Luật Trí Não
QUY LUẬT #11 GIỚI TÍNH
Bộ não của đàn ông và phụ nữ khác nhau
Đàn ông là một đoạn xúc xích. Còn phụ nữ là đồ quỷ sứ.
Các kết quả thí nghiệm có thể được tóm tắt trong hai câu đó. Ba nhà nghiên cứu đã tạo ra một phó chủ tịch giả tưởng của một công ty sản xuất máy bay. Bốn nhóm đối tượng thí nghiệm, với số lượng cân bằng giữa nam và nữ trong mỗi nhóm, được yêu cầu đánh giá thành tích làm việc của nhân vật ảo này. Mỗi nhóm được nhận một bản mô tả ngắn gọn công việc của vị phó chủ tịch, tuy nhiên nhóm đầu tiên được cho biết rằng đó là một người đàn ông. Họ được yêu cầu đánh giá cả năng lực và tính thân thiện của ứng cử viên này. Họ nộp một bản đánh giá khá tâng bốc, đánh giá người đàn ông này “rất có năng lực” và “khá thân thiện”. Nhóm thứ hai được cho biết vị phó chủ tịch đó là một phụ nữ. Cô ta được đánh giá “thân thiện” nhưng “không thật sự có năng lực”. Mọi nhân tố khác đều như nhau. Chỉ có giới tính được nhận thức là thay đổi.
Nhóm thứ ba được thông báo rằng vị phó chủ tịch là một siêu sao nam, một tài năng sáng chói trên đà thăng tiến của công ty. Nhóm thứ tư được cho biết vị phó chủ tịch là một siêu sao nữ, cả trên đường tốc hành lẫn trong phòng rửa ráy của nhân viên công ty. Giống như các nhóm trước, nhóm thứ ba đánh giá người đàn ông “rất có năng lực” và “thân thiện”. Siêu sao nữ cũng được đánh giá là “rất có năng lực”. Tuy vậy cô không được đánh giá là “thân thiện”. Trên thực tế, những mô tả của nhóm thứ tư bao gồm các những từ ngữ như “kém thân thiện”. Như tôi đã nói, người đàn ông là một đoạn xúc xích. Người phụ nữ là đồ quỷ sứ.
Điểm mấu chốt ở đây là, thành kiến về giới tính gây tổn thương đến những con người thật sự trong các tình huống của thế giới thực. Khi chúng ta liều lĩnh lao vào lĩnh vực gây nhiều bàn cãi của các bộ não và giới tính, thì việc giữ được những ảnh hưởng xã hội trong tâm trí có tầm quan trọng đặc biệt. Có sự mơ hồ lớn trong cách thức đàn ông và phụ nữ quan hệ với nhau, thậm chí còn mơ hồ hơn về nguyên nhân của cách quan hệ đó. Cũng có sự lẫn lộn giữa các thuật ngữ, làm mờ đi ranh giới giữa các khái niệm “giới tính” và “giới”, ở đây, “giới tính” sẽ đề cập chung đến sinh học và giải phẫu. Còn “giới” sẽ đề cập chủ yếu đến những mong đợi, kỳ vọng của xã hội.
Giới tính được đặt vững chắc trong ADN. Giới thì không. Sự khác biệt giữa bộ não của đàn ông và bộ não của phụ nữ bắt đầu với cách thức đàn ông và phụ nữ quan hệ với nhau, thậm chí còn mơ hồ hơn về nguyên nhân của cách quan hệ đó. Cũng có sự lẫn lộn giữa các thuật ngữ, làm mờ đi ranh giới giữa các khái niệm “giới tính” và “giới”, ở đây, “giới tính” sẽ đề cập chung đến sinh học và giải phẫu. Còn “giới” sẽ đề cập chủ yếu đến những mong đợi, kỳ vọng của xã hội.
Giới tính được đặt vững chắc trong ADN. Giới thì không. Sự khác biệt giữa bộ não của đàn ông và bộ não của phụ nữ bắt đầu với cách thức họ đi theo hướng nào, ngay từ lúc ban đầu.
Nhân tố X
Làm sao chúng ta có thể trở thành đàn ông và phụ nữ? Con đường đi tới sự ấn định giới tính thường mở đầu bằng tất cả những gì do tình dục cuồng nhiệt kích thích. Bốn trăm triệu tinh trùng gục ngã lên nhau trong nỗ lực tìm kiếm một trứng suốt quá trình giao hợp. Nhiệm vụ không hoàn toàn khó khăn đến thế. Trong thế giới vi mô của quá trình thụ tinh thành một con người, trứng có kích thước của một Ngôi sao đã tắt và tinh trùng có kích thước của các chiến binh của đội quân X. X là một chữ thích hợp để dùng cho hoạt động này – cái tên của một nhiễm sắc thể vô cùng quan trọng mà một nửa số tinh trùng và toàn bộ số trứng đang nắm giữ. Bạn có thể nhớ lại là đã biết đến nhiễm sắc thể qua môn sinh học, các chuỗi xoắn ADN đó được gói trong các nhân chứa đựng thông tin cần thiết để tạo nên bạn. cần tới 46 chuỗi để thực hiện việc này, bạn có thể coi đó như 46 cuốn sách trong một bộ bách khoa toàn thư. Hai mươi ba đến từ mẹ và hai mươi ba đến từ bố. Cả hai bên đều là những nhiễm sắc thể giới tính. ít nhất một trong số các nhiễm sắc thể đó phải là một nhiễm sắc thể X, nếu không bạn sẽ chết.
Nếu bạn có hai nhiễm sắc thể X thì trong suốt cuộc đời mình bạn sẽ sử dụng phòng vệ sinh của nữ. Còn nếu có một X và một Y, bạn mãi mãi phải dùng phòng vệ sinh của nam. Sự ấn định giới tính này do đàn ông kiểm soát. Các bà vợ của vua Henry Vlll112ước ao giá ông biết được điều đó. Ông buộc tội một trong số họ không thể sinh con trai để kế vị ngai vàng, nhưng đáng lẽ ra ông nên buộc tội chính mình. Nhiễm sắc thể Y chỉ có thể lấy từ tinh trùng (không bao giờ có ở trứng), vậy nên đàn ông quyết định giống.
Những khác biệt về giới tính có thể được chia thành ba lĩnh vực: tính di truyền, giải phẫu thần kinh và hành vi. Các nhà khoa học thường dành cả sự nghiệp của mình để khám phá chỉ một trong ba phạm trù – mỗi khác biệt giống như một ốc đảo biệt lập giữa một đại dương nghiên cứu tổng thể. Chúng ta sẽ du hành qua cả ba lĩnh vực, bắt đầu bằng việc lý giải phân tử về nguyên nhân tại sao Henry VIII nợ Anne Boleyn113 một lời xin lỗi lớn.
Một trong những thực tế thú vị nhất về nhiễm sắc thể Y là bạn không cần tới phần lớn nhiễm sắc thể Y để tạo nên một người đàn ông. Tất cả những gì cần để đạp cần khởi động cho chương trình phát triển đàn ông là một mẩu nhỏ nằm gần chính giữa mang một gen có tên SRY114. Trong chuyến hành trình của chúng ta, chúng tan ngay lập tức khi nhận thấy Đảo Gen do một nhà khoa học cai trị, David C. Page, ông là nhà nghiên cứu đã cô lập được SRY. Dù đang ở độ tuổi 50, bề ngoài của Page chỉ khoảng 28 tuổi. Là giám đốc Viện Whitehead và là giáo sư tại MIT115, ông có một trí tuệ đáng ngưỡng mộ. ông rất quyến rũ, đồng thời ông cũng sở hữu một khiếu hài hước tinh quái luôn mới lạ. Page là nhà trị liệu giới tính phân tử đầu tiên trên thế giới. Hay, nói một cách chính xác hơn, ông là người môi giới về giới tính, ông khám phá ra bạn có thể tiêu hủy gen SRY trong phôi thai nam để có được một phụ nữ, hoặc thêm SRY vào phôi thai nữ và biến nó thành một người đàn ông (SR viết tắt của “sex reversal” đảo ngược giới tính). Tại sao bạn có thể làm được điều này? Trong một thực tế gây phiền phức cho bất kỳ ai tin rằng đàn ông được cấu tạo mạnh mẽ về sinh học để thống trị thế giới, các nhà nghiên cứu nhận ra rằng thiết lập mặc định cơ bản ở phôi thai động vật có vú là trở thành giống cái.
Có sự bất bình đẳng khủng khiếp giữa hai nhiễm sắc thể. Nhiễm sắc thể X đảm đương hầu hết mọi hoạt động phát triển nặng nhọc, trong khi nhiễm sắc thể Y nhỏ bé lại rơi rụng dần các gen kết hợp của nó với tỷ lệ khoảng năm trên một triệu năm (5/1.000.000), tự sát với tốc độ chậm. Giờ đây đã hạ xuống ít hơn 100 gen. Bằng cách so sánh, có thể thấy nhiễm sắc thể X chứa khoảng 1.500 gen, tất cả đều cần thiết để tham gia kế hoạch hình thành phôi thai. Tất cả các gen này đều không có dấu hiệu bị hư hại nào.
Chỉ với một nhiễm sắc thể X, con trai cần mọi gen X họ có thể nhận. Tuy thế, con gái lại có gấp đôi lượng cần thiết. Bạn có thể coi đó như là một công thức làm bánh đòi hỏi duy nhất một chén bột. Nếu bạn cho vào hai chén, mọi thứ sẽ biến đổi theo hướng tệ hại nhất.
Phôi thai nữ sử dụng thứ vũ khí thịnh hành một thời trong trận chiến về giới tính nhằm giải quyết vấn đề hai X: Đơn thuần lờ đi một trong số đó. Phương pháp chữa trị nhiễm sắc thể thầm lặng này gọi là sự ngừng kích hoạt X. Một trong các nhiễm sắc thể được gắn với một phân tử tương đương bằng một dấu hiệu “Đừng làm phiền”. Vì có hai X để lựa chọn, của bố hoặc mẹ, các nhà nghiên cứu muốn biết bên nào được ưu ái nhận dấu hiệu đó.
Câu trả lời hoàn toàn bất ngờ. Không có sự ưu ái nào. Một số tế bào bên trong một phôi thai nữ bé nhỏ đang phát triển gắn dấu hiệu của chúng lên X của mẹ. Các tế bào bên cạnh gắn các dấu hiệu quanh nhiễm sắc thể X của bố. ở giai đoạn nghiên cứu này, dường như chẳng có gì vô lý, nó được coi là một sự kiện ngẫu nhiên. Điều này có nghĩa là các tế bào trong phôi thai nữ là một bức tranh ghép phức tạp của cả các gen X hoạt động lẫn không hoạt động của bố và mẹ. Do con trai cần tổng cộng 1.500 gen X để tồn tại, trong khi họ chỉ có một nhiễm sắc thể X, sẽ thật ngu ngốc nếu chúng treo những chú thích “Đừng làm phiền”. Chúng không bao giờ làm thế. Việc ngưng kích hoạt X không diễn ra ở đàn ông. Và vì con trai phải lấy X từ mẹ, mọi đàn ông, với sự ngưỡng vọng nhiễm sắc thể X của họ, thật ra là Những cậu bé của mẹ đơn tính. Điều đó rất khác với các chị em gái của họ, các chị em gái thông thường phức tạp hơn. Những quả tạc đạn này mô tả phát hiện thực sự dựa trên di truyền đầu tiên của chúng ta về sự khác biệt giới tính.
Giờ đây chúng ta đã biết được chức năng của nhiều gen trong số 1.500 gen cư trú trong nhiễm sắc thể X. Nhiều gen trong số đó liên quan đến chức năng của não. Nhiều gen quản lý cách chúng ta suy nghĩ. Vào nâm 2005, hệ gen con người được tiếp nối và một tỉ lệ phần trăm lớn bất thường của các gen nhiễm sắc thể X được phát hiện ra rằng chúng tạo ra protein tham gia vào việc sản xuất của não. Một số gen này có thể liên quan đến việc thiết lập ra các chức năng nhận thức cao cấp hơn, từ kỹ năng sử dụng ngôn ngữ và hành vi xã hội cho đến các loại hình thông minh nhất định. Các nhà nghiên cứu gọi nhiễm sắc thể X là “điểm nóng” nhận thức.
Phát hiện này đại diện cho một trong những khu vực quan trọng nhất ở Đảo Gen. Nhưng đó không phải là khu vực quan trọng duy nhất và thậm chí cũng không phải là hòn đảo quan trọng nhất.
Liệu to hơn có tốt hơn?
Mục tiêu của các gen là tạo nên những phân tử làm trung gian để điều tiết các chức năng của các tế bào chứa đựng gen đó. Những tập hợp các tế bào này tạo nên giải phẫu thần kinh của não (đến lượt nó, sẽ tạo ra hành vi của chúng ta). Rời khỏi Đảo Gen, điểm dừng chân tiếp theo của chúng ta là Đảo Tế bào, nơi các nhà nghiên cứu điều tra cấu trúc lớn bên trong não hay giải phẫu thần kinh. Tại đây, thử thách thật sự là tìm kiếm các cấu trúc không bị ảnh hưởng của lượng nhiễm sắc thể giới tính.
Các phòng thí nghiệm – đứng đầu là các nhà khoa học của cả hai giới – nhận thấy sự khác biệt giữa vỏ não trán và trước trán, các vùng não kiểm soát hầu như toàn bộ khả năng đưa ra quyết định của chúng ta. Vỏ não này ở một số phần nhất định phình to hơn ở nữ so với ở nam. Có sự khác biệt dựa trên giới tính trong hệ thống rìa, hệ thống này kiểm soát đời sống tình cảm và làm trung gian cho một số kiểu học tập. Những khác biệt nổi bật nằm tại hạch hạnh, kiểm soát không chỉ sự hình thành cảm xúc mà còn cả khả năng ghi nhớ những cảm xúc đó. Trái với định kiến xã hội hiện nay, khu vực này ở đàn ông lớn hơn ở phụ nữ rất nhiều. Khi nghỉ ngơi, các hạch hạnh của nữ giới hầu như có khuynh hướng trò chuyện với bán cầu não trái trong khi hạch hạnh của nam giới hầu hết trao đổi với bán cầu não phải. Các tế bào não liên lạc thông qua các chất sinh hóa và những tế bào này cũng có sự khác biệt ở hai giới tính. Quá trình điều chuyển chất truyền dẫn thần kinh diễn ra khá nhanh. Chất truyền dẫn là then chốt đối với sự điều chỉnh cảm xúc và tâm trạng (Prozac116 hoạt động bằng cách biến đổi sự tuần hoàn của chất dẫn truyền thần kinh này). Nam giới có thể tổng hợp ra chất truyền dẫn thần kinh nhanh hơn khoảng 52% so với nữ giới. Liệu những khác biệt tự nhiên này có ý nghĩa gì không? ở động vật, kích cỡ các cấu trúc phản ánh tầm quan trọng tương đối của chúng đến sự sinh tồn. Các thí dụ về con người thoạt trông có vẻ như tuân theo một khuôn mẫu giống nhau. Chúng ta đã nhận thấy rằng các nhạc công violon có những vùng não lớn hơn, dành cho việc điều khiển tay trái của họ thuận hơn tay phải. Thế nhưng các nhà khoa học thần kinh gần như quên mất mối quan hệ của cấu trúc với chức năng. Chúng ta thật sự không biết liệu những khác biệt trong phân phát chất dẫn truyền thần kinh, hay trong kích thước của một vùng não có ý nghĩa quan trọng nào không.
Lời cảnh báo đó không thể ngăn các nhà khoa học trí não theo đuổi câu hỏi về những khác biệt trong hành vi ứng xử và chúng cũng sẽ không thể cản bước chúng ta. Hãy thắt chặt dây an toàn và sập cửa chiếc Kevlar vì chúng ta sắp đáp xuống một hòn đảo ồn ã nhất và cũng trí tuệ nhất trong hành trình tưởng tượng của chúng ta. Đó là Đảo Hành vi.
Trận chiến giới tính
Tôi thật sự không muốn viết về điều này, vì việc xác định đặc điểm của các hành vi dựa theo giới tính có một lịch sử lâu dài và rắc rối nhất. Ngay cả các cơ quan nghiên cứu có những nhà khoa học trí não xuất sắc nhất cũng không phải ngoại lệ. Larry Summer là Chủ tịch Đại học Harvard, ông cho rằng phụ nữ đạt điểm toán và khoa học thấp hơn là do di truyền về hành vi, và lời bình luận này khiến ông phải trả giá bằng sự nghiệp của mình. Hãy xem xét ba trích dẫn sau:
“Phụ nữ là một người đàn ông yếu đuối, không thể sản xuất tinh dịch vì bản chất lạnh lẽo của mình. Vì thế chúng ta nên coi trạngthái đàn bà như một tình trạng không tròn trĩnh, dù cho điều này xảy ra trong tiến trình bình thường của tự nhiên.
Aristotle (384-332 TCN) “Phụ nữ biết nói và biết đi sớm hơn đàn ông vì cỏ dại luôn mọc nhanh hơn cây trồng.”
Martin Luther117 (1483-1546) “Nếu có thể đưa một người đàn ông lên mặt trảng… tại sao lại không đưa tắt cả đàn ông lên đó?” Jill (1985, chữ viết trên tường phòng tắm, đáp lại câu trích dẫn của Luther) Trận chiến mệt mỏi về giới tính vẫn tiếp tục. Quãng thời gian gần 2400 năm cách biệt giữa Aristotle và Jill đã trôi qua, nhưng chúng ta thật sự chuyển biến rất chậm. Sử dụng các phép ẩn dụ như sao Kim và sao Hỏa, một số người có ý định mở rộng những khác biệt trong nhận thức thành lời chỉ dẫn cho các mối quan hệ. Và đây là một kỷ nguyên tiến bộ nhất về mặt khoa học trong lịch sử loài người.
Tôi luôn cho rằng nên đưa ra các số liệu thống kê.
Có rất nhiều khác biệt trong lối suy nghĩ của đàn ông và phụ nữ về một số lĩnh vực. Tuy nhiên, khi mọi người nghe nói tới những khác biệt có thể thấy được, họ thường cho rằng các nhà khoa học đang nói về các cá nhân, chẳng hạn như chính bản thân họ. Đó là sự nhầm lẫn lớn. Khi các nhà khoa học xem xét xu hướng hành xử, họ không nhìn vào cá nhân. Họ nhìn vào một nhóm dân số. số liệu thống kê trong các nghiên cứu này không bao giờ tương ứng với cá nhân. Các xu hướng nổi lên, tuy nhiên có rất nhiều phương án trong nhóm dân số đó, và thường có sự chồng chéo lớn giữa hai giới. Đúng là mỗi khi nhà khoa học thần kinh Flo Haseline tiến hành một fMRI, bà nhận thấy những phần khác nhau của não vẫn có phản ứng, phụ thuộc vào việc bộ não mà bà đang quan sát là của nam hay nữ. Chính xác thì điều đó có liên quan thế nào đến hành vi của bạn? Đó vẫn là một câu hỏi hoàn toàn độc lập.
Những manh mối đầu tiên
Hiểu biết của chúng ta về nguồn gốc sinh học của sự khác biệt trong hành vi ứng xử giữa nam và nữ bắt đầu với những bệnh lý của não.
Trong đại bộ phận dân số, căn bệnh kém phát triển trí tuệ ở nam giới phổ biến hơn ở nữ giới. Nhiều căn bệnh loại này hình thành do sự biến đổi bất kỳ gen nào trong số 24 gen nằm trong nhiễm sắc thể X. Như bạn đã biết, nam giới không có X dự phòng. Nếu X của họ bị tổn hại, họ sẽ phải chịu hậu quả. Nếu X của phụ nữ bị tổn hại, họ thường chịu hậu quả ít hơn hoặc nhẹ hơn. Đây là một trong những bằng chứng thuyết phục nhất cho thấy sự tham gia của nhiễm sắc thể X vào chức năng của não, và do đó vào hành vi của não.
Các chuyên gia về sức khỏe tinh thần đã biết tới sự khác biệt dựa trên giới tính giữa các kiểu rối loạn tâm thần và mức độ nghiêm trọng của chúng từ nhiều năm nay. Ví dụ như, bệnh tâm thần phân liệt ảnh hưởng nghiêm trọng tới nam giới hơn nữ giới.
Nhưng phụ nữ dễ rơi vào trạng thái tuyệt vọng hơn nam giới, với tỷ lệ 2:1, số liệu này dễ nảy sinh sau tuổi dậy thì và còn đúng cho 50 năm tiếp theo. Đàn ông có biểu hiện khó gần hơn. Phụ nữ lo lẳng nhiều hơn. Hầu hết những người nghiện rượu và ma túy đều là nam giới. Đa số những người mắc bệnh chán ăn là phụ nữ. Thomas Insel – chuyên gia của Viện Sức khỏe Tâm lý Quốc gia đã từng phát biểu: “Rất khó để tìm được một nhân tố nào dễ dự đoán về một số rối loạn tâm thần hơn giới tính”.
Thế còn hành vi thông thường? Ba hòn đảo nghiên cứu có rất ít cầu nối với nhau. Tuy nhiên, có ba dự án bắc cầu và chúng ta sẽ nói tới hai dự án tốt nhất.
Đương đàu với các ca chấn thương tâm lý Thật là một cảnh tượng khủng khiếp. Một cậu bé bị ôtô cán khi đang đi bộ cùng bố mẹ. Nếu bạn đã từng chứng kiến cảnh tượng đó, bạn sẽ không thể nào quên được. Nhưng nếu bạn có thể quên thì sao? Hạch hạnh của não giúp tạo ra các cảm xúc và khả năng ghi nhớ những cảm xúc đó. Giả dụ có một thần dược kỳ diệu có thể chặn đứng được điều đó trong chốc lát thì sao? Nếu thần dược đó tồn tại, nó sẽ được dùng để chỉ ra những khác biệt trong việc xử lý cảm xúc ở nam và nữ.
Có thể bạn từng nghe nói đến khái niệm não trái đối lập với não phải. Bạn cũng từng nghe nói rằng điều này có nghĩa là những người sáng tạo đối lập với những người có khả năng phân tích. Đó là lời đồn thổi trong dân gian, tương tự như việc nói rằng bên trái của một con tàu sang trọng chịu trách nhiệm giữ cho con tàu không bị chìm, còn bên phải phụ trách việc đưa con tàu di chuyển trên mặt nước.
Cả hai phía đều tham gia vào cả hai quá trình. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các bán cầu não cũng tương tự như vậy. Não bên phải có khuynh hướng ghi nhớ đặc điểm chính của một trải nghiệm, trong khi não bên trái thường ghi nhớ các chi tiết của trải nghiệm đó.
Nhà nghiên cứu Larry Cahill118 đã quan sát bộ não của cả nam giới lẫn phụ nữ trong tình trạng căng thẳng cực độ (ông cho họ xem những bộ phim đầy bạo lực) và ông nhận thấy: Đàn ông xử lý trải nghiệm này bằng cách kích động hạch hạnh ở bán cầu não phải của họ. Bán cầu não trái của họ tương đối im ắng. Phụ nữ xử lý trải nghiệm này bằng bán cầu não ngược lại. Họ kích động hạch hạnh ở bán cầu não trái, còn bán cầu não phải thì tương đối im ắng. Nếu đàn ông kích động bán cầu não phải (bộ máy “nắm ý chính”) thì liệu có phải là họ ghi nhớ ý chính hơn là chi tiết của một trải nghiệm cảm xúc nào đó liên quan tới sự căng thẳng? Có phải phụ nữ ghi nhớ nhiều chi tiết hơn đặc điểm chính của một trải nghiệm cảm xúc có liên quan tới sự căng thẳng? Cahill quyết định tìm ra điều này.
Thứ thần dược lãng quên kỳ diệu đó, một loại thuốc có tên là propranolol (thuốc điều chỉnh nhịp tim), thường được dùng để điều hòa huyết áp. Là một loại thuốc giảm hoạt động của tim, nó cũng tạo ra chất điện hóa thường kích hoạt hạch hạnh trong suốt các trải nghiệm cảm xúc. Loại thuốc này được xem như một cách điều trị tiềm năng những rối loạn có liên quan đến trận chiến giới tính nói trên.
Cahill cho các đối tượng nghiên cứu uống thứ thuốc này trước khi họ xem bộ phim gây chấn động tâm lý. Một tuần sau đó, ông kiểm tra ký ức của họ về bộ phim. Rõ ràng là, những người đàn ông đã uống thuốc mất khả năng nhớ lại nội dung chính của cốt truyện, khi so sánh với những người đàn ông không uống thuốc. Phụ nữ mất khả năng nhớ lại các chi tiết. Cần tránh suy diễn quá mức các dữ liệu này. Kết quả thu được rõ ràng chỉ xác định những phản hồi cảm xúc đối với các tình huống căng thẳng chứ không xác định được các chi tiết và phần tóm tắt. Đây không phải là một cuộc chiến giữa các kế toán viên với những người hay mơ mộng.
Kết quả nghiên cứu của Cahill đã định hướng cho các phát hiện tương tự trên thế giới. Những phòng thí nghiệm khác đã mở rộng công trình của ông và nhận thấy rằng phụ nữ nhớ lại được nhiều sự việc tự sự nhiều cảm xúc hơn, nhanh hơn và với cường độ lớn hơn so với đàn ông. Phụ nữ luôn tường thuật lại nhiều ký ức sống động hơn đối với các sự việc quan trọng có tính cảm xúc như một cuộc cãi vã mới đây, buổi hẹn hò đầu tiên hay một kỳ nghỉ. Các nghiên cứu khác chỉ ra rằng, khi bị căng thẳng, phụ nữ thường tập trung vào việc nuôi dạy con cái trong khi đàn ông có khuynh hướng chạy trốn. Khuynh hướng này ở phụ nữ đôi khi được gọi là “chăm sóc và giúp đỡ”. Nguồn gốc của nó vẫn là một điều bí ẩn, và để lý giải điều này, Stephen Jay Gould119 đã từng nói: “Không thể tách rời logic, toán học với khoa học.” Trích dẫn này làm tôi nhớ đến lúc hai đứa con trai đang đánh nhau, tuy vậy Gould thật ra đang nói về sự đối lập giữa bản chất lâu đời và sự tranh luận về việc nuôi dưỡng.
Giao tiếp bằng ngôn ngữ Nhà nghiên cứu hành vi Deborah Tannen120 đã thực hiện một công trình thú vị trong lĩnh vực này, đó là nghiên cứu sự khác biệt giới tính trong khả năng sử dụng ngôn ngữ. Đây là phiên bản Cliff Notes121 của Tannen và phát hiện của các cá nhân khác qua 30 năm: “Phụ nữ giỏi hơn trong việc sử dụng ngôn ngữ.” Dù các đặc trưng thường gây tranh luận, nhưng hầu hết sự ủng hộ về thực nghiệm đến từ những lĩnh vực khác thường, bao gồm cả môn bệnh học não. Từ nhiều năm nay, chúng ta đã biết rằng sự rối loạn trong ngôn ngữ và trong việc đọc thường xảy ra với các cậu bé, với mức độ cao gấp gần hai lần so với các cô bé.
Sau cơn đột quỵ, phụ nữ hồi phục chức năng ngôn ngữ tốt hơn đàn ông. Nhiều nhà nghiên cứu ngờ vực rằng, có những khác biệt như thế là do sự khác biệt về nhận thức thông thường. Họ thường viện dẫn các dữ liệu giải phẫu thần kinh để giải thích cho sự khác biệt này: Phụ nữ có khuynh hướng dùng tới cả hai bán cầu não khi nói và khi xử lý thông tin ngôn ngữ. Đàn ông thường chỉ dùng một bán cầu não. Phụ nữ thường có những dây nối to chắc giữa hai bán cầu não. Những sợi dây nối của đàn ông thường mỏng manh hơn. Dường như phụ nữ sở hữu hệ thống nhiễm sắc thể dự phòng mà đàn ông không có.
Những dữ liệu lâm sàng này được sử dụng để hỗ trợ cho các phát hiện đầu tiên của các nhà giáo dục. Các cô bé dường như sử dụng ngôn từ tinh tế hơn so với các cậu bé khi chúng học trong cùng một hệ thống giáo dục. Các cô bé làm tốt hơn trong việc ghi nhớ ngôn từ, trong những nhiệm vụ cần sử dụng ngôn từ và đọc trôi chảy hơn các cậu bé.
Khi những cô bé này lớn lên, chúng vẫn là những nhà vô địch trong việc xử lý thông tin về ngôn ngữ. Những dữ liệu này có vẻ khá trung thực, tuy nhiên hầu hết chúng đều không thể tách biệt khỏi bối cảnh xã hội. Đó là lý do tại sao lời bình luận của Gould thật hữu ích.
Tannen đã dành một thời gian dài quan sát và ghi hình cách thức các cô bé và các cậu bé tương tác với nhau. Nghi vấn ban đầu của bà là tìm ra cách các cô bé, cậu bé ở những độ tuổi khác nhau trò chuyện với bạn thân của chúng, và liệu có những khuôn mẫu nào không. Nếu tìm được một số khuôn mẫu, bà cũng muốn biết được mức độ bền vững của chúng. Liệu các khuôn mẫu phát hiện thấy ở học sinh phổ thông có giống ở học sinh cao đẳng không? Các khuôn mẫu bà phát hiện đều dễ dự đoán và khá bền vững, không phụ thuộc vào tuổi tác và hoàn cảnh địa lý. Các kiểu đối thoại mà chúng ta phát triển khi đã trưởng thành có nguồn gốc trực tiếp từ mối tương tác trong cùng giới tính mà chúng ta đã củng cố khi còn thơ bé.
Phát minh của Tannen tập trung vào ba lĩnh vực.
Những mối quan hệ khăng khít Khi những người bạn gái thân thiết giao tiếp với nhau, họ nghiêng người, duy trì giao tiếp bằng ánh mắt và nói rất nhiều. Họ sử dụng năng khiếu ngôn ngữ tinh tế để gắn kết các mối quan hệ của họ. Các chàng trai không bao giờ làm như vậy. Họ hiếm khi nhìn thẳng vào mắt nhau, thường ưa thích các góc nhìn chếch hoặc song song. Họ ít giao tiếp bằng mắt, luôn nhìn quanh phòng. Họ không sử dụng thông tin ngôn ngữ để gắn bó các mối quan hệ. Thay vào đó, sự náo nhiệt dường như là phổ biến trong xã hội của các cậu bé. Cùng nhau làm mọi việc là chất kết dính giữ cho các mối quan hệ của các cậu bé bền chặt.
Các con trai tôi, Josh và Noah, luôn chơi một trò chơi tranh tài từ khi chúng mới biết đi. Một trò chơi điển hình là trò ném bóng. Josh sẽ nói: “Anh có thể ném quả bóng này đụng trần”, và ngay tức khắc làm đúng như thế. Rồi chúng phá ra cười. Noah đáp lại bằng cách bắt trái bóng và nói: “Thật thế à? Em có thể ném nó lên trời” rồi ném quả bóng lên cao hơn. Trò chơi kèm theo những tràng cười, sẽ tiếp diễn cho đến khi quả bóng của chúng chạm tới “ngân hà” hay được một phần thưởng lớn.
Tannen nhận thấy kiểu mẫu bất biến này xuất hiện ở mọi nơi bà quan sát – ngoại trừ khi quan sát các bé gái. Kiểu mẫu của phụ nữ cũng tương tự. Cô chị nói: “Chị có thể cầm quả bóng này và ném lên trần nhà”, và rồi cô thực hiện việc này ngay tức khắc. Cô cùng các chị em đều cười vang. Cô em sẽ chộp lấy quả bóng, ném nó đụng trần và nói: “Em cũng làm được!” Sau đó họ sẽ cùng bàn luận về việc họ có thể cùng ném trái bóng lên một độ cao như nhau một cách điềm tĩnh như thế nào. Kiểu mẫu này kéo dài đến khi cả hai giới đều trưởng thành. Các dữ liệu của Tannen không may đã bị hiểu sai là “các cậu bé luôn tranh chấp, còn các cô bé luôn hợp tác”. Tuy nhiên, ở ví dụ này, các cậu bé rất có tinh thần hợp tác với nhau. Đơn giản là, chúng biểu hiện điều này qua sự tranh đua, sử dụng chiến lược ưa thích của hoạt động cơ thể của mình.
Dàn xếp ngôi thứ
Khi học tiểu học, cuối cùng thì các cậu bé cũng bắt đầu sử dụng các kỹ năng ngôn từ của mình cho một điều gì đó: dàn xếp ngôi thứ trong một nhóm lớn. Tannen nhận thấy những cậu bé có thứ bậc cao dùng lời lẽ ra lệnh cho những đứa còn lại trong nhóm, hay thậm chí xô đẩy những cậu bé có thứ bậc thấp hơn xung quanh. Các “nhà lãnh đạo” sẽ duy trì lãnh địa của mình không chỉ bằng cách đưa ra mệnh lệnh mà còn đảm bảo các mệnh lệnh phải được thi hành. Những thành viên mạnh mẽ khác sẽ cố thử thách họ, do đó các cậu bé lãnh đạo học hỏi rất nhanh để chinh phục các thử thách. Điều này cũng thường được tiến hành bằng ngôn từ. Kết quả là ngôi thứ giữa các cậu bé được phân cấp rõ ràng, và cũng rất khó khăn. Cuộc sống của một cậu bé có địa vị thấp thường thật đáng thương. Cách hành xử độc lập là một đặc tính kiểm soát hàng đầu, thường được đánh giá cao.
Tannen phát hiện nhiều hành vi rất khác nhau khi quan sát các cô bé. Cũng có những cô bé có ngôi thứ cao và các cô bé có ngôi thứ thấp giống như các cậu bé. Nhưng chúng dùng các chiến thuật khác nhau, khá ấn tượng để tạo ra và duy trì ngôi thứ của mình. Các cô bé dành nhiều thời gian để trò chuyện. Việc bạn chọn ai để kể những điều bí mật của mình sẽ quyết định tình trạng “bạn thân”. Càng tiết lộ nhiều bí mật, các cô bé càng dễ coi người kia là thân thiết. Các cô bé có khuynh hướng giảm nhẹ ngôi thứ của mình trong trường hợp này. Khi sử dụng khả năng ngồn ngữ tinh tế của mình, các cô bé thường không đưa ra những mệnh lệnh đầy uy quyền từ trên truyền xuống. Nếu một trong các cô bé thử ra lệnh, kiểu cách đó thường bị từ chối: Cô bé sẽ bị dán nhãn “hách dịch” và bị nhóm cô lập. Không phải là không có những quyết định kiểu đó. Nhiều thành viên của nhóm sẽ đề xuất, sau đó thảo luận sự lựa chọn người thay thế. Cuối cùng dẫn đến sự nhất trí.
Khác biệt giữa hai giới có thể được mô tả bằng sự bổ sung một từ ngữ đầy quyền lực. Các cậu bé có thể nói “Làm việc này đi”. Các cô bé sẽ nói: “Chúng ta hãy cùng làm việc này đi”.
Khi trưởng thành Tannen nhận thấy qua thời gian, cách sử dụng ngôn ngữ này ngày càng được củng cố, kích thích sự nhạy cảm xã hội khác nhau trong cả hai nhóm. Bất kỳ cậu bé nào đưa ra mệnh lệnh đều là người lãnh đạo. Bất kỳ cô bé nào đưa ra mệnh lệnh đều là kẻ hách dịch. Khi học cao đẳng, hầu hết những kiểu cách này được củng cố hơn. Đó là khi thể hiện những vấn đề dễ nhận thấy, ở nơi làm việc và trong hôn nhân.
Một cô gái độ 20 tuổi, mới làm đám cưới, đang lái xe cùng cô bạn gái thân tên là Emily. Cô cảm thấy khát nước: “Emily, cậu có khát không?” cỏ hỏi bạn mình. Với bề dày kinh nghiệm về dàn xếp bằng ngôn ngữ, Emily biết bạn cô muốn gì. “Mình không biết. Cậu có thấy khát không?” cô đáp. Sau đó diễn ra một cuộc thảo luận nhỏ về việc cả hai có thấy quá khát và cần dừng xe để mua nước uống không.
Vài ngày sau, cô gái đó đi cùng chồng. “Anh có khát không?” – cô hỏi. “Không, anh không thấy khát.” – người chồng trả lời. Hôm đó giữa họ thật sự đã nổ ra một cuộc cãi vã. Cô gái bực mình vì cô muốn dừng xe; anh chồng khó chịu vì cô cứ úp mở. Theo thời gian, kiểu xung đột này sẽ ngày càng quen thuộc trong cuộc hôn nhân của họ.
Những kịch bản như vậy có thể dễ dàng diễn ra trong công ty. Phụ nữ hành xử theo kiểu lãnh đạo “của đàn ông” thường có nguy cơ bị đánh giá là hách dịch. Đàn ông hành xử tương tự lại thường được ngợi ca là quyết đoán. Đóng góp to lớn của Tannen cho thấy những khuôn mẫu này hình thành từ rất sớm trong sự phát triển của xã hội chúng ta, có lẽ được trợ giúp từ sự phát triển ngôn ngữ không đối xứng. Những khuôn mẫu đó không phụ thuộc vào hoàn cảnh địa lý, tuổi tác và thậm chí cả thời gian nữa. Tannen, cũng là một chuyên gia về văn học Anh, thấy khuynh hướng này đã có trong các bản thảo viết tay có từ nhiều thế kỷ trước.
Bản chất hay giáo dục?
Những phát hiện của Tannen là các khuôn mẫu có tính thống kê, không phải là một hiện tượng “tất cả hoặc không gì cả”. Bà nhận thấy có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới các kiểu mẫu ngôn ngữ của chúng ta. Bối cảnh khu vực, tính cách cá nhân, nghề nghiệp, giai tầng xã hội, tuổi tác, dân tộc và thứ tự chào đời trong gia đình đều ảnh hưởng đến cách chúng ta sử dụng ngôn ngữ để dàn xếp các nền sinh thái xã hội của chúng ta. Các cô bé, cậu bé bị xã hội phân biệt đối xử ngay từ khi mới chào đời, và chúng thường được nuôi dạy trong xã hội đầy những định kiến sâu sắc có từ nhiều thế kỷ. Sẽ là một điều kỳ diệu nếu bằng cách nào đó chúng ta vượt qua những trải nghiệm nhận thức từ trước đến nay, và cư xử với nhau một cách bình đẳng.
Dựa trên ảnh hưởng của văn hóa ứng xử, thật quá đơn giản để viện dẫn sự lý giải sinh học thuần túy cho các quan sát của Tannen. Dựa vào ảnh hưởng to lớn của sinh học não đến hành vi ứng xử, cũng thật đơn giản để viện dẫn cách lý giải xã hội thuần túy. Câu trả lời thật sự cho câu hỏi bản chất hay giáo dục này là “Chúng ta không biết được”. Điều này có thể gây thất vọng. Tất cả mọi người đều muốn bắc những cây cầu nối các hòn đảo nói trên với nhau. Cahill, Tannen và nhiều người khác đã nỗ lực hết mình để đem đến cho chúng ta những tấm ván và những chiếc đinh. Tuy vậy, điều đó không giống với việc nói rằng các mối liên hệ đang tồn tại. Việc tin rằng có mối liên kết mạnh mẽ giữa các gen và các tế bào với các hành vi ứng xử khi không có bất kỳ thứ gì không chỉ sai trái mà còn nguy hiểm. Hãy hỏi Larry Summers122.
Những ý tưởng
Chúng ta sẽ sử dụng những dữ liệu này như thế nào trong thực tế?
Láy thực tế từ cảm xúc Làm việc với đời sống tình cảm của cả nam lẫn nữ là một phần lớn trong công việc của giáo viên và chuyên viên kinh doanh. Họ cần phải biết rằng:
1. Cảm xúc rất hữu ích. Chúng thu hút sự chú ý của bộ não.
2. Nam giới và nữ giới xử lý các cảm xúc nhất định khác nhau.
3. Khác biệt là một sản phẩm của mối tương tác phức tạp giữa bản chất và giáo dục.
Cố gắng sắp đặt giới tính khác biệt trong lớp học Giáo viên lớp ba của con trai tôi bắt đầu nhận thấy một khuôn mẫu ngày càng tồi tệ hơn khi năm học tiếp diễn. Các cô bé xuất sắc trong môn văn, còn các cậu bé thì hướng tới môn toán và khoa học. Đây mới chỉ là lớp ba.
Những khác biệt trong môn văn làm cô giáo phải suy nghĩ. Tuy nhiên, cô biết rằng không có một sự trợ giúp thống kê nào cho cuộc tranh chấp về việc nam giới thường có năng khiếu toán và khoa học hơn nữ giới. Tại sao chính cô đang duy trì sự tồn tại của một khuôn mẫu?
Cô giáo đoán rằng một phần của câu trả lời nằm trong sự tham gia mang tính tập thể của học sinh trong suốt buổi học. Khi giáo viên đặt câu hỏi cho cả lớp, việc ai trả lời trước tiên hóa ra lại trở nên quan trọng đến khó tin. Trong môn văn, các cô bé luôn trả lời trước tiên. Những cô bé khác phản ứng lại bản năng tham gia đó bằng cách giơ tay và nói “em nữa”. Đối với các cậu bé, phản ứng có tính ngôi thứ. Các cô bé thường trả lời đúng, còn các cậu bé thường sai, và bọn con trai phản ứng bằng cách làm những gì mà một cậu bé có ngôi thứ thấp thường hay làm: Đó là rút lui. Một lỗ hổng trong thành tích học tập nhanh chóng xuất hiện. Trong môn toán và khoa học, các cậu bé và các cô bé đều có khả năng trả lời trước tiên. Tuy nhiên, khi tham dự, các cậu bé đã sử dụng kiểu đối thoại “đứng đầu lớp” quen thuộc, cố gắng tạo ra một hệ thống thứ bậc dựa trên năng lực hiểu biết. Điều này bao gồm cả việc hạ gục bất kỳ ai không dẫn đầu, kể cả con gái. Hơi hoang mang, các cô bé bắt đầu rút lui, không tham gia vào các môn đó nữa. Một lần nữa, lỗ hổng thành tích học tập lại xuất hiện.
Cô giáo tổ chức buổi họp mặt giữa các cô bé để kiểm chứng những điều mình đã quan sát được. Sau đó, cô đòi hỏi cả nhóm nhất trí về việc họ nên làm. Các cô bé quyết định rằng, họ không muốn học toán và khoa học cùng các cậu bé. Trước đây, đã từng có một lời biện hộ thuyết phục cho các lớp học kết hợp cả hai giới, cô giáo băn khoăn tự hỏi liệu điều đó có ý nghĩa gì không Thật sự nếu các cô bé bắt đầu thua trong trận chiến toán và khoa học ở lớp ba, cô giáo lập luận rằng, các cô bé sẽ khó có thể giỏi mồn này trong những năm tiếp theo. Cô đã giúp đỡ chúng. Chỉ mất hai tuần để lấp đầy lỗ hổng thành tích.
Liệu kết quả mà người giáo viên trên đạt được có thể áp dụng cho mọi lớp học trên toàn thế giới? Thật ra, thí nghiệm không hoàn toàn là một kết quả, mà nó chỉ là một lời bình luận. Đây không phải một trận chiến có thể chiến thắng bằng cách kiểm tra một lớp học chỉ trong một năm học. Đây là một trận chiến chỉ có thể chiến thắng một cách đúng đắn bằng cách kiểm tra hàng trăm lớp học và hàng nghìn học sinh ở nhiều nơi trên thế giới, với thời gian kéo dài nhiều năm.
Sử dụng các đội hai giới tính tại nơi làm việc Một hôm, tôi nói chuyện về giới tính với một nhóm nhân viên đang trong quá trình đào tạo tại Trung tâm Lãnh đạo Boeing tại St. Louis.
Sau khi đưa ra một số dữ liệu của Larry Cahill về điểm chính và chi tiết, tôi nói: “Đôi khi phụ nữ bị buộc tội vì giàu cảm xúc hơn đàn ông, từ gia đình cho đến nơi làm việc. Tôi cho rằng phụ nữ có thể là những người giàu cảm xúc nhất trên thế gian này.” Tôi giải thích rằng, do phụ nữ nhận thức được lĩnh vực cảm xúc của họ có nhiều điểm dữ liệu hơn (đó là chi tiết), và họ xem xét nó với độ phân giải lớn hơn, phụ nữ có thể đơn thuần có nhiều thông tin hơn về những gì họ có thể phản ứng. Nếu đàn ông nhận thức được mình cũng có cùng số lượng điểm dữ liệu, họ có thể có cùng số lượng phản ứng. Hai người phụ nữ ở hàng ghế cuối bắt đầu khóc thổn thức. Sau bài nói chuyện, tôi hỏi họ về những phản ứng của họ, vì tôi lo rằng có thể đã làm cho họ bị tổn thương. Nhưng điều họ nói đã làm tôi choáng váng: “Đó là lần đầu tiên trong sự nghiệp của mình”, một trong hai người nói, “tôi không cảm thấy phải xin lỗi ai về con người mình.”
Điều đó khiến tôi suy nghĩ rất lung. Trong lịch sử tiến hóa của chúng ta, việc một nhóm có thể cùng lúc hiểu được điểm chính và chi tiết của một tình huống căng thẳng nào đó giúp chúng ta thống trị thế giới. Tại sao thế giới kinh doanh không có được lợi thế đó? Có một đội ngũ nhân viên hay một nhóm làm việc có khả năng thấu hiểu cùng lúc cả những khu rừng cảm xúc lẫn những cây cổ thụ của dự án gây căng thẳng, chẳng hạn như một sự sáp nhập, có thể là một cuộc kết hôn trong môi tường kinh doanh. Thậm chí, nó có thể tác động đến kết luận cuối cùng.
Các công ty thường tiến hành đào tạo quản lý bằng sự mô phỏng tình huống.
Họ có thể tạo ra một đội có giới tính hỗn hợp và một đội chỉ có một giới nam hoặc giới nữ, rồi yêu cầu họ cùng làm một dự án như nhau. Chọn hai nhóm khác, nhưng trước tiên dạy cho họ biết những khác biệt về giới tính trước khi cùng làm một dự án. Bạn có bốn kết quả đầy tiềm năng. Liệu các nhóm có giới tính hỗn hợp có làm tốt hơn các nhóm đơn tính? Liệu các nhóm được đào tạo về giới có thể thực hiện tốt hơn các nhóm không được đào tạo? Liệu những kết quả này có bền vững hay không, trong sáu tháng thôi chẳng hạn? Bạn có thể nhận thấy các đội quản lý với sự cân bằng về giới (hay cân bằng về điểm chính và chi tiết) có thể đạt được năng suất làm việc cao nhất. ít nhất, điều này có nghĩa là cả đàn ông và phụ nữ đều có quyền bình đẳng trong bàn đàm phán đưa ra quyết định.
Có thể có những nơi, ở đó sự khác biệt giới tính được chú ý và hoan nghênh, hoặc ngược lại, bị thờ ơ và coi thường. Nếu việc này được thực hiện sớm hơn, thì giờ đây chúng ta đã có thể có nhiều phụ nữ trong các ngành khoa học và cơ khí hơn. Chúng ta có thể đạp bỏ được cái khuôn mẫu chẳng hay ho gì đó, và tiết kiệm được rất nhiều kinh phí cho các công ty. Và, thậm chí điều đó còn có thể cứu vớt được sự nghiệp của vị Chủ tịch Đại học Harvard.
Tóm lược Quy luật #11
BỘ NÃO CỦA ĐÀN ÔNG VÀ PHỤ NỮ KHÁC NHAU
• Đàn ông có một nhiễm sắc thể X và phụ nữ thì có hai, mặc dù hoạt động như nhiễm sắc thể dự phòng. Đó là một “điểm nóng” về nhận thức, chứa một tỉ lệ phần trăm lớn khác thường các gen tham gia vào sự sản xuất của não.
• Về mặt di truyền, phụ nữ phức tạp hơn đàn ông vì các nhiễm sắc thể X hoạt động trong các tế bào là sự pha trộn của cả bố lẫn mẹ. Các nhiễm sắc thể X của đàn ông đều bắt nguồn từ mẹ và nhiễm sắc thể Y của họ chứa ít hơn 100 gen, so với 1.500 gen trong nhiễm sắc thể X.
• Bộ não của nam và nữ khác biệt về cáu trúc và sinh hóa – nam giới có hạch hạnh lớn hơn và sản sinh chất truyền dẫn thần kinh nhanh hơn. Tuy nhiên, chúng ta không biết được liệu những khác biệt đó có quan trọng hay không.
• Nam và nữ phản ứng khác nhau với sự căng thẳng cao độ: Phụ nữ kích hoạt hạch hạnh ở bán cầu não trái và ghi nhớ các chi tiết có tính cảm xúc. Đàn ông sử dụng hạch hạnh bên phải và nắm bắt được các ý chính.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.