵn, rồi tất cả lặng im.

Khi mọi người ngủ, chỉ có người dẫn đường thức bên con voi.

Hôm sau người ta lại lên đường vào sáng sớm. Kiouni đã tìm lại được dáng đi nhanh nhẹn.

Vào khoảng trưa, người ta dừng lại dưới bóng một cây chuối và khen trái của nó hết lời. Người dẫn đường tránh những thôn xóm và khi chuyến đi chừng như sắp hoàn tất, tốt đẹp thì bỗng đâu con voi tỏ vài dấu hiệu lo ngại và bất thần đứng lại.

Anh chàng người Pac-xi cột voi lại, đi sâu vào rừng cây phát.

Khi xuất hiện trở lại, anh nói:

– Một đám rước của người Bà-la-môn đang đi về phía này. Nếu được, chúng ta hãy tránh đừng để ai trông thấy.

Anh dẫn con voi vào khuất sau các lùm cây và dặn dò khách đừng đặt chân xuống đất. Cành lá đan dày sẽ giấu kín họ. Những điệu hát đơn điệu hòa lẫn với tiếng trống và tiếng chũm chọe vọng tới gần. Sau đó, phần đầu đám rước xuất hiện cách chừng năm mươi bước. ở hàng đầu, các giáo sĩ đang bước tới, họ đội mũ lễ và áo thụng lòe loẹt. Họ được vây quanh bởi đàn ông, đàn bà và trẻ con đang ê a đọc một bài kinh ảo não. Sau họ, trên một chiếc xe tang người ta thấy một pho tượng gớm ghiếc được hai cặp bò u phủ kín kéo đi. Pho tượng có bốn cánh tay, thân hình màu đỏ sẫm, lưỡi lè dài.

Cổ đeo một cái vòng kết bằng những chiếc đầu lâu, thắt lưng đeo một dây nịt kết bằng những bàn tay bị chặt đứt. Nó đứng trên một người khổng lồ bị quật ngã, không có đầu.

– Nữ thần Kali. – Ngài Francis Cromarty thì thầm.

Quanh pho tượng một nhóm thầy tu khổ hạnh đang cựa quậy rối rít người họ đầy những vết rạch há miệng. Sau chiếc xe tang, nhiều người Bà-la-môn đang lôi theo một người phụ nữ da trắng trẻ tuổi. Nàng mặc một chiếc áo muxơlin dài dệt kim tuyến, người nàng phủ đầy những món nữ trang lộng lẫy. Bước theo sau người phụ nữ trẻ tuổi đó là những vệ sĩ, võ trang bằng kiếm trần và súng ngắn nòng dài, đang khiêng một cái.cáng trên đó có thi thể một ông già ăn mặc sang trọng.

Nhạc công và một toán hậu tập gồm những kẻ cuồng tín khép lại sau đoàn người.

– Một lễ xu ti! – Ngài Francis nói.

– Lễ xu ti là gì? – Phileas Fogg hỏi khi đám rước đã đi qua.

– Lễ xu ti, thưa ông Fogg, là một lễ tế bằng người. – Thiếu tướng lữ đoàn trưởng nói. – Người phụ nữ mà ông vừa trông thấy sẽ bị thiêu sống vào sáng sớm ngày mai.

– Còn thi thể kia? – ông Fogg hỏi.

– Đó là thi thể của ông hoàng thân, chồng nàng, một vương hầu, – người hướng dẫn đáp.

– Nhưng người ta đưa nàng tới đâu?

– Tới đền Pillaji, cách đây hai dặm. Tại đó nàng sẽ qua đêm trong khi đợi giờ hiến sinh.

Khi sắp sửa lên đường, ông Fogg chợt kéo người dẫn đường lại và nói với ngài

Francis Cromarty:

– Giá như chúng ta cứu được người phụ nữ đó. Tôi hãy còn được lợi mười hai tiếng cơ mà.

– Này, ông quả là một con người từ tâm!

– Đôi khi thôi. – Phileas Fogg đáp. – Khi tôi có thì giờ.

Ý đồ táo tạo, đầy khó khăn, nhưng ông Fogg không ngần ngại. Vả chăng ông tìm thấy ở thiếu tướng lữ đoàn trưởng một phụ tá quyết đoán. Về phần Passepartout, ý tưởng của ông chủ làm anh hứng khởi. Anh bắt đầu yêu thích Phileas Fogg.

Còn lại người dẫn đường.

– Tôi là người Pac-xi, – anh nói, – và người đàn bà đó cũng là người Pac-xi. Xin hãy tùy nghi sai bảo tôi. Các ông cũng nên biết là chúng ta đang liều hi sinh tính mạng của chúng ta đó.

– Chúng tôi biết điều đó. – ông Fogg đáp.

– Chúng ta hãy đợi đêm về rồi hẵng hành động.

Bấy giờ chàng trai trung hậu người ấn Độ cho biết vài chi tiết về nạn nhân. Đó là một người phụ nữ ấn Độ đẹp nổi tiếng, con gái của đôi vợ chồng thương gia giàu có, đã nhận được một nền giáo dục hoàn toàn của người Anh.

Nàng tên là Aouda. Thân côi cút, nàng đã phải miễn cưỡng kết hôn với lão vương hầu đó. Khi trở nên góa bụa, nàng đã toan thoát thân, nhưng gia đình của lão vương hầu đã bắt nàng lại và đẩy nàng tới chỗ chết..Ngay khi trời nhá nhem, họ cất bước tiến về phía ngôi đền Pillaji. Bỏ lại con voi trong đám cây, bốn người đàn ông bò về phía giàn thiêu bằng cây đàn hương thơm ngát. Thi thể của lão vương hầu đặt trên cùng. Trên mặt đất, từng nhóm người nằm ngủ la liệt, uể oải, vì say thuốc phiện. ở vị trí sau của ngôi đền sừng sững, mọi cửa nẻo đều được canh chừng cẩn mật. Phá cửa vào là điều không thể.

Họ thỏa thuận chờ. Vào lúc nửa đêm, tình hình vẫn không thay đổi. Bấy giờ người dẫn đường đề nghị đi đường vòng để tới ngôi đền bằng một tiền sảnh gian giữa của nó. Phía đó không có sự canh chừng nào, hơn nữa những bức tường ở phía đó lại làm bằng một hỗn hợp gạch và gỗ khoét thủng không khó lắm.

Họ bắt đầu công việc bằng những con dao bỏ túi. Chẳng may, một tiếng kêu thét vang lên từ bên trong ngôi đền và vài giây sau, đám vệ sĩ xuất hiện nơi tiền sảnh của gian giữa ngôi đền và ở lại đó.

Những người bạn của chúng ta kịp thời ngồi thu mình dưới lùm cây.

Giờ khắc cứ trôi qua và chẳng bao lâu đã báo hiệu bình minh. Có một sự chuyển động trong đám đông đang thiu thiu ngủ. Tiếng trống vang dậy, tiếng hát và tiếng thét lại vỡ ra. Những cánh cửa ngôi đền mở toang, ông Fogg và ngài Francis Cromary có thể trông thấy nạn nhân đang bị hai ông thầy tu lôi ra ngoài.

Nắm tay Phileas Fogg, ngài Francis Cromarty cảm thấy bàn tay đó đang cầm một con dao đã mở sẵn.

Bấy giờ đoàn người đi theo đám rước rầm rập tiến bước. Những người bạn của chúng ta trà trộn vào những hàng cuối của đám đông, và bước theo.

Trong bóng tối lờ mờ, họ thấy nạn nhân nằm dài bất động bên cạnh xác chồng. Rồi một bó đuốc được đưa tới gần, gỗ tẩm dầu bốc cháy ngay. Vừa lúc Phileas muốn xông lên thì cảnh tượng bất ngờ thay đổi.

Một tiếng thét kinh hoàng vang lên. Thất kinh hồn vía, đám đông nhào xuống đất. Chẳng lẽ lão vương hầu chưa chết hay sao? Người ta thấy lão đứng thẳng dậy, nâng người phụ nữ trên đôi tay và bước xuống khỏi giàn hỏa giữa những luồng khói xoáy lên cuồn cuộn. Đám đông, mặt úp xuống đất, không dám ngước mắt lên trước.điều kỳ diệu đó, ông Fogg và ngài Francis Cromarty đã đứng dậy, sững sờ.

– Chúng ta hãy chuồn nhanh thôi. – Một giọng nói hối hả kêu lên.

Chính Passepartout là người đã lướt vào giàn hỏa và lợi dụng lúc bóng tối còn dày đặc, anh đã cướp người thiếu phụ khỏi tay thần chết.

Chập sau, cả bốn người biến mất vào rừng và con voi ráng sức đưa họ đi thật nhanh.

Nhưng tiếng gào thét của đám đông, khi đã khám phá ra mưu mẹo, vẫn đuổi theo họ.

Quả nhiên trên giàn hỏa đang bốc cháy nổi bật lên thi thể của lão vương hầu. Đám đông lao vào rừng, nhưng chẳng mấy chốc những kẻ bắt cóc đã ở ngoài tầm của lằn tên mũi đạn.

Ngài Francis Cromarty siết chặt tay anh chàng Passepartout táo tợn. ông chủ của anh đã nói với anh: “Được lắm”, điều đó được nói ra từ con người hào hoa phong nhã này tương đương với một lời khen đáng giá. Chàng trai gan dạ cười và lấy làm hạnh phúc với sự thành công của mình. Còn người phụ nữ ấn Độ trẻ tuổi, nàng không biết gì về mọi việc xảy ra. Trùm kín trong những lớp chăn, nàng vẫn còn đang mệt lả.

Vào khoảng mười giờ sáng, cuối cùng khách cũng tới Allahabad. Passepartout được giao trách nhiệm đi mua mấy món trang sức linh tinh cho người phụ nữ trẻ tuổi, một chiếc áo dài, một chiếc áo khoác, điều không phải dễ tìm trong một thị trấn nhỏ như thế này.

Bà Aouda bắt đầu tỉnh lại và đôi mắt của bà đã lấy lại sức sống. Xe lửa sắp sửa rời ga xép.

Ông Fogg thanh toán tiền công cho anh chàng người Pac-xi. Vấn đề còn lại là Kiouni. Làm gì đây với một con voi mua quá đắt?

– Pac-xi, – ông Fogg nói với người dẫn đường, – cậu rất ân cần và tận tụy. Cậu có ưng con voi này không? Nó thuộc về cậu đấy.

Đôi mắt người dẫn đường sáng lên.

– Ngài cho tôi cả một tài sản. – Anh nói.

– Cậu cứ nhận đi, chính tôi vẫn là người chịu ơn cậu mà.

– Hay quá! – Passepartout kêu lên. – Anh hãy nhận đi!

Hết sức mãn nguyện, anh chàng người Pac-xi rời bước cùng với con vật.

Chẳng bao lâu sau đó Phileas Fogg, ngài Francis Cromarty và Passepartout đã ngồi trong.một toa xe lửa đầy tiện nghi nơi bà Aouda được dành cho chỗ tốt nhất, và họ biến nhanh về hướng Bénarès.

Bà Aouda hết lời cám ơn những vị cứu tinh bằng một thứ tiếng Anh tuyệt vời, và khi nhớ lại những cảnh tượng của lễ xu ti bà không khỏi rùng mình kinh hãi.

Để bà được yên tâm, ông Fogg đề nghị đưa bà tới Hong Kong. ở đó bà sẽ được yên ổn hoàn toàn. Thiếu phụ trẻ chấp nhận với lòng biết ơn.

Bà cũng có một người bà con đang ngụ tại Hong Kong, một trong những thương gia thành đạt nhất của thành phố này.

Mười hai giờ rưỡi trưa, xe lửa dừng tại nhà ga Bénarès.

Họ tới Calcutta vào bảy giờ sáng. Tàu khách đi Hong Kong chỉ nhổ neo vào buổi trưa. Phileas Fogg phải tới thủ đô ấn Độ vào ngày 25 tháng mười, và ông đã tới đó đúng vào ngày ấn định. Không trễ cũng không sớm hơn. Hai ngày được lợi giữa Luân Đôn và Bom-bay đã mất, hẳn chúng ta đã biết vì sao rồi, nhưng dường như con người hào hoa phong nhã đó chẳng chút tiếc rẻ điều đó.

Ông Fogg giúp người bạn gái cùng đi với mình bước xuống sân ga. ông định đi thẳng tới con tàu khách để đưa bà Aouda lên đó cho thật thoải mái và an toàn, nhưng lúc bước ra khỏi nhà ga, một viên cảnh sát tới bên ông và hỏi:

– ông là Phileas Fogg?

– Phải, tôi đây.

– Người này giúp việc cho ông à? – Viên cảnh sát tiếp lời và chỉ Passepartout.

– Đúng.

– Cả hai ông hãy theo tôi.

– Người phụ nữ trẻ này có thể cùng đi với chúng tôi không? – Người Anh giản dị hỏi.

– Có thể. – Viên cảnh sát đáp.

Anh ta đưa ông Fogg, bà Aouda và Passepar-tout tới một cỗ xe được đóng vào hai con ngựa và mọi người lên đường.

“Tù nhân” được đưa tới trước một ngôi nhà có những cửa sổ lắp lưới sắt, rồi người ta nhốt họ vào một gian phòng.

Tới tám giờ rưỡi, cửa mở và viên cảnh sát đưa tù nhân vào phòng xử án nơi quần chúng đông đảo đã ngồi kín. Quan tòa, một người đàn ông mập mạp, tròn trịa, tên là Obadiah, bước.vào gần như ngay sau đó, theo chân ông là viên lục sự. ông chụp một bộ tóc giả móc ở một cây đinh và đội ngay lên đầu.

– Vụ kiện thứ nhất… – Quan tòa nói.

– Phileas Fogg đâu? – Viên lục sự lên tiếng hỏi.

– Tôi đây. – ông Fogg đáp.

– Passepartout?

– Có mặt! – Chàng trai đáp.

– Tốt. – Quan tòa Obadiah nói. – Các bị cáo, vậy là đã hai ngày nay, người ta rình rập các người trên tất cả các chuyến xe lửa.

“Hãy cho bên nguyên vào.” – ông ra lệnh.

Ba ông thầy tu ấn Độ được một viên thừa phát lại đưa vào.

Viên lục sự đọc to một đơn khiếu nại về tội phạm thánh chống lại ông Fogg và người giúp việc của ông, bị cáo bị buộc tội đã xâm phạm một nơi chốn thiêng liêng.

– Anh đã nghe rồi chứ? – Quan tòa hỏi Phileas Fogg.

– Đã, thưa ông. – Người Anh đáp. – Tôi xin nhận tội.

– Còn anh, anh có nhận tội không?

– Tôi xin nhận tội và tôi đợi tới lượt ba ông thầy tu kia cũng nhận tội về tất cả những gì họ muốn làm tại đền Pillaji. Trước đền họ đã sắp sửa thiêu sống nạn nhân của họ. – Passepartout kêu lên.

Ba thầy tu nhìn nhau sững sờ. Vị quan tòa không giấu vẻ kinh ngạc.

– Nạn nhân nào? – ông hỏi. – Đó là ngôi đền Malebar – Hill mà.

– Đây là đôi giày, tang vật của kẻ báng bổ thánh thần. – Viên lục sự tiếp lời và trưng ra một đôi giày.

– Đôi giày của tôi! – Passepartout kêu lên.

Người ta nhận ra sự lầm lẫn. ông Fogg và người giúp việc của ông đã quên mất chuyện rắc rối tại đền ở Bombay.

Nhưng, quan tòa chấp nhận tội của Passepar-tout trong khi anh chàng sẵn sàng mất tất cả những gì mình đang có để rút lại những lời khinh suất của mình.

– Xét theo luật pháp nước Anh muốn bảo vệ tất cả mọi tôn giáo của ấn Độ, – quan tòa công bố, – tội trạng đã được nhận, bị can Passepartout bị kết án mười lăm ngày tù và phải nộp một món tiền phạt ba trăm bảng..- Ba trăm bảng? – Chàng trai kêu lên.

– Im lặng! – Viên lục sự nói.

– Và, – quan tòa nói thêm, – xét rằng người chủ phải chịu trách nhiệm về việc làm và cử chỉ của người làm mướn, tôi giữ ông Phileas Fogg lại và kết án ông tám ngày tù và phải nộp năm mươi bảng tiền phạt. Lục sự đâu, hãy gọi vụ khác.

Phileas Fogg thậm chí không cau mày. ông đứng dậy và nói:

– Tôi xin đóng tiền bảo lãnh.

– Đó là quyền của ông, – quan tòa đáp và quyết định số tiền bảo lãnh của mỗi bị can là một ngàn bảng.

Con người hào hoa phong nhã đó đã trả món tiền mà không nói tiếng nào.

– Số tiền này sẽ được hoàn lại cho ông. Trong khi chờ đợi, ông được bảo đảm tại ngoại. – Quan tòa nói.

– Nhưng ít ra họ cũng phải trả lại đôi giày cho tôi chớ. – Passepartout tức giận kêu lên.

Bộ dạng thảm hại, Passepartout lê bước theo ông Fogg đang đưa tay đỡ người phụ nữ trẻ. Cả ba bước lên một chiếc xe. Fix vẫn bám sát theo sau. ông ta vẫn nuôi hi vọng tên trộm của mình sẽ không bao giờ chịu buông ra món tiền lớn nhưng đã phải thất vọng ghê gớm. ông ta thấy ông Fogg bước xuống một chiếc xuồng. Bấy giờ đã mười một giờ.

– Tên vô lại! – Viên thám tử kêu lên, – Hoang phí như một tên trộm! A, mình sẽ bám gót nó tới cùng trời cuối đất nếu cần, nhưng cứ theo cái đà này món tiền lấy trộm cũng bay hết thôi..


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.