Những Thành Tựu Lẫy Lừng Trong Tâm Lý Học Hiện Đại

Chương 1. NHIỆM VỤ CỦA NHÀ TÂM LÝ HỌC LÀ GÌ?



Trong suốt nhiều năm làm cái nghề đẹp đẽ của nhà tâm lý học, tôi đã không biết bao nhiêu lần nhận ra rằng danh từ “tâm lý học” vẫn bị bóng tối và bí mật bao trùm… Không biết bao nhiều lần tôi được nghe câu hỏi “… thế tâm lý học chính xác là cái gì? Nó làm được những gì? Nó chữa lành những thứ gì?…” Rất nhiều người cho rằng nhà tâm lý học là cái ông “làm các cuộc trắc nghiệm”. Hoặc giả ông ta chỉ đơn thuần là người chỉ đạo tinh thần. Nếu không nói có rất nhiều người coi ông ta như là một gã phù thủy hay một đạo sĩ… hay bất cứ cái gì khác nữa không biết chừng.

Nếu như có nhiều người biết được mục đích và công việc của nhà tâm lý học thì trái lại vô số người lại mù tịt về điều này. Có người tìm đến tôi về tính nhút nhát của mình cũng như do chứng rối loạn thần kinh. Có nhiều bà mẹ tìm nói với tôi (hốt hoảng một cách vô lý vì không hiểu vấn đề) rằng “thằng con nhà tôi nó quan tâm quá nhiều đến thân thể của nó… nó còn quá trẻ thưa ông, thật khủng khiếp!…” Hoặc giả nhiều thiếu niên nổi loạn với “nỗi buồn trong lòng”, đến nhấn chuông nhà tôi vào lúc đêm khuya, cùng ông bố vẻ mặt giận dữ. Có nhiều người khác chỉ đơn giản đến để học hỏi. Nhiều người khác đến tìm hiểu xem mình là con người phải như thế nào để có thể trở thành một người như thế nào đó, và họ có những gì trong chính con người họ… Nhiều trường hợp “suy nhược thần kinh”, các chứng loét bao tử, các vấn đề về tình dục, các rắc rối trong gia đình, các vấn đề rất nghiêm trọng về giáo dục… mà đôi khi người ta nhận thấy các người trưởng thành đòi hỏi quá nhiều ở một đứa con mà chính bản thân họ cũng không thể đáp ứng được các chuyện đó… Tôi còn thấy nhiều bậc cha mẹ đáng ngưỡng mộ, nhiều bố mẹ muốn tìm ra chân lý, mà cũng nhiều cha mẹ không một chút ý thức nào. Tôi cũng thấy nhiều thiếu niên đáng khâm phục và nhiều đứa cũng rất vô ý thức. Tôi thấy là bất cứ điều gì cũng đều có căn nguyên của nó cả, trong sự vinh quang cũng như thấp hèn… Tôi đã chiêm ngưỡng không biết bao khuôn mặn hết sức đau khổ…

Có phải tất cả những thứ đó nằm trong lãnh vực nghề nghiệp của tôi không? Phải, chắc chắn là như thế. Đây là một nghề mà căn bản của nó hết sức khoa học, nhưng trước hơn hết là lòng tin nơi con người. Bất cứ những gì liên quan đến con người đều thuộc lãnh vực của tâm lý học, bất kể đó là một người bình thường hay bất thường.

Nhưng mà… với sự quảng bá quá ư là chậm chạp của khoa tâm lý học trong công chúng, nên có nhiều người không dám hoặc do dự, đôi khi suốt cả nhiều năm trời… Cho đến khi họ đến tìm tôi trong nỗi tuyệt vọng cùng cực hoặc đang muốn tự tử. Tuy thế, tôi đã thực hiện nhiều buổi thuyết trình và tôi cũng đã nhận được hằng ngàn lá thư hết sức cảm động. Tôi cũng nhận thấy sự quan tâm không ngừng lớn mạnh mà người ta đã dành cho ngành học này của con người. Và nhiều lần tôi nhận ra là “đôi khi người ta tưởng là có thể giúp được cho chính mình” nữa. Nhưng đó là điều sai lầm. Tại sao thế? Chỉ đơn giản là người ta luôn chỉ nhìn thấy mình qua chính con người của mình… và nó bị sai lệch trong chín trên mười trường hợp.

Khi Jacqueline D… đến tìm tôi, hôn nhân cô ta gần như đã tan rã, và nó kéo dài như thế suốt ba năm trời? Chỉ với ba tuần lễ bằng những cuộc trò chuyện về tâm lý để cho hôn nhân cô trở lại tự nhiên, vì lúc đó Jacqueline D. mới hiểu được các động cơ thầm kín của tâm hồn con người.

Còn Jean, một thanh niên luôn bị vò xé về các vấn đề tình dục, đang tiến thẳng đến sự ám ảnh và chứng rối loạn thần kinh. Sau ba tháng anh ta nhìn các vấn đề dưới một khía cạnh khác và có một đời sống hoàn toàn đổi mới… (đúng những từ mà anh đã dùng)

Và Paul R… mang nhiều rối loạn về tim mạch. Ông ta không thể nào ngờ được là dù tim ông ta có mang bệnh thì thân thể của ông ta còn tệ hại hơn thế! Và các rối loạn về tim mạch xuất phát từ các rối loạn vô thức hết sức mãnh liệt của xúc cảm mà chính chúng cũng được hình thành vì sự ức chế tình dục.

Còn Yvette mang bệnh từ dị ứng đến chứng rối loạn tinh thần do ám ảnh, từ nỗi ám ảnh đến bệnh eczêma, rồi từ bệnh eczêma đến chứng viêm đại tràng để rồi trở về lại với chứng rối loạn thần kinh. Không hề biết là chính bản thân tâm lý cô có vấn đề và phải được chữa trị bằng khoa y học tâm thể (médecine psychosomatique).

Và còn biết bao nhiêu người khác mà cuộc sống của họ được đặt trên các hiểu biết nội giới hoàn toàn sai lạc.

Chứng minh công việc của khoa tâm lý học là lý do chủ yếu duy nhất của cuốn sách này, mà tôi hy vọng là sẽ rất bổ ích… Nó chứa đựng nhiều sự thật về con người và tôi nghĩ là mỗi con người có thể tìm thấy trong quyển sách này các vấn đề, các nỗi lo âu và nghi vấn của chính họ. Đương nhiên là có hàng triệu vấn đề khác nhau, nhưng tư chất thầm kín vẫn là sự thống khổ của con người. Bản chất thầm kín của con người không hề khác biệt. Sự vô ý thức sâu đậm của một người thổ dân không khác gì của một người văn minh Châu Âu. Nhận định này có làm cho chúng ta cảm thấy an lòng trong cái thời buổi phân biệt chủng tộc ngày nay không?

Tôi hy vọng cuốn sách này sẽ trở thành một cuốn cẩm nang, một cuốn sách để đầu giường, một nền tảng để tham khảo. Tâm lý học là một ngôi trường dạy khôn ngoan và giữ tâm thể được quân bình. Tôi thành tâm ao ước cuốn sách này sẽ tạo được điều sau đây: tâm lý học sẽ trở thành một môn khoa học cho tất cả mọi người, ít nhiều gì đó quen thuộc với họ và không còn là một từ mơ hồ chìm trong màn sương nữa.

Và nếu như một người nào đó, muốn hiểu biết thêm nữa về môn tâm lý học với những gì thu thập được trong cuốn sách này, thì ít ra người đó cũng sẽ làm việc đó với đầy đủ ý thức.

Định nghĩa của tâm lý học.

Nói một cách đơn giản, từ tâm lý học có căn nguyên như sau Tiếng Hy lạp Psukhé = Tâm hồn và Logos = khảo cứu, môn học.

Như thế, một cách khái quát, tâm lý học là khoa học của tâm hồn hay của trí tuệ. Nhưng định nghĩa này cũng chưa hoàn hảo, vì các từ “tâm hồn” hay “trí tuệ” mang nhiều ý nghĩa quá khác biệt, và nếu như lấy đúng ý nghĩa của nó thì môn học của trí tuệ phải là môn siêu hình học.

Vì thế tôi đề nghị định nghĩa sau đây: Tâm lý học nhằm nghiên cứu các hiện tượng tinh thần, dưới bất cứ trạng thái nào. Nó nghiên cứu mọi hành động ý thức và vô thức. Janet, cây cổ thụ người Pháp của nền tâm lý học đã nói “Tâm lý học liên quan đến mọi thứ, nó mang tính cách toàn diện. Ở mọi nơi đều có các hành vi tâm lý.”

Tâm lý học:

1. Quan sát tất cả mọi ứng xử của con người, trong nội giới cũng như ngoại giới.

2. Nghiên cứu các căn nguyên nội giới hay ngoại giới bằng các hành xử đó.

Thí dụ như đối với một người nhút nhát, tâm lý học:

– Chúng ta sẽ quan sát các lối hành xử được thể hiện bên ngoài (tiếng nói, cử chỉ, dáng đi, giọng cười…)

– Chúng ta sẽ tìm cho ra các nguyên nhân bên ngoài đã dẫn đến sự nhút nhát này (gia đình, tôn giáo, các tình huống đặc biệt)

– Nghiên cứu các nguyên nhân nội giới, ý thức hoặc vô ý thức (mệt mỏi, di truyền, sự không thích nghi, các tiền cấp, cảm xúc, mặc cảm)

– Chúng ta sẽ đưa ra một phương thức chữa trị tâm lý thích hợp.

Như thế tâm lý học là một khoa học – và cũng là một nghệ thuật – về các lối hành xử của con người trong mọi biểu hiện có thể xảy ra. Tất cả các là hành xử này có thể là bình thường hay bất bình thường.

Do đó ta không thể tách rời tâm lý học với các môn khoa học khác về con người. Nói cho cùng, mọi môn khoa học đều chú trọng đến con người vì do con người nghĩ ra.

Đâu là sự khác biệt giữa tâm lý học với tâm thần học trị liệu?

Thường thường người ta nghĩ người bác sĩ về các bệnh “tâm thần chỉ là “một vị bác sĩ chỉ chuyên chữa trị mọi bệnh về tâm thần”. Thế mà tâm lý học bao gồm tất cả mọi hiện tượng tinh thần, lành mạnh hoặc không lành mạnh. Như thế người ta có thể nói tâm thần trị liệu sẽ tham gia ở một mức độ nào đó của các bệnh tâm thần. Nhưng nói như thế cũng không đúng. Vì mỗi khi có một sự “không thích ứng” của tinh thần cho một tình huống nào đó, thì đã có “bệnh” tâm thần. “Bệnh” này có thể kéo dài trong năm phút hoặc hai mươi năm. Một người mắc một chứng khó tiêu, là một “bệnh nhân thể chất”. Ngay cả một người mắc bệnh ung thư cũng vậy. Cũng như thế, một con người nhút nhát là một “bệnh nhân tâm lý”, kể cả một người tâm thần. Vì vậy sẽ có “một mức độ” về bệnh lý mà người ta không thể nào đặt ra một ranh giới chính xác. Như vậy tâm lý học và tâm thần học sẽ là một vấn đề từ ngữ. Do đó người ta có thể nói tâm lý học là một khoa học tổng quát bao gồm cả môn tâm thần học.

Tôi xin nhắc lại là tâm lý học quan tâm đến con người hài hòa cũng như đối với người mất cân bằng. Nếu từ “bác sĩ tâm thần” vẫn giữ nguyên ý nghĩa xấu của nó là bởi vì cách nghĩ hẹp hòi của quần chúng.

Sự phân biệt chính xác giữa hai từ này là điều gần như vô nghĩa. Ta nên biết rằng có nhiều người Mỹ rất tự nhiên, thường xuyên tham vấn vị “bác sĩ tâm thần” của họ. Chỉ đơn giản là ở bên đó, cái từ này đã mất đi cái ý nghĩa xấu của nó, trong khi ở nhiều nước khác vẫn còn mang nặng ý nghĩa kia.

Vì sao tâm lý học lại là vấn đề nghị sự?

Tất cả mọi thứ đều liên quan với nhau, ăn khớp với nhau, không có gì riêng rẽ hết. Nếu như con người có thể thay đổi thì mọi thứ cũng đều có thể thay đổi theo.

G. Gurdjieff

Tại sao tâm lý học liên quan đến nhiều người như thế? Câu trả lời hết sức đơn giản: sự phát triển rộng lớn của tâm lý học tương ứng với một nhu cầu rộng lớn.

Trong bối cảnh hiện tại của một thế giới lệch lạc, việc nghiên cứu tâm lý học là một điều rất cần thiết. Cần phải thiết lập lại sự điều chỉnh cho thế giới ấy. Con người cảm thấy đau lòng khi nhìn thấy những gì xảy ra chung quanh mình. Nhiều căn bệnh trở thành nhiều cách sống mới: suy kiệt, trầm uất sự bối rối, các mặc cảm tự ti, sự mất bình tĩnh, tính hay gây gổ sự ganh đua quyết liệt, sự chống đối, sợ hãi, nỗi lo âu, việc tìm kiếm một ưu thế bằng bất cứ giá nào… Có rất nhiều vấn đề chủ yếu bị sai lạc: như tình dục, giáo dục, bối cảnh xã hội, các giá trị nhân phẩm, tôn giáo…

Thật đau lòng khi phải nhìn thấy có rất nhiều người không ra gì trong khi họ có thể là một ai đó. Các mối quan hệ nhân sinh bị cắt đứt. Đám Đông và Quần Chúng thay thế Cá Nhân sáng suốt. Sự tiêu dao lại bị cho là lười biếng. Sự tự chủ biến mất. Sự bình yên và thanh thản trở thành các vật phẩm lạ kỳ. Một hành động cao cả – đáng lý rất là tự nhiên – lại được coi là phi thường. Càng lúc càng có nhiều người, một cách vô ý thức, đã ghê tởm chính con người họ mà không biết đó là sự khởi đầu của một ý tưởng vĩ đại… với điều kiện là phải biết ngừng đúng lúc.

Không có bất cứ điều gì mà không có sự cân bằng!

Chỉ có một giải pháp duy nhất: phải tìm cho được một sự khởi đầu vững chắc. Và chỉ với một đều kiện duy nhất: đó là sự cân bằng về thể xác cũng như tinh thần. Không có nó thì người ta không thể thực hiện bất cứ điều gì. Không có nó thì không thể nào đạt được sự sung mãn. Sự cân bằng là công cụ cho sự hoàn thiện con người. Bất cứ sự mất cân bằng nào cũng chế ngự con người về mặt tâm sinh lý và trong trường hợp này có thể loại bỏ nhân cách anh ta. Bất cứ bệnh tật nào, bất cứ sự suy yếu sinh lý nào, bất cứ sự mất cân bằng nào cũng đều dẫn đến việc tách rời con người với chính họ và những khả năng của anh ta. Chúng ta hãy lấy một thí dụ đơn giản: nếu một người bị chứng đau răng hành hạ, làm cho anh ta bỏ ăn bỏ ngủ. Tâm trí anh ta sẽ chú tâm đến chứng đau răng này và không còn quan tâm đến bất cứ điều gì khác. Anh ta sẽ đồng hóa với chứng đau răng đó, anh ta sẽ “trở thành” chứng đau răng. Chứng đau răng đó sẽ thay đổi bản chất thật của chính anh, sẽ làm ngưng trệ mọi công việc làm khác, sẽ phá tan các ý nghĩ của anh ta, làm mất đi sự sáng suốt của con người anh.

Phần đông các bệnh tâm thần đều giống như thế. Con người không thể nào hành động một cách sáng suốt được nữa, nhưng lại tùy thuộc vào cái bệnh tật đó. Đó là trường hợp của những người nhút nhát, những người hung hãn, những con người hay hoảng sợ. Đó cũng là trường hợp của những người thường có định kiến, mắc chứng mặc cảm, những người hay mất bình tĩnh…

Thời đại tươi đẹp của chúng ta.

Vô số con người hiện đại mắc chứng không thích nghi.

Nhưng ai nói đến không thích nghi đều nói đến đối nghịch, ai nói đến đối nghịch là nói đến mâu thuẫn. Ai nói đến mâu thuẫn thì sẽ nói đến hoảng sợ. Một trong các đối nghịch quan trọng nhất là con người luôn bị giằng xé giữa “con người thật của anh ta” với “con người mà anh tưởng đó mới chính là mình”. Vì thế, anh ta luôn bị giằng co giữa các khuynh hướng thầm kín nhất với các hành vi bên ngoài. Và nhà tâm lý học, trong tám trường hợp trên mười, nhận ra đây là con người không thích nghi, không phải với công việc hay với thời đại anh ta đang sống, mà là với chính bản thân anh ta, vì vô số xung đột nội tại trầm trọng đang ảnh hưởng đến con người anh ta. Thời đại của chúng ta là một thời đại của sự ức chế.

Các ức chế này thảy đều là những hạt nhân mãnh liệt của các bệnh tật về tâm lý và về sinh lý. Càng ngày càng có nhiều người nghĩ rằng các bản năng ghê tởm nhất nằm trong lãnh vực tình dục. Nhưng chúng ta không được quên là “các bản năng đó” luôn hiện hữu và luôn thực hiện cái công việc của nó, dù cho chúng có bị đè nén hay không. Nhưng nếu như các bản năng đó được nhận thức một cách đúng đắn thì dù cho có lành mạnh được chấp nhận hay từ bỏ, thì nó cũng không có gì nguy hại cả. Nhưng phần nhiều sự trái ngược lại xảy ra với tất cả những hậu quả không thể ngờ được.

Rất nhiều người muốn “thành đạt”. Nhưng thành đạt về mặt nào? Họ cũng không hề biết được. Những gì họ biết được là họ muốn được nhất mà thôi. Nhưng nhất về mặt nào? Tại sao? Ở đâu? Họ cũng mù tịt. Cái mà họ lúc nào cũng mong muốn là hơn người khác. Tại sao thế? Chỉ đơn giản là vị họ cảm thấy kém cỏi. Có thể nói là hơn lúc nào hết, tính thấp hèn lại phát triển như ngày hôm nay…

Con người có ý thức không còn nữa. Con người hiện đại thu hút sự chú ý, không phải vì lý trí hay cách suy nghĩ sáng suốt của anh ta, trái lại là vì các cảm xúc bệnh hoạn của anh ta. Các phương cách được sử dụng đôi khi thô lỗ không thể tưởng được. Ta chỉ cần nhìn vào vài khẩu hiệu quảng cáo, vài bài báo, lắng nghe vài buổi phát thanh, hay ta chỉ cần lướt nhìn qua các chồng báo hoạt hình, thì tất cả các thứ đó đã ngăn cản cái đọc có ý thức của chúng ta rồi. Chúng ta phải ghi nhận là các tổn hại đó đều dễ xúc động và phần nhiều là vô ý thức. Và đó là điều làm cho chúng ta phải lo ngại. Sự nhồi sọ thống trị như một căn bệnh truyền nhiễm và những kẻ “giật dây” đã biết rõ sức mạnh của cảm xúc.

Chúng ta sẽ thấy rằng “sự ý thức” của con người không chiếm lĩnh được nhiều chỗ trong cuộc sống. Nếu sự ý thức lớn bằng một cái hồ thì cái vô thức mênh mông như một đại dương. Chúng ta cũng sẽ nhận thấy rằng có nhiều bệnh tật được phát sinh do các xung đột giữa ý thức và vô thức. Một trong các nhiệm vụ lớn lao của tâm lý học là giúp cho con người tìm thấy được cái vô thức thật của chính mình, để làm cho nó trở nên hài hòa với các biểu hiện ý thức của cuộc sống thường nhật. Về mặt này, con người nguyên thủy của lúc ban khai vô cùng “hoàn thiện” hơn phần lớn con người văn minh của ngày hôm nay.

Chúng ta phải tìm cho được sự cân bằng và sự thích nghi. Chúng ta phải tìm lại chân lý và hạnh phúc. Tâm lý học là phương cách huấn luyện chúng ta giải tỏa để trở nên sáng suốt. Nó tách lọc các bản năng chưa được hiểu rõ hoặc kém hấp thụ. Nó cho phép các bản năng hoạt động bình thường, không để nỗi lo hãi xuất hiện. Nó gạn bỏ các nền giáo dục không hoàn thiện và các tín ngưỡng bị hiểu lệch lạc. Tâm lý học là một trường dạy chúng ta sự thoải mái và sự tự chủ, luôn cả sự thanh thản.

Nó cho phép chúng ta hiểu rõ chính con người mình, sự hòa hợp giữa tâm linh và hiện thực, nhưng muốn làm được việc này, chúng ta phải hiểu. Và muốn hiểu được chúng ta phải học.

Con người bị vây hãm.

Chúng ta hãy thí dụ một con người, không hề có một ý niệm gì về các làn sóng phát thanh. Cũng không hề biết đến các trạm phát sóng và máy thu thanh. Một hôm, người ta tặng cho anh ta một máy thu thanh và bảo anh ta rằng “nếu như anh cắm cái nút này vào trong ổ điện anh sẽ nghe được âm nhạc” Người này làm theo và nghe được nhạc. Anh ta thán phục. Anh ta không thể biết được làm cách nào người ta đã tạo được cái thứ âm nhạc đó và nó xuất phát từ đâu. Anh ta chỉ cần một cử động đơn giản là đủ rồi. Và thí dụ như anh ta sống như thế suốt cuộc đời mình và suốt thời gian đó anh chỉ nghe được có mỗi một thứ âm nhạc đó, những giọng và lời nói đó mà thôi, cùng với hoàn cảnh xã hội và chính trị cũng như về địa dư mà không hề biết sự hiện diện của hàng trăm máy phát khác, giọng nói khác cũng như các loại âm nhạc khác…

Và chúng ta hãy tưởng tượng một ngày nào đó, một kỹ thuật viên đến nhà anh ta. Con người này mừng rỡ đem ra khoe cái máy của mình. Viên kỹ thuật nhận thấy cái máy này bị bắt ngay đúng một đài phát thanh nào đó thôi, nhận thấy máy này có một cái tụ và người chuyên viên giải toả cái tụ này. Và bất ngờ hàng trăm ngôn ngữ khác, hàng trăm loại nhạc khác được phát ra. Toàn thể thế giới này được diễn ra, và con người sững sốt này mới hiểu được rằng cái mà anh cho là đang sống trong cả một thế giới thì thật sự ra chả là gì cả.

Hàng triệu người giống như nhân vật kể trên. Suốt đời bị vây hãm với vài ý nghĩ, vài ý tưởng học được, vài cử chỉ không hề thay đổi… Không hề biết mức khởi đầu cũng như điểm kết thúc. Không hề biết hết những khả năng của chính mình. Tuy vậy họ vẫn nghĩ là họ đang sống nhưng trong thực tế họ đang quay lòng vòng, giống như con cá trong chậu, cho đến khi một kỹ thuật viên xuất hiện…

Hãy là một con người có ý thức và sẵn sàng ban tặng.

Đó là sự hoàn thiện có thể có được của một đời người. Nhưng bất cứ việc thực hiện hoàn hảo nào cũng đòi hỏi các điều kiện hoàn mỹ về mặt tâm lý và sinh lý. Nó đòi hỏi con người phải toàn vẹn, không hề bị chia rẽ bởi nhiều mảnh vỡ nhỏ mang đầy mặc cảm và lo sợ (như chứng đau răng mà chúng ta thấy ở trên). Rất nhiều người nhận thấy họ đang thiếu một cái gì đó. Và phần lớn các bệnh tâm sinh lý xuất phát từ sự tìm kiếm cái đó một cách sai hướng.

Là một con người ý thức cần phải có sự hài hòa của toàn bộ con người. Sự hài hòa xuất phát từ sự gắn bó và sự gắn bó đến từ sự cân bằng. Bất cứ bệnh tật nào cũng ngăn chặn các khả năng của trí tuệ bởi vì nó chia cắt con người ra làm nhiều mảnh đồng thời chế ngư sự hài hòa. Không có sự gắn bó thì không thể nào có được một hành động thực (có nghĩa là nó thích hợp một cách hài hòa với các bản năng thầm kín của một cá thể). Đến lúc đó con người mới nhận thức được sự đối chọi giữa cái mà anh ta hành động và cái mà anh là, và anh ta đau khổ.

Không có gắn bó thì không thể nào có được tình yêu hay ngay cả tình bạn. Tình yêu có nghĩa là ban tặng và ban tặng mang ý nghĩa là ta có một cái gì đó. Và khi nói đến có một cái gì đó có nghĩa là ta rất mạnh về mặt tâm lý. Không thể nào có bất cứ một sức mạnh nào mà không có sự cân bằng. Nếu không chúng ta sẽ rơi vào cái tình yêu giả tạo, chỉ biết nhận lấy mà không thể nào biết ban tặng. Chúng ta rơi vào sự va chạm, thường được nhận thấy trong nền giáo dục lệch hướng, là nguyên nhân quan trọng đưa đến bệnh tật.

VAI TRÒ TIÊN QUYẾT CỦA GIÁO DỤC

Từng bước một, trong suốt tác phẩm này, chúng ta sẽ thấy được vai trò chủ yếu của giáo dục. Một chương sẽ được dành cho vấn đề này. Chúng ta không được quên điều đầu tiên của giáo dục là “dạy dỗ”. Nó chủ yếu áp đặt vài phản xạ cho đứa trẻ. Và các phản xạ đó sẽ vĩnh viễn cắm rễ vào đứa trẻ, tốt… hoặc xấu.

Sau đây là một hình vẽ tượng trưng cho “sự cân bằng” của hạt nhân gia đình.

 

Người ta sẽ thấy ngay một nền giáo dục hoàn thiện bắt buộc ba yếu tố phải hoàn hảo. Và, đó là một điều không tưởng. Và cho dù các bậc cha mẹ có hoàn thiện đi nữa, sự giáo dục mà họ nhận lãnh còn phải phù hợp với tính khí thầm kín của đứa trẻ nữa. Và, đó cũng là một điều không tưởng. Như thế giáo dục luôn là một giải pháp thỏa hiệp. Người ta không thể nào ứng biến thành một nhà giáo dục được. Vì vậy càng ngày càng có nhiều bậc cha mẹ hiểu được điều này và trở lại ngôi trường tâm lý học. Giáo dục có nghĩa là chuyển giao sự hiểu biết, nhưng nhất là trạng thái tâm hồn. Như vậy người ta có thể dễ dàng hiểu được là bất cứ một sai lệch nào của trạng thái đó sẽ được chuyển giao y như thế cho đứa trẻ. Nếu cha mẹ hay người giáo dục có trong mình một “lăng kính” làm biến dạng các sự việc thì cái hình ảnh méo mó đó, trong chín lần trên mười, sẽ được bàn giao y như vậy cho hậu thế.



Như thế này đây:

 

Như vậy, một nền giáo dục hoàn hảo sẽ phải được đặt trên sự cân bằng của các nhà giáo dục. Phần lớn các chứng bệnh tâm lý nơi người trưởng thành bắt nguồn từ môi trường gia đình. Giáo dục đóng vai trò của sự yêu thương, nhưng chúng ta đều biết là không thể có tình yêu thương thực thụ mà không có sự cân bằng hài hòa. Sự yêu thương đích thực luôn được ban tặng thường xuyên. Nếu không, sự yêu thương đó đôi khi được dựa vào các cảm xúc hay thôi thúc nhất thời. Nếu các cha mẹ mắc chứng suy nhược tâm lý (trầm uất, sợ hãi, yếu kém, chứng hoảng sợ, vv..), các người đó sẽ tìm cách lấp đầy sự suy nhược đó. Tại sao vậy? Để tìm sự an toàn. Người đó sẽ tìm ở đâu? Nơi đứa con mình. Người đó sẽ bám vào đứa nhỏ, bởi vì đứa nhỏ tượng trưng cho sự an toàn và che lấp sự yếu đuối đó. Trong rất nhiều trường hợp, người cha hay mẹ đó tưởng đã ban tặng nhưng trên thực tế người đó chỉ đón nhận mà thôi. Người đó tưởng đã mở rộng tầm nhìn của đứa nhỏ nhưng trên thực tế đã thu hẹp nó lại.

Vì vậy con người trước hết phải tìm sự sáng suốt và cân bằng cho chính mình. Rồi mới tính đến sự giáo dục. Chúng ta không được quên sự giáo dục là một chuỗi truyền đạt vô tận như một sợi xích mà mỗi mắt phải ở trong tình trạng hoàn hảo nhất.

 


Created by AM Word2CHM


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.