Thôi Miên Nhìn Từ Góc Độ Tâm Lý Học

Chương 7. KHÉO ỨNG DỤNG THUẬT THÔI MIÊN



I. TÙY NGƯỜI – TÙY LÚC – TÙY NƠI

Học thuật thôi miên chủ yếu là để ứng dụng. Bất kỳ học thuật nào nếu đánh mất khả năng ứng dụng sẽ không tồn tại được. Ví dụ có những pháp môn học thuật quá phức tạp, quá thâm ảo không thể phổ cập v.v… đều được “nhân gian hóa” bằng cách làm cho đơn giản, dễ tiếp nhận, dễ sử dụng hơn.

Chúc do thuật đã bị mai một vì con người hiện đại không thể chấp nhận và cũng không học được. Y niệm thuật thì được thay thế bằng các phương pháp đơn giản hơn. Hiện nay thế giới đang chuộng dùng ám thị thuật và thuật thôi miên vào y học trị liệu. Chúng là những học thuật mang tính khoa học, có tính ứng dụng cao, vì thế ở đây chúng tôi chủ yếu nói về việc ứng dụng.

Khi ứng dụng, chúng ta phải chú ý đến đối tượng, thời gian, địa điểm. Đây là những điều kiện căn bản nhất để ứng dụng có hiệu quả. Nếu chọn không hợp người, hợp thời, hợp nơi chốn thì dù nhà thôi miên có cao minh đến đâu cũng không phát huy được sở trường.

Ám thị thuật và thuật thôi miên chủ yếu sử dụng ám thị vì thế yêu cầu các nhà ám thị phải hiểu sâu sắc và nắm vững quy luật ám thị.

Con người sống trong môi trường nhiều hạn thế và luôn biến hóa, mà biến hóa quan trọng nhất là về thời gian, địa điểm và cả bản thân con người, nếu ám thị không phù hợp với các yếu tố ấy thì không thành công được.

1. Tùy thời

Giám đốc Lý chuyên quyền độc đoán. Khi công ty bị thua lỗ nghiêm trọng, điều kỳ lạ là không ai trong công ty nghĩ đó là lỗi của giám đốc mà cho rằng lỗi của nhân viên, của thị trường tiêu thụ.

Phân tích tỉ mỉ cách làm việc của Giám đốc Lý, phát hiện được rằng: Giám đốc sử dụng phương thức hội nghị công khai để làm cho phe đối lập phục tùng.

Trước khi có quyết sách quan trọng nào, ông tự hoạch định kế hoạch nhưng không vội thực hiện mà nói rằng cần phải thương nghị với mọi người, thực chất là ông mượn hội nghị để hóa giải các ý kiến trái chiều. Trước hội nghị, ông nói chuyện riêng với những người thân tín và những người nhẹ dạ cả tin để họ đứng về phía ông. Vì thế, trong hội nghị, dù phía đối lập có phản đối quyết hệt thế nào cũng bị thua, vì người ủng hộ ông vẫn đông hơn.

Đó là phương pháp “không đánh vẫn thắng”. Khi ông tranh thủ nói chuyện trước với ai, người đó sẽ hiểu rằng “mình là người được giám đốc tin tưởng nhất”. Đấy là họ đã bị ông ám thị. Hơn nữa, trong hội nghị “dân chủ” của toàn công ty, ông cũng khéo léo tiếp thu ý kiến trái chiều, hứa bổ sung vào quyết sách, vì thế phe đối lập cũng cảm thấy mãn nguyện. Và khi công ty bị thua lỗ, trách nhiệm dĩ nhiên là chia đều cho mọi người, giám đốc nào có tội tình chi.

Ông là người nắm được thời cơ, hiểu rõ lúc nào nên tung ra tín hiệu ám thị, vì thế, ông thành công.

2. Tùy nơi (địa điểm)

Khi ở những địa điểm khác nhau, phải chọn cách thức ám thị khác nhau. Ví dụ, bạn muốn nhờ người giúp đỡ thì gặp ở công ty khó nói chuyện hơn ở nhà. Ở nhà riêng bao giờ cũng tạo cảm giác thân tình hơn. Đấy là phải chọn địa điểm thích hợp.

Anh Triệu bị phạm tội buôn bán vật tư trái phép, tự tiện lấy vật tư của công ty bán ra thị trường, không thông qua lãnh đạo. Sự việc bị phát hiện, anh bị kỷ luật.

Ngày hôm sau, anh tìm đến nhà lãnh đạo, không mang theo bất kỳ lễ vật nào, thẳng thắn thừa nhận mọi sai trái, tự nhận hết trách nhiệm về mình, nhưng cuối cùng anh nói:

– Sở dĩ tôi làm vậy là vì lúc ấy công ty đang gặp khó khăn trầm trọng, vật tư không thể bán ra theo giá đã quy định từ hai năm trước, vì như thế sẽ phải bù lỗ do đồng tiền trượt giá. Công nhân đã ba tháng không có lương, họ không thể sống được nữa, tôi đành phải tự tiện bán vật tư cho tư nhân để lấy tiền trả nợ lương cho công nhân. Dù sao chúng tôi cũng phải sống, vì thế đấy là việc làm bất đắc dĩ, nhưng tôi không trốn trách tránh nhiệm.

Anh Triệu làm như vậy dĩ nhiên là lãnh đạo thông cảm với anh. Sau đó kỷ luật của anh được xem xét lại, không những anh được vô tội mà lãnh đạo còn nghiên cứu những ý kiến của anh trong việc thay đổi chính sách của công ty. Đó là anh Triệu đã khéo chọn địa điểm để khơi gợi lòng cảm thông của lãnh đạo.

3. Tùy người

Từ góc độ thuật thôi miên, với đối tượng có trình độ, chúng ta phải dùng phương pháp trình bày, giải thích một cách chân thực, có khoa học họ mới đồng ý hợp tác, thôi miên mới thu được kết quả cao.

Ngược lại, với người tin vào quỷ thần phải mượn chuyện quỷ thần mới dễ thôi miên được họ.

Đấy là tùy người mà chọn cách thôi miên khác nhau.

Phân xưởng trưởng Trương là người tài năng, minh tuệ, không sợ quyền thế. Từ ngày anh làm phân xưởng trưởng, năng suất làm việc của phân xưởng nâng lên rõ rệt. Phân xưởng này không có người làm phó nên nhiều người có năng lực muốn làm phân xưởng phó, thế nhưng bốn năm rồi vị trí ấy vẫn còn trống. Khi ấy, có một kỹ sư trẻ được điều về phân xưởng, chưa đầy một năm sau thì được đưa lên làm phân xưởng phó. Mọi người tưởng rằng anh ta nhờ quan hệ với ai đó trên bộ phận lãnh đạo nên sớm được thăng tiến.

Kỳ thật anh kỹ sư này rất có năng lực, là người mà lãnh đạo đã nhắm sẵn vào vị trí phân xưởng phó từ lâu nhưng anh ấy không chịu, nói phải vào phân xưởng làm việc một thời gian rồi mới quyết định. Cũng có nghĩa là anh muốn chính phân xưởng trưởng đề cử mình, bởi hai vị phân xưởng phó trước kia do trên đưa xuống đều bị phân xưởng trưởng ở đây tống khứ.

Phân xưởng trưởng Trương rõ ràng là người có thực lực và không sợ quyền thế. Anh kỹ sư mới vào được điều về bộ phận cung ứng vật tư. Anh không hề than vãn mà chỉ cố gắng làm việc. Bộ phận cung ứng vật tư bắt đầu làm việc có hiệu quả hơn trước rất nhiều. Đạt được thành tích, anh không hề tự mãn. Nhưng phân xưởng trưởng là người tài nên đã phát hiện ra nhân tài, lập tức tìm người kỹ sư nói chuyện và quyết định bổ nhiệm làm phân xưởng phó.

Anh kỹ sư kia rõ ràng hiểu tâm lý và cách thức làm việc của phân xưởng trưởng, anh biết rằng chỉ có thể dùng hành động mới chứng minh được tài năng của mình. Anh dùng hành vi để ám thị phân xưởng trưởng rằng mình là nhân tài, xứng đáng được đề bạt.

II. THIỆN XẢO THÔI MIÊN CỦA CHÍNH TRỊ GIA

Điểm gặp nhau của các nhà chính trị và các nhà tôn giáo là họ thu phục lòng tin của người khác bằng tín ngưỡng, làm cho mọi người tin tưởng kính trọng và tuân theo sự chỉ dẫn của họ.

Khi đối diện, trò thuyền với một chính khách thành danh sẽ phát hiện lời nói của họ rất có sức hấp dẫn, khác với người bình thường. Không những thế, khi đứng trước họ, bạn sẽ thấy có một áp lực vô hình có khuynh hướng nể phục, tin tưởng phục tùng. Họ có sức hấp dẫn lẫn uy lực.

Uy lực của chính trị gia được kiến lập trên tài năng và địa vị. Địa vị, quyền uy là những thứ mà con người từ cổ chí kim luôn theo đuổi. Tuy nhiên phải có tài năng thực sự thì mới trở thành con người mà xã hội cần. Vì thế các chính trị gia tuy rất khéo thu phục lòng người nhưng không vì thế mà cho rằng họ chỉ giỏi nói chuyện. Họ thật sự có năng lực xuất chúng. Hai yếu tố này hỗ tương nhau, tạo nên sức hấp dẫn của họ trước công chúng.

Tôn giáo và chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội và có liên quan nhất định với nhau. Tại sao tôn giáo ảnh hưởng to lớn đến xã hội như vậy? Ngoài một số giáo phái nặng màu mê tín, còn lại một số tôn giáo là hiện thân của một lối sống, một lý tưởng nào đó đáp ứng nhu cầu tâm linh của con người. Chính những ưu điểm này đã tạo thế đứng cho tôn giáo suốt mấy ngàn năm qua. Một số chính trị gia đã khéo léo vận dụng sự ảnh hưởng tôn giáo vào sự nghiệp chính trị của mình, dùng tôn giáo như một phương tiện để thu phục lòng người.

Các chính trị gia luôn có tài thu phục lòng người rất khéo léo. Họ luôn biết tùy cơ ứng biến, đủ bản lĩnh ứng phó với mọi tình huống. Trong thực tế, các nhà lãnh đạo hay mở các cuộc gặp mặt dân để lắng nghe ý kiến đóng góp phê bình trực tiếp từ người dân. Người dân trước khi đến gặp lãnh đạo đã chuẩn bị sẵn một số câu hỏi, kiến nghị, thế nhưng vừa gặp họ dường như không nói được gì. Công việc chính yếu của chính trị gia là xử lý những vấn đề xung quanh đời sống con người, ổn định xã hội, là một loại công tác “đối nhân xử thế”, như vậy thu phục nhân tâm là công việc mà họ đã làm thường xuyên, nên khi một người dân đứng trước họ luôn bị họ thu phục một cách vô hình.

III. THIỆN XẢO THÔI MIÊN CỦA THƯƠNG GIA

Tục ngữ có câu “vô gian bất thương” (không lừa gạt không làm thương nhân) để khái quát hóa tính chất của công việc bán buôn. Công việc chính yếu của thương nhân là mua đi bán lại. Trong quá trình mua và bán luôn phải giao dịch, xã giao, vì thế họ rất cần nắm vững phương pháp thôi miên, thuyết phục lòng người. Nhiếp tâm thuật trở thành chìa khóa thành công của thương gia.

Tôi có một chị bạn học, khi còn học tiểu học, vì gia đình gặp khó khăn nên phải bỏ học để buôn bán. Khi tôi học đại học thì chị đã trở thành-một đại phú thương giàu có nhất thành phố. Một lần chúng tôi tổ chức họp mặt giao lưu bạn học cũ, tôi cố ý đến nói chuyện với chị về chuyện kinh doanh, phát hiện ra rằng, tuy là phụ nữ, lại chưa học xong tiểu học nhưng chị lại nắm rất vững tâm lý mua bán của người đời. Chị kinh doanh ngành thời trang. Chị nói: “Chỉ cần nhìn vào thần thái của một người khách vào cửa hàng là tôi biết họ muốn mua hay chỉ đi tham quan. Nhiều người do dự không biết có nên mua hay không, tôi bèn thuyết phục họ mua và chắc chắn họ sẽ mua.”.

Nhân viên bán hàng vì muốn bán được nhiều hàng nên dùng rất nhiều kỹ xảo thôi miên, đặc biệt là ám thị thuật.

Ví dụ khi bán quần áo, họ bèn lấy một loạt áo quần cùng kiểu nhưng khác màu, khác kích cỡ… để khách hàng dễ lựa chọn. Họ còn tư vấn: “Chị mặc cái này vào sẽ rất đẹp”, “Chiếc áo này rất hợp với mái tóc của chị” v.v… Khách hàng khi ấy không cách nào khác hơn ngoài việc chọn chiếc áo đẹp nhất và trả tiền với tâm trạng hoan hỷ. Đấy là nói về hàng thật, giá thật. Cũng có người bán hàng giả giá đắt, nhưng do tài ăn nói của họ, khách hàng khi mua về mới biết mình đã bị lừa. Tôi đã từng bị như vậy.

Có một lần tôi tìm mua một chiếc đàn guitar điện, tôi bước vào một cửa hàng chuyên bán đàn với đủ các loại được sản xuất trong lẫn ngoài nước. Chủ cửa hàng thấy tôi tỉ mỉ xem từng cây đàn, bèn giới thiệu với tôi từng loại đàn, bảo rằng chỉ có cửa hàng này mới bán đàn có chất lượng tốt mà lại giá rẻ. Cách nói chuyện của chị ấy làm cho tôi tin nên đã mua một chiếc. Khi về nhà mới biết rằng, cũng với một cây đàn giống y như thế cửa hàng khác bán rẻ hơn nhiều.

Trong quá trình đàm phán, bên bán đưa ra vài mặt hàng cùng kiểu mẫu để người mua tự ý lựa chọn, ám thị rằng: “anh chỉ có vài lựa chọn này thôi”, tức phải mua một trong các thứ ấy. Tuy có thể còn những mặt hàng tốt hơn nhưng dưới tác dụng của ám thị người mua sẽ phân vân “trong các loại này, loại nào là tốt nhất” mà không hề nghĩ đến việc xem thêm kiểu mẫu khác. Làm cho người mua thu hẹp phạm vi chọn lựa sẽ có lợi cho người bán. Cũng có những trường hợp như thế này “Đây là sản phẩm có giá rẻ nhất của chúng tôi, còn cái kia, cái kia, cái kia nữa.. giá cao hơn”. Với cách giới thiệu này, người mua không thể trả giá rẻ hơn “giá rẻ nhất” vì thái độ của người bán “rất ư là thành thật”! Người bán đã ám thị rằng “anh chỉ có thể chọn lựa giá nào thích hợp, còn không thể trả rẻ hơn giá tôi đã đưa ra”.

Thế còn người mua thì sao?

“Ồ tôi đã mua loại này rồi, giá không cao như anh nói đâu. Nếu anh bán được thì tôi mua, tôi không thể trả cao hơn!”. Đấy là ám thị cho người bán biết rằng bạn đã nắm được giá cả của thị trường.

Nhiếp tâm thuật mang tính cưỡng chế rất cao, nên nếu nó thật sự được dùng trong kinh doanh thì rất đáng sợ. Có người hỏi “Có thể khiến cho đối phương đi vào trạng thái mất ý thức chủ động, sau đó tiến hành đàm phán nhằm dành phần lợi về mình được không?”.

Về mặt lý luận thì có thể, nhưng bạn nghĩ sao khi đối phương tỉnh dậy? Danh dự, uy tín trên thương trường của bạn liệu có còn không?

Mặt khác, trong trạng thái bị khống chế, đối phương tuy mất tự chủ song chưa hẳn mất hết lý trí, chưa chắc họ đồng ý ký vào bản hợp đồng gây tổn hại cho họ quá nhiều như vậy

Vì thế, bạn có thể dùng thuật thôi miên để thuyết phục đối phương hợp tác trên cơ sở đôi bên cùng có lợi, lợi nhuận được chia một cách công bằng, hợp lý nhất. Nghĩa là bạn chỉ có thể thuyết phục đối phương đồng ý hợp tác với bạn khi trước đó họ không thích bạn.

Đàm phán không chỉ là vấn đề giá cả, mà có khi là sự đồng cảm sẻ chia dẫn tới quan hệ thân hữu còn quan trọng hơn nhiều. Vì thế, vấn đề dùng thuật thôi miên luôn phải tôn trọng nguyên tắc kinh doanh và nguyên tắc quan hệ xã hội.

IV. NÊU BẠN LÀ BÁC SĨ

Người xưa cho rằng: “Thượng y trị thần”. Giới y học Mỹ thống kê rằng có khoảng 80% bệnh nhân không cần uống thuốc, chỉ cần đưa họ trở về trạng thái tâm lý mạnh khỏe thì bệnh cũng tự khỏi. Trung Quốc đã mấy ngàn năm lưu hành khí công và Yoga. Thực tế đấy là phương pháp rèn luyện tâm lý trị bệnh cho bản thân.

Tâm lý trị liệu được người xưa rất xem trọng. Ở Trung Quốc cổ đại, những thầy thuốc chuyên trị bệnh bằng tâm lý được gọi là chúc do sư, và khoa trị liệu ấy được gọi là chúc do khoa. Họ vận dụng chúc do thuật để trị liệu. Ngay nay, giới y học không còn dùng yếu tố quỷ thần trong chúc do thuật nhưng đã tiếp thu yếu tố trị liệu tâm lý, mang nó vào y học hiện đại.

Phương pháp trị liệu bằng ám thị, thôi miên trở thành chuyên ngành trị liệu chính thức của y học hiện đại. Có nhiều loại bệnh không thể dùng thuốc, mà chỉ có thể dùng ám thị hoặc thôi miên. Người xưa rất hiểu ý nghĩa việc chữa trị bằng ám thị. Đường Thái Tông đã từng được chữa bệnh bằng ám thị thuật.

Tương truyền, Đường Thái Tông mang quân đi đánh giặc, bất cẩn sa vào đầm lầy, được binh sĩ kẻo lên, nhưng khi vế cung luôn ở trong trạng thái hoảng hốt, lúc mơ màng ngủ hay giật mình kêu: “Cứu ta với! Cứu ta vẫn”. Bao nhiêu thang thuốc của thái y viện đều vô hiệu, đành phải kêu gọi thần y khắp nơi trong nước.

Dược Vương Tôn Tư Mạc, sau khi xem xét tình trạng bệnh lý của Đường Thái Tông, biết rằng chỉ có dùng tâm lý trị liệu mới chữa khỏi. Ông cho người làm một quả cấu bằng đất sét thật to, đường kính cao vượt đầu người, rồi nói với Đường Thái Tông rằng: “Xin bệ hạ hãy buông bỏ mọi suy nghĩ về quốc gia đại sự, không quan tâm đến bất cứ việc gì khác, chỉ cần ngày ngày nhìn chăm chú vào quả cầu này, chỉ cần qua 81 ngày thì nó sẽ biến thành nhỏ rồi mất hẳn, lúc ấy bệnh của bệ hạ cũng không còn nữa”.

Đường Thái Tông thấy không còn cách trị liệu nào khác nên đành nghe lời Dược Vương, ngày ngày vua đi, đứng nằm, ngồi, ăn uống v.v… đều để mắt vào quả cầu đất ấy. Qua 81 ngày, quả cầu vẫn y nguyên, chẳng biến nhỏ lại chút nào. Vua nổi giận, định tử tội Dược Vương, nhưng Dược Vương nói:

– Quả cầu có hóa thành nhỏ lại hay không không quan trọng, việc bệ hạ còn bệnh hay không mới đáng chú ý?

Đường Thái Tông giật mình xét lại bệnh tình, quả nhiên đã khỏi hẳn, tinh thần đang rất sung mãn, thân thể cũng rất khoẻ mạnh.

Đối với bệnh nhân, những ám thị của bác sĩ tuy đơn giản nhưng vô cung hiệu quả, vì bác sĩ đã có uy tín hầu như tuyệt đối với bệnh nhân. Nếu một bác sĩ không hiểu được điều này thì chỉ là một bác sĩ bình thường, là một “hạ y” chứ không phải “thượng y”. Cổ nhân cho rằng hạ y là người chỉ biết dùng thuốc để chữa sinh lý, còn thượng y ngoài việc chữa bệnh sinh lý còn biết cách chữa tâm lý, tức chữa cái “thần” cho con người..

Để hiệu quả ám thị cao, bác sĩ thường dẫn dắt họ vào trạng thái thôi miên. Cách này gọi là dùng thuật thôi miên để trị liệu.

Với những bệnh nhân có tâm lý mẫn cảm thì thuật thôi miên là cách chữa trị tốt nhất. Tôi từng chữa bệnh cho một nữ sinh. Cháu rất thông minh, bình thường đề toán khó thế nào cũng giải được, nhưng mỗi khi vào phòng thi thì bao nhiêu kiến thức đều bay đâu hết. Tôi bèn thôi miên cho cháu, phát hiện ra rằng, sở dĩ tâm lý cháu quá mẫn cảm như vậy là do khi học tiểu học, cháu đã thất bại trong một lần thi toán, vì thế cháu luôn lo lắng, hoang mang khi bước vào phòng thi, đặc biệt là môn toán. Tôi bảo cháu kể lại tình cảnh lúc thi toán thời tiểu học rồi “thi lại” với đề toán đó, đồng thời trong khi thi lại phải tăng cường lòng tự tin của mình lên, giúp cháu phá tan những mâu thuẫn tâm lý lúc ấy. Sau bốn lần trị liệu như vậy thì cháu bảo không còn cảm giác sợ khi vào phòng thi nữa. Quả thật, thành tích học tập của cháu tăng tiến rõ rệt, sau đó thi đậu ngay vào đại học y khoa.

Nhìn từ góc độ tâm lý hầu hết mọi bệnh tật đều liên quan đến tâm lý. Tất cả mọi bệnh tật đều có thể trị bằng thân hoặc bằng tâm. Chỉ cần chẩn đoán đúng nguyên nhân thì sẽ có cách chữa trị hợp lý. Với ý nghĩa này, tất cả bệnh tật, chỉ cần thân thể và tinh thần của bệnh nhân thích hợp cho việc trị liệu bằng thuật thôi miên thì đều có thể dùng nó để điều trị. Giới y học của Mỹ đã dùng thôi miên thay thế thuốc mê trong các ca mổ và đạt hiệu quả rất tốt.

Các di chứng do cao huyết áp, xuất huyết não tạo thành như tê liệt, bán thân bất toại v.v… vẫn có thể dùng tâm lý trị liệu phối hợp với vật lý trị liệu, kết quả rất khả quan.

Ngoài ra, chúng ta còn có thể dùng phương pháp “tự ngã thôi miên” để chữa bệnh.

“Tự ngã thôi miên” là người bệnh tự thôi miên để chữa cho chính mình. Đây là phương pháp chữa trị xuất sinh từ nước Đức.

Tự mình có thể “khống chế mình không”? Đương nhiên là được. Phương pháp tọa thiền của Phật giáo bắt nguồn từ Yoga của ấn Độ. Giữa thiền và Yoga có mối liên hệ mật thiết với nhau.

Một trong những cảnh giới của thiền là vong ngã. Khi ấy tri giác cũng đã đình trệ, có thể nói là “nhìn mà không thấy, nghe mà không nghe”, bất luận hoàn cảnh xung quanh thay đổi thế nào người tọa thiền vẫn điềm nhiên an tĩnh.

Giới y học ngày nay rất ưa chuộng dùng tự ngã thôi miên để trị bệnh, chủ yếu là các phương pháp tọa thiền, yoga, tự ngã ám thị v.v… Những phương pháp tự thôi miên nay đều vì mục đích làm cho thân tâm khỏe mạnh, theo đó sẽ nâng cao năng lực tư duy.

Sau đây là một số phương pháp tự ngã thôi miên:

1. Phương pháp tọa thiền

Đây là phương pháp mà mọi người đã quen thuộc. Tọa thiền nên chọn nơi thoáng mát, sạch sẽ (hiện nay đa phần là tọa thiền ở nhà riêng), yên lặng. Ngồi xếp bằng, hai tay xếp chồng lên nhau để trước rốn, mắt khép hờ nhìn xuống một điểm nào đó phía trước mặt khoảng một mét. Thân trên phải giữ cho thẳng, hô hấp chậm bằng mũi, tâm không suy nghĩ về bất cứ việc gì. Có người còn chủ trương “thu tâm nội quán”, tức quán sát nội tâm của mình xem ý niệm khởi từ đâu, ý niệm nào đang khởi lên v.v… Hoặc cũng có thể tư duy quán tưởng, ví dụ tưởng cả thân thể mình trong suốt như nước, thân thể nhẹ như không khí v.v… Nhưng không nên kéo dài thời gian quán tưởng quá lâu, khoảng 30 phút hay một tiếng đồng hồ nên xả bỏ quán tưởng, trở về lắng nghe hơi thở, đếm hơi thở từ một đến mười và trở lại tiếp từ một đến mười.

Trong khi tọa thiền, hơi thở chậm, nhịp tim chậm, huyết áp giống với trạng thái khi ngủ nên thân tâm đều rất an ổn. Có những bệnh thông qua tọa thiền đã khỏi hẳn, nhất là các bệnh về tim mạch, thần kinh, tâm lý v.v…

2. Phương pháp tự ngã ám thị

Bệnh nhân ngồi trên ghế, đầu tiên kéo dài giọng đọc “một…một”, trong tâm nghĩ “mí mắt của mình rất nặng, rất muốn ngủ”, tập trung tinh thần suy nghĩ như vậy chỉ khi nào cảm thấy đã “mơ màng” muốn ngủ thật thì mới đếm “hai….hai”. Tiếp theo nghĩ: “mí mắt nặng quá rồi không thể nào mở ra được nữa”, chỉ cần suy nghĩ mãi về điều đó, lặp đi lặp lại câu nói ấy trong lòng thì không lâu sau hai mắt thật sự đã nhắm khít lại, tiếp theo là đọc “ba…ba”.

Tiếp theo, mắt vẫn nhắm, nghĩ: “hít vào một hơi thật dài, toàn thân sẽ được buông lỏng” kết quả là thân thể được thả lỏng, cảm giác nhẹ nhàng thoải mái. Tất cả những điều đó đã chuẩn bị tốt cho quá trình thôi miên tiếp theo. Cẩn thận hơn, bệnh nhân có thể dùng tay phải nắm lấy ngón trỏ của tay trái, đồng thời cũng tăng thêm chút lực nắm chặt hơn, không thể rút ra được.

“Giờ thì có thể buông ra được rồi” thông qua suy nghĩ này, hai tay lập tức buông ra.

Nếu các bước ấy đều tiến hành thuận lợi thì có thể tiến hành thôi miên sâu hơn, phức tạp hơn.

3. Shddha pháp

Năm 1941, Suddha, một người Mỹ đã đưa ra ba loại tự ngã thôi miên để trị bệnh. Trong đó được ứng dụng nhiều nhất là phương pháp sau đây:

Đầu tiên, nên bắt đầu từ cơ nhục vận động đơn giản, do nhà ám thị phát tín hiệu ám thị, làm cho bệnh nhân làm một số động tác nào đó. Người bệnh có thể dựa theo các ám thị đó để tự phát các ám thị tương ứng. Có nghĩa là đầu tiên tự ngã ám thị dẫn dắt làm phát sinh quán niệm vận động.

Ví dụ, tự ngã ám thị (cũng là tự tưởng tượng): “Tay mình không cử động được nữa!”. Sau đó thử nhấc tay lên, quả nhiên không nhấc lên được. Tiếp tục ám thị “có thể nhấc tay lên” thế là nhấc lên được. Sau khi thực hiện xong một số vận động như vậy có thể tiến vào các ám thị sâu hơn.

Có một loại tự ngã ám thị do Suzuki phát minh. Phương pháp cụ thể là nửa nằm nửa ngồi trên ghế dựa hoặc nằm ngửa trên giường, tập trung tinh thần nghĩ đến các ám thị sau:

(1) Hai vai, hai chân nặng (cảm giác nặng)

(2) Hai vai, hai chân ấm (cảm giác ấm)

(3) Tim đập nhịp nhàng (điều chỉnh nhịp tim)

(4) Hô hấp điều hòa (điều chỉnh hô hấp)

(5) Quanh dạ dày ấm áp (làm ấm vùng bụng)

(6) Vùng trán mát lạnh (cảm giác mát vùng trán)

Khi tiến hành tự ngã thôi miên, vì nhà thôi miên và đối tượng chỉ là một người nên thuộc về trung tính thôi miên.

Có thể với người mới học, đầu tiên chỉ tưởng tượng vai bên phải có cảm giác nặng, sau đó đã quen dần thì tiếp tục ám thị thêm vai trái. Cũng làm vậy với chân trái, chân phải v.v…

Tuy là tự ngã thôi miên nhưng lúc đầu phải có bác sĩ hoặc nhà thôi miên chỉ dẫn, sau khi đã thuần thục mới tự làm ở nhà. Mỗi ngày khoảng ba lần.

Không nhất thiết phải thực hiện cùng lúc 6 tín hiệu ám thị trên. Làm một vài ám thị như thế cũng tạm đủ. Khi thuần thục thì mới tiến hành nhiều hơn. Đây là những phương pháp rất được giới y học hiện nay ưa chuộng.

V. KHÔNG DÙNG THUẬT THÔI MIÊN ĐỂ PHẠM TỘI

Từ xưa đến nay, lợi dụng thuật thôi miên để phạm tôi không phải là chuyện hiếm. Những người có tâm bất chính luôn muốn dùng thuật thôi miên để phát tài, vì thế họ đi vào con đường phạm pháp. Khi đi giảng về thuật thôi miên, nhiều thanh niên hỏi tôi:

– Lấy tiền của họ đi, họ vẫn không biết phải không ạ?

Nhưng người như thế có nguy cơ phạm tội rất cao. Học thuật thôi miên tuyệt đối phải loại bỏ tư tưởng ấy trong đầu.

Cũng có nhiều người ban đầu học thuật thôi miên không phải để làm việc xấu, nhưng trước sự mê hoặc của đồng tiền và sẵn có được năng lực khống chế người khác nên đã đánh mất tương lai. Khi trong lòng có ý niệm xấu nổi lên, chúng ta nên nghĩ: “Mình đang sống trong vòng pháp luật. Mình là con người có lý trí”.

Nếu dùng thuật thôi miên để vụ lợi, phạm tội thì dù bạn có khéo léo thế nào cũng sẽ bị phát hiện, vì trên thế giới này đâu phải một mình bạn biết thuật thôi miên?

Ám thị và thôi miên có thể dùng để phạm tội nhưng cũng có thể dùng để phá án.

Năm 1934, Bác sĩ Mayer phụ trách điều tra vụ án của một người tên là H.E. Theo kết quả thẩm đoán, phụ nữ này không có triệu chứng về bệnh thần kinh hay tâm lý gì cả. Thân thể cô ta khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn. Bác sĩ sau khi nghiên cứu kỹ đã biết rằng cô bị thôi miên. Chính cô ta cũng nói: “Người ấy đặt tay lên trán của tôi, thế là tôi không còn biết gì nữa!”.

Thế là bác sĩ Mayer dùng ngay phương pháp đó, đặt một tay lên đầu cô H.E tiến hành thôi miên. H.E lập tức đi vào trạng thái thôi miên. Lặp đi lặp lại động tác này vài lần, H.E đã đi vào trạng thái thôi miên sâu Bác sĩ bèn bảo H.E tả lại hình dáng người đã thôi miên cô.

Sau vài tháng, đã tìm được một người đàn ông giống như những gì cô H.E đã diễn tả. Thế nhưng người đàn ông ấy một mực chối cãi, bảo rằng ông ta không hề hay biết chuyện gì, không làm chuyện gì cả cũng không quen biết cô H.E. Lúc này cô H.E. lại bảo: “Không nhớ rõ nữa!”.

Vì thế bác sĩ Mayer quyết định khơi dậy ký ức của cô H.E một cách tỉ mỉ hơn. Dĩ nhiên phải mất nhiều công sức để làm việc này. Xem ra, tội phạm kia đã ra ám thị cho cô H.K không những bảo cô phải quên hết mọi hành vi trong lúc phạm tội mà còn ám thị cho cô quên luôn quá trình bị thôi miên.

Thế nhưng bác sĩ Mayer tin tưởng rằng cô H.E không thể quên sạch mọi thứ được, nó vẫn còn nằm đâu đó trong tiềm thức của cô. Vì thế, ông quyết định tiến thật sâu vào tiềm thức của đối tượng bằng cách khiến cô ấy chìm sâu vào trạng thái thôi miên.

Đầu tiên ông ám thị cho cô H.E nhớ lại những gì có liên quan đến vấn đề chính, tạo thành một sợi dây liên kết, từ đó sản sinh sự liên tưởng, cuối cùng giúp cô ấy nhớ lại toàn bộ sự việc, nhờ đó, giúp các nhà chức trách bắt được tội phạm.

Muốn làm cho đối tượng hoàn toàn quên tất cả những gì xảy ra thì thôi miên và việc làm lúc bị thôi miên phải có một biên chế ám thị hoặc dùng những chữ số đặc biệt nào đó. Lúc bắt đầu và kết thúc thôi miên luôn phải dùng ám thị và các chữ số.

Ví dụ, kẻ chủ mưu ám thị cô H.E rằng:

– Khi tôi nói “6, hãy đến” thì cô lập tức rơi vào trạng thái thôi miên nhé!

Vì đây là phương thức cố định nên dù không phải là kẻ chủ mưu, mà là một người đồng bọn nào đó biết được “mật mã” này cũng đều có thể sử dụng để khống chế cô H.E.

Cô H.E trong trạng thái thôi miên kể lại rằng: “Hôm ấy là một ngày thứ ba, khoảng bảy giờ tối. Có một bác sĩ quen tên D.N đến nắm lấy tay tôi và nói: “Này, hãy đi cùng tôi. Trời bắt đầu tối rồi, lát nữa thì sẽ không nhìn thấy gì cả. Tôi dẫn cô đi, cô chỉ việc đi theo tôi?”. Khi ấy tuy hai mắt vẫn mở nhưng tôi không nhìn thấy gì cả, không nhận biết được gì cả. Tôi cứ thế mà đi, xung quanh đã tối hẳn. Chúng tôi đang ở đâu, tôi cũng không biết. Người ấy nói với tôi rằng “Cô cứ đi theo tôi, ở đây là đâu cô không cần biết, cũng không có gì phải sợ cả!”. Anh ta nắm tay tôi đi thẳng vào bóng đêm và không ngừng bảo tôi rằng: “Cô không nhìn thấy gì cả, không biết đang ở đâu cả, hãy cứ đi theo tôi”. Đến một căn nhà anh ta mở cửa sổ, tôi vẫn không nhìn thấy gì. Người ấy đặt tay lên trán tôi, nói: “Cô hãy nằm xuống nghỉ ngơi, hãy yên tâm nằm ngủ”. Khi ấy, tôi thật sự yên tâm nhắm mắt ngủ. Người ấy lại nói tiếp: “Ở đây xảy ra chuyện gì cô cũng đều không nhớ nhé”. Sau đó, người ấy lại hỏi tôi: “Cô có biết đã xảy ra chuyện gì không?”. Tôi không trả lời được. Nhưng bây giờ thì tôi nhớ lại rồi. Khi tôi đang nằm, anh ta hôn tôi. Tôi muốn đẩy anh ta ra, muốn hét thật to nhưng không thể hét ra tiếng. Tôi cố vùng vẫy nhưng vẫn không có tác dụng gì. Anh ta nói với tôi rằng: “Bây giờ cô đang ngủ! Không thể nói ra tiếng được, không thể cử động được! Khi cô tỉnh lại thì không nhớ được gì cả. Sau khi tỉnh lại, quả nhiên trong một thời gian dài tôi không nhớ được gì”.

Cô H.E vừa thuật lại vừa lắc đầu buồn bã. Cô khóc không thành tiếng. Rõ ràng cô đã bị vị bác sĩ vô lương tâm kia làm nhục. Một hồi lâu sau, cô bình tĩnh lại được.

Lợi dụng huyễn giác, Bác sĩ Mayer đưa cho cô một tờ giấy trắng, nói với cô rằng:

– Đây là thư của bác sĩ D.N gửi cho cô, cô hãy đọc đi.

CÔ H.E lập tức cầm tờ giấy đọc.

“Vào lúc… ngày… hãy đến chỗ…. gặp mặt tôi. Thư này khi xem xong thì hủy đi. D.N.

Bác sĩ Mayer đã sử dụng rất nhiều thủ thuật thôi miên khác nhau để phân tích, cuối cùng không những hiểu được hành vi của tội phạm mà còn phát hiện ra một số bệnh tật kéo dài liên tục của cô H.E.

Đấy là các cơn đau liên tục do vị bác sĩ D.N kia tạo ra bằng ám thị.

Lần đầu tiên, D.N nói với cô rằng cần phải phẫu thuật ở hoành cách mô, vì thế phải thôi miên. Khi cô H.E tỉnh lại thì D.N bảo đã phẫu thuật rồi, bảo cô trả tiền công. Trên đường trở về nhà, quả nhiên chỗ hoành cách mô hết đau, cô H.E tưởng rằng thực sự đã được phẫu thuật.

Lần thứ hai, D.N ám thị cho các đầu ngón tay trái của H.E tê cứng, đau buốt, thậm chí các ngón tay co quắp lại, bấm vào thịt chảy máu, nhưng không có cách nào kẻo thẳng ra được.

CÔ H.E nhớ lại rằng:

– Thì ra bác sĩ D.N đã chỉ vào tay tôi, nói là “đau lắm. Sau đó vài tuần, tôi nói với D.N là mẹ và chồng tôi không cho thêm tiền nên tôi không thể chữa trị. D.N tức giận bảo: “Được, để tôi xem họ có chịu bỏ tiền ra hay không?”. Lập tức D.N chỉ vào bụng tôi, bảo rằng dạ dày của tôi đang rất đau. Lập tức tôi thấy dạ dày của mình đau không chịu nổi. Nếu như D.N không lấy tay chạm vào thì nó không hết đau. Vì tôi đau như thế nên chồng và mẹ tôi đã cho tiền để trị bệnh và tôi đã đưa cho D.N số tiền công khá lớn.

Sau khi điều tra được chân tướng sự việc, dĩ nhiên là bác sĩ D.N phải ra tòa, từ đó ông ta không thể hành nghề y nữa, thân bại danh liệt, bị truy tố trước pháp luật.

Dân gian có câu: “lưới trời lồng lộng, tuy thưa nhưng khó lọt”, vì thế với những ai đã nắm vững thuật thôi miên trong tay, cũng hy vọng là hãy giữ vững lương tâm mình, đừng để nó lạc mất, đừng để nó đi sai đường.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.