Nghệ Thuật Tạo Hạnh Phúc

CHƯƠNG 6 LÀM ĐẰM THẮM THÊM QUAN HỆ CỦA CHÚNG TA VỚI NGƯỜI KHÁC



Một buổi chiều sau bài thuyết trình trước công chúng của Ngài, tôi đến phòng của Ngài tại khách sạn như đã được hẹn vào mỗi ngày, tôi đến sớm hơn một chút. Người thị giả kín đáo ra gặp tôi tại hành lang và cho tôi biết Ngài đang bận tiếp kiến riêng và ít phút nữa tôi mới vào được. Tôi làm ra vẻ vị trí quen thuộc của tôi là bên ngoài cửa phòng khách sạn và dùng thời gian này để kiểm lại những ghi chú sửa soạn cho cuộc hội kiến này, đồng thời cố gắng tránh cái nhìn chằm chằm nghi ngờ của người lính gác – cùng một cái nhìn như vậy vào những học sinh cấp 2 đang lảng vảng quanh giá tạp chí của những người bán hàng trong tiệm đồ tiện dụng.

 

 

Chỉ một lúc, cửa mở và một cặp vợ chồng tuổi trung niên ăn mặc lịch sự bước ra. Trông họ rất quen thuộc. Tôi nhớ tôi được giới thiệu vắn tắt với họ một vài ngày trước đây. Tôi được biết người vợ là một người thừa kế nổi tiếng và người chồng rất giàu có, một luật sư tăm tiếng tại Manhattan (Nữu Ước). Vào lúc giới thiệu chúng tôi chỉ trao đổi vài lời xã giao, nhưng tôi thấy cả hai con người này khinh người một cách lạ thường. Khi họ xuất hiện từ phòng khách sạn của Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi nhận thấy có một sự thay đổi đáng sửng sốt. Không còn cái điệu bộ cao ngạo, và cái vẻ tự mãn thiển cận, và thay vào hai bộ mặt tràn đầy dịu dàng và xúc cảm. Họ như hai đứa trẻ. Những dòng lệ chẩy trên gương mặt họ. Mặc dầu tác động đến người khác của Đức Đạt Lai Lạt Ma thường không gây quá xúc cảm, tôi nhận thấy bao giờ những người khác cũng trả lời Ngài bằng sự thay đổi nào đó về cảm xúc. Từ lâu tôi đã kinh ngạc trước tài gắn kết với người khác của Ngài, dù ở tầng lớp xã hội nào, và lập được sự trao đổi tình cảmsâu xa đầy ý nghĩa.

 

 

THIẾT LẬP SỰ THẤU CẢM

 

 

Trong khi nói chuyện về tầm quan trọng của sự niềm nở và tình thương con người qua những cuộc đàm thoại tại Arizona, không đến mấy tháng sau tại nhà Ngài ở Dharamsala, tôi đã có cơ hội xem xét mối quan hệ con người chi tiết hơn cùng với Ngài. Vào lúc đó tôi rất nóng lòng muốn thấy liệu chúng tôi có thể khám phá ra được một tập hợp các nguyên tắc cơ bản mà Ngài sử dụng trong việc tác động qua lại với người khác không – những nguyên tắc có thể áp dụng để cải thiện bất cứ mối quan hệ nào, dù là với người lạ, gia đình, bè bạn, hay người yêu. Nóng ruột để bắt đầu, tôi nhẩy ngay vào vấn đề:

 

 

“Bây giờ về đề tài quan hệ con người… Ngài sẽ nói gì về phương pháp hữu hiệu nhất hay kỹ thuật liên hệ với người khác bằng một phương pháp đầy ý nghĩa và giảm bớt mâu thuẫn với người khác?” Ngài trừng trừng nhìn tôi một lúc. Không phải là một cái nhìn trừng trừng không tốt nhưng nó làm cho tôi cảm thấy như tôi mới đòi Ngài cho tôi thành phần hóa học chính xác của bụi trên cung trăng.

 

 

Sau khi dừng lại một chút Ngài trả lời:”Được, giao tiếp với người khác là một vấn đề rất phức tạp. Không có cách gì mà bạn có thể tìm thấy một công thức lại giải quyết tất cả mọi vấn đề. Cũng giống một chút như nấu ăn. Nếu bạn nấu một bữa cơm ngon, một bữa cơm đặc biệt, thì có nhiều giai đoạn trong việc nấu nướng. Trước hết bạn phải trần rau riêng rồi bạn phải chiên rồi bạn phải nhào trộn một cách đặc biệt, rồi nêm gia vị vân vân… Và cuối cùng kết quả sẽ là món ăn ngon. Giống như vậy, để khéo léo trong việc giao tế với người khác, bạn cần phải có nhiều nhân tố. Bạn không thể chỉ nói “Đấy là phương pháp” hay “Đấy là kỹ thuật”

 

 

Không chính xác là câu trả lời mà tôi mong muốn. Tôi nghĩ rằng Ngài lảng tránh, và cảm thấy rằng chắc chắn Ngài có điều gì cụ thể hơn để đưa ra. Tôi nhân mạnh tiếp:”Vậy thì không có một giải pháp nào để cải thiện mối quan hệ của chúng ta, có lẽ những hướng dẫn chung chung hơn có thể là hữu ích chăng?

 

 

Đức Đạt Lai Lạt Ma suy nghĩ một chút rồi mới trả lời: “Đúng. Trước đây chúng ta có đề cập đến tầm quan trọng của việc tiếp xúc người khác bằng tâm tưởng từ bi. Điều đó rất quan trọng. Đương nhiên chỉ nói với một người,’ Này từ bi là rất quan trọng, bạn phải có nhiều tình thương hơn nữa cũng chưa đủ. Một toa thuốc đon giản như vậy không có hiệu quả. Tuy vậy cách dạy dỗ hữu hiệu một người nào đó làm sao niềm nở hơn và từ bi hơn phải bắt đầu bằng cách dùng lý lẽ để giáo dục cá nhân ấy về giá trị và lợi lạc thực tiễn của từ bi, và cũng để cho họ suy ngẫm xem họ cảm thấy ra sao khi một người nào đó tử tế với họ vân vân… Trong một ý nghĩa nào đó điều này chuẩn bị cho họ, cho nên sẽ có nhiều hiệu quả hơn khi họ tiến hành bằng nỗ lực của họ để họ từ bi hơn.

 

 

“Bây giờ nhìn vào những cách phát triển từ bi khác nhau, tôi nghĩ rằng thấu cảm là một nhân tố quan trọng. Khả năng cảm nhận được nỗi đau khổ của người khác. Thực ra, theo truyền thống, một trong những kỹ thuật của Phật Giáo để tăng thêm lòng từ bi liên quan đến việc tưởng tượng tình trạng một chúng sanh đang đau khổ – chẳng hạn, giống như một con cừu sắp sửa bị người đồ tể giết. Và cố gắng tưởng tượng nỗi đau khổ mà con cừu phải chịu đựng vân vân…Đức Đạt Lai Lạt Ma ngưng một chút để ngẫm nghĩ, ngón tay lần chuỗi tràng hạt một cách lơ đãng. Ngài bình luận, “Tôi chợt nghĩ rằng khi tôi phải tiếp xúc với người rất hờ hững và lãnh đạm, thì loại kỹ thuật này không mấy hiệu quả. Dường như thể là bạn bảo người đồ tể làm việc tưởng tượng đó: người đồ tể quá chai sạn, quá quen với toàn bộ sự việc nên không có một tác động nào. Vậy nên, thí dụ, sẽ rất khó khăn giảng nghĩa và dùng kỹ thuật ấy với một số người Tây Phương quen thói đi săn hay đi câu cho vui, như một hình thức của tiêu khiển..”

 

 

“Trong trường hợp này”, tôi đề nghị, “Có lẽ không phải là một kỹ thuật hiệu quả bảo khi bảo một người đi săn tưởng tượng sự đau khổ của con mồi, nhưng người ta có thể thức tỉnh những cảm tính từ bi bằng cách bảo người ấy mường tượng đến con chó săn yêu quý của anh ta bị sa vào bẫy và kêu la đau đớn…”

 

 

“Vâng đúng như vậy…” Đức Đạt Lai Lạt Ma đồng ý, “Tôi nghĩ rằng tùy theo hoàn cảnh mà ta có thể thay đổi kỹ thuật. Chẳng hạn, người không có cảm tính mạnh mẽ về sự thấu cảm đối với loài vật, nhưng ít nhất cũng có phần nào đồng cảm với người thân trong gia đình hay bạn bè. Trong trường hợp này người ấy có thể mường tượng đến tình trạng người thân yêu đang đau khổ hay đang trong tình trạng bi thảm và tưởng tượng đến cách anh ấy hay chị ấy sẽ đối phó điều đó, phản ứng trước điều đó. Cho nên ta có thể cố gắng tăng thêm lòng từ bi bằng cách cố gắng đồng cảm với cảm nghĩ hay kinh nghiệm của người khác.

 

 

“Tôi nghĩ rằng thấu cảm không những quan trọng vì là một phương tiện để nâng cao lòng từ bi, mà tôi còn nghĩ rằng nói chung khi phải tiếp xúc với người khác ở bất cứ mức độ nào, nếu bạn gặp phải một số khó khăn, hết sức có ích là đặt mình vào địa vị người khác, và xem bạn sẽ phản ứng ra sao trong tình trạng ấy. Cho dù bạn không có kinh nghiệm thông thường về người khác hay có một lối sống khác biệt hẳn, bạn vẫn có thể làm được nhờ tưởng tượng. Bạn có thể cần đến một chút sáng tạo. Kỹ thuật này liên quan đến khả năng tạm thời không áp đặt quan điểm riêng tư của mình mà tốt hơn là nhìn từ cách nhìn của người khác để tưởng tượng rằng tình trạng này sẽ ra sao nếu mình ở trong tình cảnh của người đó, mình phải đối phó ra sao. Điều này giúp cho bạn phát triển sự tỉnh thức và tôn trọng cảm nghĩ của người khác, đó là một nhân tố quan trọng nhằm giảm thiểu mâu thuẫn và khó khăn với người khác.

 

 

Cuộc phỏng vấn của chúng tôi chiều nay rất ngắn ngủi. Tôi đã được bố trí vào chương trình công việc bận rộn của Đức Đạt Lai Lạt Ma vào giấy phút cuối cùng và giống như một vài cuộc đàm thoại, nó xẩy ra muộn. Bên ngoài trời mặt trời bắt đầu lặn, căn phòng tranh tối tranh sáng, làm bức tường mầu vàng úa trở thành mầu hổ phách đậm, chiếu sáng những bức tượng Phật màu vàng quí giá trong phòng. Người thị giả của Ngài lặng lẽ bước vào phòng và ra hiệu cuộc gặp đã đến lúc chấm dứt. Hoàn thành cuộc thảo luận, tôi hỏi Ngài “Tôi biết chúng ta phải kết thúc, nhưng Ngài có lời khuyên nào khác hay phương pháp nào mà Ngài có thể sử dụng nhằm thiết lập sự đồng cảm với người khác không?” Những lời Ngài giảng trước đây cách đây mấy tháng còn vang vọng, với một sự bình dị hiền hòa, Ngài trả lời “Bất cứ lúc nào, tôi gặp ai, tôi bao giờ cũng tiếp cận với họ bằng lập trường của các sự việc căn bản nhất mà chúng ta đều có. Mỗi người chúng ta đều cùng có cấu tạo vật chất, tâm trí và cảm xúc. Tất cả chúng ta sanh ra cùng một cách, và chúng ta đều phải chết. Tất cả chúng ta đều muốn hạnh phúc và không muốn đau khổ. Nhìn vào những người khác từ quan điểm ấy chứ không phải là nhân mạnh vào những dị biệt phụ ví như thực tế tôi là người Tây Tạng hay khác mầu da, tôn giáo, hay bối cảnh văn hóa, cho phép tôi có cảm nghĩ đang gặp một người nào đó cũng giống như tôi. Tôi thấy rằng liên hệ với người khác trên bình diện ấy dễ dàng làm cho việc trao đổi và giao tiếp với nhau dễ hơn nhiều.” Bằng điều đó, Ngài đứng dậy, mỉm cười, siết chặt tay tôi rất nhanh, và lui về nghỉ tối.

 

 

Buổi sáng hôm sau, chúng tôi tiếp tục cuộc thảo luận tại nhà Ngài.

 

 

“Tại Arizona, chúng ta nói đến nhiều về sự quan trọng của từ bi trong quan hệ con người, và ngày hôm qua chúng ta thảo luận về vai trò của thấu cảm để cải thiện khả năng quan hệ với người khác…”

 

 

“Phải”, Đức Đạt Lai Lạt Ma gật đầu.

 

 

“Thưa Ngài ngoài điều đó ra Ngài có thể cho thêm phương pháp hay kỹ thuật đăc biệt nào không để giúp người ta tiếp xúc với người khác hiệu quả hơn không?

 

 

“Cũng như tôi có nói ngày hôm qua chẳng có cách nào mà bạn có thể tim thấy một hay hai kỹ thật đơn giản lại có thể giải quyết tất cả các vấn đề. Dầu rằng nói là như vậy, tuy nhiên tôi nghĩ có một số nhân tố khác có thể giúp tiếp xúc với người khác một cách khéo léo hơn. Trước tiên, hiểu và đánh giá đúng những thông tin cơ bản mà bạn tiếp xúc là rất hữu ích. Ngoài ra cởi mở và thành thật hơn nữa là những đức tính rất có ích khi tiếp xúc với người khác.”

 

 

Tôi chờ đợi, nhưng Ngài không nói gì thêm nữa.

 

 

“Ngài có thể cho biết phương pháp nào khác để cải thiện mối quan hệ?

 

 

Đức Đạt Lai Lạt Ma nghĩ ngợi một lúc rồi nói: “Không”, Ngài cười.

 

 

Tôi cảm thấy những lời khuyên ít ỏi ấy quá đơn giản và thực sự tầm thường. Tuy vậy khi điều đó dường như là tất cả những gì Ngài đã nói về đề tài cho đến lúc này, chúng tôi quay sang đề tài khác.

 

 

Buổi tối hôm ấy, tôi được bạn hữu mời đến ăn cơm chiều tại nhà một người bạn Tây Tạng tại Dharamsala. Bạn tôi sắp xếp buổi tối hôm đó thật sôi nổi. Bữa ăn thật tuyệt, nổi bật với sự bày biện thật sững sờ các món ăn đặc biệt, món ăn chính của Tây Tạng gọi là Mo Mos, một loại thịt hấp ngon. Khi bữa ăn vẫn còn kéo dài, cuộc chuyện trò trở nên náo nhiệt hơn. Chẳng mấy chốc, thực khách trao đổi những câu chuyện khó nghe về sự việc hết sức bối rối mà họ đã từng làm trong khi say. Một vài người khách được mời dự gồm có một cặp vợ chồng nổi tiếng đến từ Đức, người vợ là kiến trúc sư và người chồng, là nhà văn, tác giả một tá sách.

 

 

Thích sách, nên tôi đã tới gần tác giả và bắt chuyện. Tôi hỏi ông ta về việc viết văn của ông. Cấu trả lời của ông cộc lốc và chiếu lệ, ông không giữ lịch sự và lạnh lùng. Nghĩ rằng ông không thân thiện mà còn có tính trưởng giả học làm sang, tôi tức khắc không thích ông. Ít ra tôi đã cố gắng liên hệ với ông, tôi tự an ủi và hài lòng rằng ông chỉ là một người khó chịu và tôi quay sang trò chuyện với một vài người khách dễ thương hơn.

 

 

Ngày hôm sau, tôi tình cờ gập bạn tôi tại một quán cà phê trong làng, và trong lúc uống trà tôi kể lại những sự kiện tối hôm trước.

 

 

“… Tôi thực sự vui với tất cả mọi người ngoại trừ Rolf, nhà văn ấy… hình như quá tự cao tự đại hay đại loại như vậy… không thân thiện” “Tôi biết ông ta mấy năm nay rồi” bạn tôi nói “.. Tôi biết ông ta hay như vậy, nhưng đúng là ông ta hơi nhút nhát, và hơi dè dặt lúc đầu. ông ta thực sự là một người tuyệt vời nếu ông biết ông ta…” Bạn tôi chưa thuyết phục được tôi. Bạn tôi tiếp tục thanh minh, “Cho dù ông ta là một nhà văn thành công, ông đã trải qua nhiều khó khăn trong đời ông. Rolf thực sự bị đau khổ rất nhiều. Gia đình ông bị đau khổ khủng khiếp dưới bàn tay của Quốc Xã trong Thế Chiến Thứ Hai. ông có hai người con mà ông hết sức tận tâm với chúng, lúc sinh ra bị chứng rối loạn di truyền ít thấy làm cho chúng tật nguyền rất sớm về thể xác và tinh thần. Và thay vì trở nên cay đắng hay sống một cuộc đời đọa đầy, trước những khó khăn như thế ông đã chìa tay giúp đỡ mọi người, bỏ nhiều năm tận tụy làm việc với những người tàn tật với tư cách một người tình nguyện. ông quả là một người đặc biệt nếu ông biết ông ta”.

 

 

Hóa ra tôi lại gặp Rolf cùng vợ ông ta vào cuối tuần ấy tại một vùng đất nhỏ chạy dài dùng làm sân bay địa phương. Chúng tôi sẽ cùng đi trên chuyến bay đi Đề Li, nhưng chuyến bay này bị hủy bỏ. Phải mất mấy ngày nữa mới có chuyến bay khác., cho nên chúng tôi quyết định cùng nhau thuê một chiếc xe và đi Đề Li, một cuộc hành trình 10 tiếng mệt nhoài. Một ít tin tức về tiểu sử mà bạn tôi cho tôi biết đã thay đổi cảm nghĩ của tôi về Rolf, và trong cuộc hành trình dài đi Đề Li tôi cảm thấy cởi mở hơn. Kết quả là tôi đã nỗ lực đàm thoại với ông. Lúc đầu thái độ của ông vẫn như vậy. Nhưng chỉ một chút ông cởi mở và bền chí, tôi sớm khám phá ra đúng như lời bạn tôi nói, sự lạnh lùng của ông là do tính nhút nhát hơn là tính trưởng giả học làm sang. Chúng tôi nói chuyện huyên thiên khi xe chạy trên con đường bụi bậm oi bức của miền quê Bắc Ấn, càng đi sâu vào trò chuyện, ông càng chứng tỏ ông là một người ân cần, chân thật và là người bạn đồng hành đáng tin cậy

 

 

Khi đến Đề Li, tôi nhớ lại lời khuyên của Đức Đạt Lai Lạt Ma là “hãy tìm hiểu những thông tin cơ bản của một người” không phải là sơ đẳng và nông cạn như lúc đầu ta tưởng. Tuy, có lẽ nó tầm thường nhưng không đơn giản. Đôi khi nó là lời khuyên căn bản nhất và thẳng thắn nhất, loại mà ta hay gạt đi vì cho là ấu trĩ, nó có thể là phương tiện hữu hiệu nhất để thúc đẩy giao tiếp.

 

 

Mấy hôm sau tôi vẫn còn ở lại Đề Li, trên chặng đường hai ngày trước khi trở về nhà. Thay đổi từ cái yên tịnh của Dharamsala làm tôi khó chịu, và tôi ở trong tâm trạng bực bội. Ngoài việc vật lộn với cái nóng ngột ngạt, ô nhiễm, và đông người, vỉa hè nhung nhúc những loại thú ăn thịt ở thành thị dành cho Phố Xá Lừa Bịp. Đi bộ trên đường phố nóng như thiêu ở Đề Li, một Người Phương Tây, một Người Ngoại Quốc, một Mục tiêu, bị xúm lại bởi hàng nửa tá gái điếm mỗi đoạn đường, làm cho tôi cảm thấy như thể tôi là người xăm chữ Ngố trên trán. Quả là nản lòng Sáng hôm ấy, tôi đã rơi vào mưu đồ bất lương của hai kẻ bịp trên đường phố. Một đứa lấy sơn đỏ quẹt vào giầy tôi trong khi tôi không để ý. Đi xuống cuối đường, kẻ đồng lõa, một em bé đánh giầy giả bộ ngấy thơ, chỉ cho tôi biết giầy tôi dính sơn và đề nghị tôi cho nó đánh giầy với giá thường lệ. Nó khéo léo đánh giầy tôi xong trong vòng ít phút. Sau khi xong, nó thản nhiên đòi tôi một số tiền lớn – bằng số tiền lương hai tháng của nhiều người tại Đề Li. Khi tôi không chịu, nó khẳng định là giá mà nó đã đề nghị trước. Tôi phản đối, và thằng nhỏ bắt đầu kêu rống lên, làm một đám đông bấu đến chung quanh tôi, nó khóc lóc và nói tôi từ chối không trả tiền công cho nó. Vào cuối ngày đó, tôi được biết đó là một sự lùa bịp thông thường hay xẩy ra với nhừng du khách vô tình, sau khi đòi số tiền lớn, thằng bé đánh giầy cố ý làm om xòm để người đi đường xúm đông lại, với ý đồ tống tiền du khách bị bối rối và muốn tránh cảnh tượng này.

 

 

Chiều hôm ấy, tôi dùng bữa cùng với một bạn đồng sự tại khách sạn. Tôi đã quên hẳn những chuyện xẩy ra sáng nay khi bà hỏi tôi về hàng loạt cuộc phỏng vấn gần đây của tôi với Đức Đạt Lạt Ma. Chúng tôi mải mê bàn luận những khái niệm của Đức Đạt Lạt Ma về sự thấu cảm và tầm quan trọng của việc đặt mình vào cách nhìn của người khác. Sau khi dùng bữa, chúng tôi nhẩy lên một xe taxi đi thăm một số bạn bè chung của chúng tôi. Khi xe bắt đầu đi, những ý nghĩ của tôi lại quay về vụ đánh giầy bịp bợm sáng nay, và khi những hình ảnh tăm tối hiện trong tâm tôi, đột nhiên tôi nhìn vào đồng hồ tính tiền của xe.

 

 

“Ngưng lại Taxi! Ngưng lại” Tôi la lên. Bạn tôi giật nảy mình vì sự bộc phát thình lình. Người tài xế giận dữ nhìn tôi qua kính chiếu hậu. nhưng vẫn cho xe chạy.

 

 

“Đậu lại đi” tôi yêu cầu, giọng nói của tôi run lên để lộ vẻ kích động. Bạn tôi hình như sửng sốt. Xe ngừng. Tôi chỉ vào đồng hồ tính tiền, giận dữ chém tay vào không khí: “Ông không chỉnh lại đồng hồ. Hơn 20 đồng trên đồng hồ khi bắt đầu đi”

 

 

“Xin lỗi Ngài” Người tài xế nói bằng một giọng buồn nản lạnh lùng càng làm tôi tức điên lên, “Tôi quên không vặn lại…Tôi sẽ bắt đầu lại”

 

 

“Ông không vặn lại gì cả” Tôi bốp chát: “Tôi chán ngấy các người đang cố gắng làm tăng tiền xe, chạy vòng vòng, hay làm bất cứ cái gì có thể làm được để đánh lừa người ta… Tôi thật chán ngấy”. Tôi lắp bắp và nổi đóa với một xúc cảm ra vẻ cao đạo. Trông bạn tôi có vẻ bối rối. Người tài xế chằm chằm nhìn tôi với cùng cái vẻ thách thức thường thấy ở những con bò linh thiêng đi lang thang giữa đường phố Đề Li tấp nập này, chúng ngưng lại như có ý định nổi loạn để cản trở giao thông. Anh ta nhìn tôi cứ như thể là cơn giận của tôi chỉ là mệt nhọc và buồn bực. Tôi ném vài ru pi vào ghế trước và không bình luận gì thêm nữa, mở cửa xe cho bạn tôi xuống xe ra ngoài. Chỉ vài phút sau, chúng tôi lại gọi một taxi khác và chúng tôi lên xe tiếp tục cuộc hành trình. Nhưng tôi không thể bỏ qua. Khi chúng tôi đi qua các dẫy phố tại Đề Li, tôi tiếp tục phàn nàn là làm sao mà “ai” tại Đề Li này cũng lừa đảo du khách, chúng tôi chẳng là gì cả mà chỉ là con mồi. Người bạn đồng sự của tôi lặng lẽ nghe khi tôi huênh hoang và nói say sưa. Cuối cùng bà nói “Được, hai mươi Ru Pi chỉ khoảng 25 xu (tiền Mỹ). Tại sao phải nổi giận chứ?” Tôi sôi lên với sự phẫn nộ đạo đức giả. “Nhưng đó là nguyên tắc đáng quan tâm ” Tôi tuyên bố: “Tôi không hiểu sao mà bà lại có thể bình tĩnh trước toàn bộ sự việc này khi lúc nào nó cũng xẩy ra. Bà không thấy khó chịu sao?”

 

 

“Được, bà nói chậm rãi,” Khó chịu một phút thôi, nhưng tôi bắt đầu nghĩ tới những gì chúng ta nói chuyện trong bữa ăn trưa, về Đức Đạt Lai Lạt Ma nói đến tầm quan trọng khi nhìn nhận vấn đề bằng cách nhìn của người khác. Khi bạn nóng giận thì tôi cố gắng nghĩ về những gì tôi có thể cũng giống như người tài xế taxi Cả hai chúng tôi đều muốn ăn ngon, ngủ ngon, cảm thấy dễ chịu, được yêu mến vân vân… Rồi tôi cố gắng tôi tưởng tượng chính mình là người tài xế taxi, tôi ngồi suốt ngày trong chiếc xe ngột ngạt không máy lạnh, có thể tôi cáu kỉnh và ganh ghét với người ngoại quốc giàu có… và cách tốt nhất mà tôi có thể nghĩ tới là cố gắng làm cho sự việc “công bình”, để được hạnh phúc là tìm cách lừa gạt để lấy tiền. Nhưng vấn đề là, dù cho nó thành công, bóp nặn được vài Ru Pi của du khách vô tình, tôi không thể tưởng tượng nổi ngưới ta lại thỏa mãn với cách đó để được hạnh phúc hơn hay một cuộc sống vừa ý hơn.. Dù sao, tôi càng nghĩ mình là người tài xế taxi, tôi càng bớt giận anh ta. Cuộc sống anh ta có vẻ buồn buồn..có nghĩa là, tôi vẫn không đồng ý về điều anh ta đã làm, và chúng ta có quyền ra khỏi xe, nhưng đúng là tôi không thể nổi giận đến mức ghét anh ta về chuyện đó…”

 

 

Tôi im lặng. Giật mình, thực ra tôi chưa hấp thụ được bao nhiêu từ Đức Đạt Lai Lạt Ma. Lúc này, tôi bắt đầu hiểu giá trị thực tiễn trong lời khuyên của Ngài, như “hiểu biết tiểu sử người khác”, và đương nhiên, tôi đã tìm được sự mẫu mực về cách thực hiện những nguyên tắc này trong cuộc đời của Ngài đang truyền cảm hứng. Nhưng khi tôi nghĩ lại về hàng loạt cuộc thảo luận với Ngài, bắt đầu từ Arizona, và bây giờ tiếp tục tại Ấn Độ, tôi nhận ra rằng ngay từ lúc đầu, những cuộc phỏng vấn của chúng tôi có vẻ có không khí bệnh viện, như thể tôi hỏi Ngài về khoa giải phẫu, ở trong trường hợp này, đó là khoa giải phẫu tâm trí và tinh thần của con người. Tuy nhiên cho đến lúc này, không biết làm sao mà tôi vẫn chưa nẩy ra ý áp dụng đầy đủ tư tưởng của Ngài vào đời sống của tôi, ít ra không phải là lúc này – Tôi luôn có một ý định mơ hồ sẽ cố gắng thực hiện những khái niệm của Ngài trong đời tôi ở một lúc nào đó trong tương lai, có lẽ khi tôi có nhiều thì giờ hơn.

 

 

NGHIÊN CỨU CƠ SỞ CỦA SỰ QUAN HỆ

 

 

Những cuộc đàm thoại với Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Arizona bắt đầu bằng cuộc bàn thảo về nguồn gốc hạnh phúc. Mặc dầu thực tế là Ngài chọn cuộc sống làm một nhà sư, nhưng các cuộc nghiên cứu cho thấy hôn nhân góp phần thực tế mang đến hạnh phúc – mang đến sự riêng tư và mối liên kết chặt chẽ làm tăng thêm sức khỏe và thỏa mãn cách sống chung. Hàng ngàn cuộc thăm dò người Mỹ và Âu Châu cho thấy người có gia đình hài lòng và hạnh phúc với cuộc sống hơn người độc thân hay người góa.- nhất là so với những người ly dị hay ly thân.

 

 

Một cuộc thăm dò cho thấy sáu trong số mười người Mỹ đánh giá hôn nhân của họ là “rất hạnh phúc” và cũng xem cuộc đời họ nói chung là “rất hạnh phúc”. Trong cuộc bàn luận về đề tài quan hệ con người, tôi nghĩ rằng nếu đưa ra vấn đề là nguồn hạnh phúc chung cũng rất quan trọng.

 

 

Ít phút trước giờ ấn định phỏng vấn Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi ngồi với một người bạn ở hành lang lộ thiên của một khách sạn tại Tuscon uống một ly nước mát giải khát. Đề cập đến chủ đề lãng mạn và hôn nhân mà tôi dự định nêu lên trong cuộc phỏng vấn của tôi, bạn tôi và tôi động lòng trắc ẩn nghĩ đến những người độc thân. Trong khi chúng tôi trò chuyện, một cặp vợ chồng trẻ trông có vẻ lành mạnh, có thể là những người chơi gôn, sung sướng nghỉ hè vào lúc cao điểm của mùa du lịch, ngồi bàn bên cạnh chúng tôi. Trông họ có vẻ như đã lấy nhau khá lâu – không còn ở trong tuần trăng mật nữa, nhưng vẫn còn trẻ và chắc chắn hãy còn mặn nồng. Rất tốt đôi, tôi nghĩ như vậy.

 

 

Nhưng vừa ngồi xuống họ bắt đầu cãi nhau.

 

 

“… Tôi đã bảo anh anh chúng ta bị trễ rồi”, người thiếu phụ buộc tội một cách gay gắt, giọng nói của cô ta khàn lạ thường, tiếng rè của dấy thanh bị ngâm bởi nhiều năm thuốc lá và rượu.”Bây giờ chúng ta không có đủ thì giờ mà ăn. Tôi không thể ăn ngon miệng được.”

 

 

“… nếu cô không chuẩn bị quá lâu…” người đàn ông phản pháo một cách vô ý thức bằng một giọng nhỏ nhẹ hơn, nhưng mỗi ấm nặng trĩu khó chịu và hằn học.

 

 

Đốp lại.”Tôi đã sẵn sàng từ nửa giờ trước rồi. Chính anh mới là người chậm trễ vì phải đọc xong tờ báo”…

 

 

Và cứ như thế lời qua tiếng lại không ngừng. Giống như nhà soạn kịch Hy Lạp Euripides nói, “Hôn nhân có thể tốt đẹp. Nhưng khi hôn nhân thất bại, thì những người đó ở nhà như trong địa ngục”

 

 

Tranh luận, nhanh chóng leo thang, rồi chấm dứt bằng nhữn lời than vãn về cuộc sống đôc thân. Bạn tôi đảo mắt và trích một câu trong Seifeld, nói “Ờ phải, tôi muốn lấy vợ thật sớm!”

 

 

Chỉ ít phút trước đây, tôi có ý định bắt đầu cuộc gặp bằng cách xin Đức Đạt Lai Lạt Ma ý kiến về niềm vui và ưu điểm của tình yêu lãng mạn và hôn nhân. Thay vì như thế, khi vào phòng của Ngài tại khách sạn, và sắp sửa ngồi xuống, tôi lại hỏi:”Tại sao Ngài lại cho là mâu thuẫn hình như thường trong hôn nhân phát sinh?”

 

 

“Khi đề cập đến mâu thuẫn, đương nhiên có thể là rất phức tạp”. Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích.””Có thể có nhiều nhân tố liên quan. Cho nên, khi chúng ta xử trí bằng cách cố gắng tìm hiểu những vấn đề quan hệ, giai đoạn đầu tiên trong tiến trình này đòi hỏi phải suy ngẫm kỹ lưỡng về bản chất và cơ sở căn bản của mối quan hệ ấy.

 

 

“Vậy, trước tiên, ta phải công nhận có nhiều loại quan hệ khác nhau và hiểu biết những dị biệt giữa chúng. Thí dụ, hãy để qua một bên vấn đề hôn nhân, ngay cả trong phạm vi tình bạn bình thường, chúng ta cũng phải công nhận có những loại tình bạn khác nhau. Có khi tình bạn dựa vào của cải, quyền thế, hay địa vị. Trong những trường hợp này, tình bạn còn tiếp tục với điều kiện là bạn còn giữ được quyền thế, của cải và địa vị. Khi những căn cứ ấy không còn, thì tình bạn cũng sẽ bắt đầu biến mất. Mặt khác có một loại tình bạn khác. Tình bạn này không căn cứ vào tính toán về của cải, quyền thế và địa vị mà đúng ra là cảm tính thực sự con người, một cảm tính gần gũi trong đó có ý thức chia sẻ và quan hệ. Loại tình bạn hữu này là cái mà tôi gọi là tình bạn chân chính vì nó không bị ảnh hưởng bởi tình trạng của cải, quyền thế và địa vị của một cá nhân dù nó tăng hay giảm. Nhân tố giữ vững tình bạn chân chính là cảm tính và tình cảm. Nếu bạn thiếu điều đó, bạn không thể giữ được tình bạn chân chính. Chắc chắn chúng ta đã nói đến điều này trước đây và tất cả điều đó là rất rõ ràng, nhưng nếu bạn đi vào vấn đề quan hệ, thường thường sẽ rất hữu ích nếu biết dừng lại và suy ngẫm về cơ sở của mối quan hệ ấy.

 

 

Cũng giống như vậy, nếu ai đó vấp phải khó khăn với chồng mình hoặc vợ mình, sẽ rất hữu ích nếu biết nhìn vào cơ sở căn bản của mối quan hệ. đó. Chẳng hạn, bạn thường thấy nhiều mối quan hệ chỉ căn cứ vào sự lôi cuốn giới tính ngay từ đầu. Khi một cặp mới gặp nhau, chỉ gặp nhau vài lần, họ có thể yêu nhau say đắm và rất hạnh phúc.” Ngài cười ” nhưng bất cứ quyết định nào về hôn nhân vào lúc ấy rất dễ lung lay. Về một ý nghĩa nào đó cũng như người ta có thể trở nên mất trí, vì sức mạnh của cơn giận hay hận thù mãnh liệt, về một ý nghĩa, người ta cũng có thể bị mất trí bởi sức mạnh của đam mê hay ham muốn. Và đôi khi bạn có thể thấy trạng thái mà một cá nhân có thể cảm thấy, “ôi người bạn trai của tôi, hay người bạn gái của tôi thực sự không phải người tốt, không phải là người tử tế, nhưng tôi vẫn cảm thấy bị lôi cuốn bởi anh ấy hay cô ấy”. Cho nên sự quan hệ dựa vào cái lôi cuốn ban đầu thật không thể tin cậy được, thực sự không vững vàng vì nó căn cứ vào nhiều hiện tượng tạm thời. Cảm giác này tồn tại rất ngắn ngủi, và sau một thời gian, cảm giác này không còn nữa”. Ngài bật tách tách ngón tay..”Cho nên đừng quá ngạc nhiên nếu kiểu quan hệ như thế rơi vào chuyện rắc rối, và hôn nhân căn cứ vào điều đó cuối cũng rơi vào rắc rối…Nhưng ông nghĩ thế nào?

 

 

“Vâng, tôi phải đồng ý với Ngài về việc đó”, tôi trả lời.” Hình như trong bất cứ mối quan hệ ngay cả những mối quan hệ nồng cháy, sự say mê lúc ban đầu cuối cùng cũng nguội đi. Một số nghiên cứu cho thấy những người coi sự say mê và lãng mạn lúc ban đầu là tối cần thiết cho quan hệ của họ, cuối cùng đi đến vỡ mộng và ly dị. Ellen Bercheid, nhà tâm lý học xã hội của Đại Học Minnesota,đã xem xét vấn đề và kết luận rằng không đánh giá đúng phân nửa thời gian có giới hạn của tình yêu say đắm có thể hủy diệt mối quan hệ. Bà và những đồng sự của bà cảm thấy mức độ ly dị gia tăng trên hai mươi năm qua một phần liên quan việc người ta ngày càng coi trọng những kinh nghiệm cảm xúc rất được tin cậy trong đời họ – những kinh nghiệm giống như tình yêu lãng mạn. Nhưng có một vấn đề là những loại kinh nghiệm như vậy có thể rất khó đứng vững với thời gian…” “Điều này hình như rất đúng” Ngài nói.”Cho nên khi đề cập đến những vấn đề quan hệ bạn sẽ thấy ý nghĩa quan trọng to lớn trong việc nghiên cứu và hiểu biết bản chất cơ bản của mối quan hệ.

 

 

“Bây giờ, trong khi có một số quan hệ căn cứ vào sự lôi cuốn giới tính ngay từ đầu, thì mặt khác, bạn có thể có những kiểu quan hệ khác mà trong đó những người có tâm trạng điềm tĩnh có thể nhận thức rằng nói về thân thể bề ngoài bạn trai hay bạn gái của tôi có thể không hấp dẫn nhưng anh ấy hay cô ấy thực sự là một người tốt, một người tử tế hòa nhã. Sự quan hệ được xấy dựng bằng điều đó hình thành loại liên kết lâu dài hơn vì nó thuộc loại giao tiếp thành thật ở mức thực sự riêng tư và con người giữa hai người…”

 

 

Đức Đại Lai Lạt Ma ngưng một chút như thể nghiền ngẫm về vấn đề rồi nói thêm, “Đương nhiên tôi phải nói cho rõ ràng là người ta có thể có quan hệ tốt lành mạnh bao gồm cả sự lôi cuốn giới tính như là một thành tố. Cho nên hình như có loại quan hệ chính dựa vào vào sự lôi cuốn giới tính. Một loại hoàn toàn dựa vào sự ham muốn giới tính. Trong trường hợp này, động cơ hay sự thúc đẩy đằng sau sự liên kết thực sự chỉ là sự thỏa mãn tạm thời, sự vừa lòng trước mắt. Trong loại quan hệ này, các cá thể gắn liền với nhau không thật là con người mà đúng hơn là đối tượng. Loại quan hệ này không lành mạnh. Nếu sự quan hệ chỉ căn cứ trên sự ham muốn giới tính, không có thành tố tôn trọng lẫn nhau, thì sự quan hệ này hầu như trở thành mại dâm, trong đó cả hai bên dều không tôn trọng lẫn nhau. Sự quan hệ lúc đầu xấy dựng trên ham muốn giới tính giống như căn nhà xấy dựng trên nước đá, đúng lúc đá tan ra, căn nhà xụp.

 

 

“Tuy nhiên có một loại quan hệ thứ hai, cũng căn cứ trên sự lôi cuốn giới tính, nhưng trong đó sự lôi cuốn thể xác không phải là cơ sở chiếm ưu thế ưu tiên trong quan hệ này. Trong kiểu quan hệ thứ hai này, có sự đánh giá căn bản đúng về giá trị của nhau căn cứ vào cảm nghĩ người kia là người tốt, tử tế, và hòa nhã, và bạn có sự tôn trọng và phẩm giá của người kia. Bất cứ sự quan hệ nào căn cứ trên tinh thần ấy sẽ lâu bền và chắc chắn đáng tin cậy Loại này thích hợp hơn. Và muốn thiết lập loại quan hệ này, điều chủ yếu là phải dành đủ thì giờ để hiểu nhau với ý thức chân thật, hiểu biết những đặc tính căn bản của nhau.

 

 

“Cho nên, khi những bạn bè tôi hỏi tôi về hôn nhân của họ, tôi thường hỏi lại họ đã quen nhau bao lâu rồi. Nếu họ nói mới có mấy tháng, thì tôi thường nói:”Vậy quá ngắn ngủi”. Nếu họ nói một vài năm, thì tôi nói thế thì tốt. Bây giờ họ không những biết mặt hay bề ngoài, mà tôi còn nghĩ, hiểu bản tính sâu xa của nhau” “Điều đó hồ như nhà Văn Mark Twain đã nói “không có người đàn ông nào hay người phụ nữ nào thực sự hiểu tình yêu hoàn hảo là gì cho đến khi họ đã thành hôn với nhau trong một phần tư thế kỷ…”

 

 

“Đức Đạt Lai Lạt Ma gật đầu và nói tiếp tục: Đúng.. cho nên, tôi nghĩ, nhiều vấn đề xẩy ra chỉ vì không đủ thì giờ để tìm hiểu lẫn nhau. Dù sao, tôi nghĩ nếu ta tìm cách xấy dựng mối quan hệ thực sự vừa ý, con đường tốt nhất dẫn tới điều đó là phải hiểu biết bản tính sâu xa của người kia và quan hệ với anh ấy hay cô ấy trên mức độ đó, thay vì chỉ chú trọng đến những đặc điểm bên ngoài. Và trong kiểu quan hệ đó có vai trò của tình thương chân chính.

 

 

“Bây giờ tôi nghe nhiều người nói hôn nhân của họ có ý nghĩa sâu xa hpn trên sự quan hệ giới tính, hôn nhân đòi hỏi hai người cố gắng liên kết với nhau, cùng nhau chia sẻ cuộc đời thăng trầm, chia sẻ niềm riêng tư mật thiết. Nếu lời nói đó là chân thật, tôi tin tưởng đó là cơ sở thích hợp để xấy dựng quan hệ. Quan hệ lành mạnh gồm có ý thức trách nhiệm và cam kết với nhau. Đương nhiên, sự tiếp xúc thể chất, sự quan hệ giới tính thích đáng và thông thường của một cặp vợ chồng, có thể đem đến một sự thỏa mãn nào đó, có thể có hiệu quả làm dịu tâm. Nhưng rốt cuộc nói về mặt sinh học, mục đích chính của quan hệ nhục dục là sinh sản. Và muốn thành công trong việc này, bạn cần phải có ý thức tận tâm với con cái, để cho chúng có thể tồn tại và mau lớn. Vậy, phát triển khả năng có ý thức trách nhiệm và cam kết có tính quyết định. Không có điều đó, sự quan hệ chỉ mang lại sự thỏa mãn tạm thời. Chỉ cho vui”. Ngài cười, một nụ cười dường như kinh ngạc trước phạm vi mênh mông về cách ứng xử của con người.

 

 

QUAN HỆ DỰA VÀO TÌNH CẢM LÃNG MẠN

 

 

Tôi cảm thấy kỳ quặc khi nói về tình dục và hôn nhân với một người nay đã trên sáu mươi tuổi mà suốt đời độc thân. Ngài không thấy ghét những vấn đề ấy, nhưng có một sự xuy xét độc lập trong những bình luận của Ngài.

 

 

Nghĩ về cuộc nói chuyện của tôi với Ngài sau tối hôm ấy, tôi chỉ nghĩ rằng còn một thành tố quan trọng trong quan hệ chưa được nói đến, và tôi tò mò tôi muốn biết quan điểm của Ngài đối với vấn đề này ra sao. Tôi đã nêu vấn đề này ra ngày hôm sau.

 

 

“Ngày hôm qua, chúng ta thảo luận về các mối quan hệ và tầm quan trọng của việc đặt quan hệ thân thiết hay hôn nhân hơn cả vấn đề nhục dục”, tôi bắt đầu ” Nhưng theo văn hóa Tây Phương, không phải chỉ là hành động xác thịt mà toàn bộ ý niệm lãng mạn.- ý niệm phải lòng ai, yêu say đắm người tình- được coi như một ham muốn cao độ. Trên màn ảnh, văn chương, và văn hóa đại chúng, người ta đề cao loại tình yêu lãng mạn này. Quan điểm của Ngài thế nào về vấn đề này?

 

 

Không một chút do dự, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói: “Tôi nghĩ rằng, chưa cần xét đến theo đuổi tình yêu lãng mạn có thể ảnh hưởng sâu xa đến sự phát triển tinh thần ra sao, thậm chí từ quan điểm của lối sống thông thường, lý tưởng hóa tình yêu lãng mạn có thể được coi là một cực đoan. Không giống như những quan hệ căn cứ trên tình cảm chu đáo và chân thật, đây là một vấn đề khác. Nó không thể được coi là tích cực, Ngài quả quyết.”Nó dựa vào ảo tưởng, không thể đạt được, cho nên nó là nguồn gốc của vỡ mộng. Vậy, trên cơ sở đó nó không thể được coi như tích cực”.

 

 

Giọng nói như kết thúc của Đức Đạt Lai Lạt Ma, cho thấy Ngài không có gì để nói thêm về đề tài này nữa. Vì xã hội chúng ta đặt tầm quan trọng to lớn lên tình yêu lãng mạn, tôi cảm thấy Ngài bác bỏ sự cám dỗ của tình yêu lãng mạn quá nh nhàng vì Đức Đạt Lai Lạt Ma được dạy dỗ trong tu viện, tôi cho rằng Ngài không cảm nhận đầy đủ niềm vui của tình yêu lãng mạn, và hỏi Ngài về những vấn đề liên quan đến tình yêu lãng mạn thì cũng chẳng khác gì yêu cầu Ngài ra bãi đậu xe để Ngài giải quyết cái khó khăn của tôi về bộ truyền lực của xe. Không được vừa lòng lắm, tôi lóng ngóng với ít điểm ghi chép rồi chuyển sang đề tài khác.

 

 

Cái gì đã làm cho tình yêu lãng mạn quyến rũ đến thế? Nhìn vào câu hỏi này, ta thấy Thần Ái Tình (Eros) – tình yêu lãng mạn, xác thịt, say đắm – trạng thái ngấy ngất cuối cùng, là một ly cốc tay mạnh có các thành phần văn hóa, sinh học, và tâm lý. Trong văn hóa Tây Phương, khái niệm về tình yêu lãng mạn đã thăng hoa từ trên hai trăm năm qua dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn, một phong trào đã ảnh hưởng nhiều đến việc hình thành sự nhận thức của chúng ta về thế giới. Chủ nghĩa lãng mạn phát triển như là một sự bác bỏ Thời Đại Ánh Sáng đó, nhân mạnh đến lý trí con người. Phong trào mới này đề cao trực giác, xúc cảm, cảm tính và say mê. Nó nhân mạnh đến tầm quan trọng của thế giới giác quan, kinh nghiệm chủ quan của cá nhân, và có khuynh hướng về thế giới tưởng tượng, ảo tưởng, tìm cầu một thế giới không phải là – một quá khứ lý tưởng hay tương lai không tưởng. Quan niệm này không những đã có một tác động sâu xa vào văn học nghệ thuật mà còn vào cả chính trị và mọi mặt phát triển của văn hóa của Tây Phương hiện đại.

 

 

Yếu tố hấp dẫn nhất trong khi theo đuổi tình yêu lãng mạn là cảm giác yêu phải lòng. Những ảnh hưởng mạnh mẽ hoạt động thúc đẩy chúng ta tìm kiếm cảm giác ấy, còn nhiều hơn cả sự suy tôn tình yêu lãng mạn mà ta thấy từ văn hóa. Nhiều nhà nghiên cứu cảm thấy những sức mạnh ấy đã được lập trình trong các gien từ lúc sinh ra đời. Cảm giác yêu phải lòng bao giờ cũng hòa lẫn với cảm giác của sự lôi cuốn xác thịt, có thể là thành phần bản năng do gien quyết định trong hành vi giao phối. Từ cái nhìn tiến hóa chức năng cá nhân của sinh vật là sinh tồn, sinh sản, và bảo đảm sự tồn tại liên tục của giống loài. Vì lợi ích tốt nhất của giống loài, cho nên nếu chúng ta được lập trình để yêu, chắc chắn nó sẽ gia tăng lợi thế mà chúng ta kết đôi và sinh sản. Vì vậy, chúng ta có những cơ cấu gắn liền giúp cho điều đó xẩy ra, đáp ứng một số tác nhân kích thích, não bộ sản xuất và tiết ra những hóa chất tạo thành cảm giác phân khích cái “đê mê” kết hợp với tình yêu. Và trong khi bộ não của chúng ta ngâm với những hóa chất ấy, cảm giác đó áp đảo chúng ta đến mức mọi thứ khác dường như bị ức chế.

 

 

Ảnh hưởng tâm lý thúc đẩy ta tìm cảm giác tình yêu cũng hấp dẫn như ảnh hưởng sinh học. Trong tập khảo luận của Plato, Socrates kể một câu chuyện huyền thoại về Aristophanes liên quan đến nguồn gốc tình yêu xác thịt. Theo huyền thoại này, những cư dân đầu tiên trên trái đất là những sinh vật tròn có bốn tay, bốn chân, và cùng với lưng và hông làm thành hình tròn. Những sinh vật vô tính độc lập này rất cao ngạo và thường tân công các vị thần. Để trừng phạt chúng, Thần Zeus phóng sấm sét vào chúng và phân đôi chúng ra. Mỗi chúng sanh bây giờ là hai, nửa này mong mỏi hợp nhất với nửa kia. Thần Ái Tình (Eros) ham muốn tình yêu mê say, lãng mạn, có thế được xem là khao khát thời cổ muốn hợp nhất với nửa kia. Nó dường như là nhu cầu vô tình phổ biến của con người. Cảm tính đó kéo theo cảm giác hợp nhất với người kia, ranh giới bị phá tan, trở thành một với người mình yêu. Các nhà tâm lý học gọi đó là sự sụp đổ ranh giới cái tôi. Một số người nghĩ rằng tiến trình này bắt nguồn từ kinh nghiệm sớm nhất của ta, một cố gắng vô thức để tái tạo kinh nghiệm có từ lúc còn thơ ấu, trạng thái căn bản mà trong đó đứa trẻ hoàn toàn gần gũi với cha mẹ hay người nuôi nâng lúc đầu

 

 

Bằng chứng cho thấy những đứa trẻ sơ sinh không phân biệt chính chúng với phần còn lại của thế giới. Chúng không có ý thức nhận dạng cá nhân hay ít ra cũng nhận dạng được mẹ, những người khác hay những đồ vật chung quanh. Chúng không biết đâu là giới hạn của chúng và đâu là chỗ bắt đầu của những cái khác. Chúng không biết gì là đồ vật đang tồn tại: đồ vật không có sự tồn tại độc lập, nếu chúng không tác động qua lại với một đồ vật, đồ vật này không tồn tại. Thí dụ, đứa trẻ đang cầm cái lúc lắc, nó nhận biết cái lúc lắc là một phần của chính nó, và nếu cái lúc lắc bị lấy đi hay dấu đi, với nó cái lúc lắc đó không còn tồn tại.

 

 

Vào lúc mới sanh bộ não chưa hoàn toàn “kết nối chắc chắn” nhưng khi đứa bé lớn lên thì bộ não trưởng thành, sự tác động qua lại với thế giới trở nên tinh vi hơn và đứa bé dần dần phát triển ý thức nhận dạng riêng, biết “tôi” hay đối lập với “cái khác”. Cùng với điều đó, ý thức riêng biệt phát triển, dần dà đứa bé phát triển nhận thức về giới hạn của mình. Sự hình thành cá tính đương nhiên tiếp tục phát triển qua thời kỳ thơ ấu và thời kỳ thanh niên rồi đứa trẻ vào đời. Ý thức về mình là ai xuất hiện là kết quả của sự phát triển những hình dung bên trong, phần lớn đã hình thành do cảm nghĩ về những tác động qua lại lúc ban đầu với những người quan trọng sống với nó, và suy nghĩ về vai trò của chúng trong xã hội nói chung. Dần dần cá tính riêng, và cấu trúc nội tâm lý trở nên phức tạp hơn.

 

 

Nhưng một số người vẫn tìm cách đi ngược trở lại trạng thái cuộc sống trước đó, một trạng thái hạnh phúc trong đó không có cảm giác bị cô lập, không có cảm giác bị phân cách. Nhiều nhà tâm lý hiện đại cảm thấy kinh nghiệm có “tính tổng thể” được đưa vào tiềm thức, và khi trưởng thành nó thấm vào sự tưởng tượng vô thức và riêng tư của mình. Họ tin là hòa mình vào với người yêu khi một người “đang yêu” gợi nhớ lại kinh nghiệm hòa hợp với người mẹ thời thơ ấu. Nó tái tạo cảm nghĩ kỳ diệu, một cảm nghĩ tuyệt đối, như thể là mọi sự đều có thể làm được. Một cảm nghĩ như thế khó mà đẩy lùi.

 

 

Thảo nào mà sau này sự theo đuổi một mối tình lãng mạn lại mạnh mẽ như thế. Vậy vấn đề này là thế nào, và tại sao Đức Đạt Lai Lạt Ma lại dễ dàng quả quyết cho rằng theo đuổi mối tình lãng mạn là chuyện tiêu cực?

 

 

Tôi coi vấn đề quan hệ dựa vào tình yêu lãng mạn, nương vào tình cảm lãng mạn là nguồn gốc của hạnh phúc. Một bệnh nhân trước đây của tôi, David, hiện ra trong tâm trí tôi. David, một kiến trúc sư 34 tuổi về ngành xấy dựng vườn hoa và công viên, đến phòng bệnh của tôi với triệu chứng điển hình của một sự suy nhược nghiêm trọng. Anh ta giải thích sự suy nhược này là do một số công việc lặt vặt làm cho anh bị căng thẳng, nhưng “đại loại là mới bắt đầu” Chúng tôi chọn cách dùng thuốc chống suy nhược, anh ta đồng ý, và chúng tôi cho anh thử thuốc chống suy nhược bình thường. Thuốc chứng tỏ có hiệu quả, trong vòng ba tuần lễ triệu chứng đau cấp tính của anh đã thuyên giảm và anh trở lại làm việc bình thường. Tuy nhiên trong khi tìm hiểu bệnh sử của anh chảng mấy chốc tôi nhận thức ra rằng thêm vào cái suy nhược cấp tính anh đã bị suy nhược nhẹ (dysthymia), một dạng suy nhược kinh niên ở mức độ thấp ấm ỉ từ nhiều năm. Sau khi bình phục chứng suy nhược cấp tính, chúng tôi bắt đầu tìm hiểu tiểu sử của anh, đặt nền móng giúp chúng tôi tìm hiểu những động lực tâm lý bên trong đã gây ra chứng suy nhược nhẹ từ nhiều năm. Sau một vài lần khám bệnh, một hôm David vào phòng tôi với bộ dạng hớn hở. Anh nói ” tôi cảm thấy tuyệt vời”, “tôi chưa bao giờ cảm thấy như vậy từ nhiều năm nay “.

 

 

Phản ứng của tôi về tin vui này là ngay lập tức đánh giá xem liệu có phải là anh đã đi vào giai đoạn tính khí rối loạn thất thường không, tuy nhiên điều đó không đúng.

 

 

Anh nói với tôi ” Tôi đang yêu. Tôi gặp nàng tuần trước tại chỗ tôi đấu thầu. Nàng là người đẹp nhất mà tôi đã từng được thấy”.

 

 

Tuần này đêm nào chúng tôi đều đi chơi với nhau, quả thật chúng tôi là một cặp tâm hồn – hoàn toàn hợp với nhau. Tôi thật không thể tin là như vậy! Tôi không hẹn hò gì hai ba năm nay, và đi đến chỗ nghĩ rằng sẽ không bao giời có thể gặp được ai vùa ý, rồi thì bỗng nhiên có nàng”.

 

 

Trong suốt buổi nói chuyện với tôi, David liệt kê những ưu điểm đáng chú ý của người bạn gái mới của mình.”Tôi nghĩ rằng chúng tôi hoàn toàn hợp nhau trên mọi phương diện. Không phải chỉ về xác thịt, chúng tôi quan tâm giống nhau đến mọi sự, thật là dễ sợ sao mà chúng tôi lại suy nghĩ giống nhau đến thế. Đương nhiên, tôi rất thực tế, và tôi hiểu rằng chẳng ai mười phân vẹn mười. Một đêm nọ tôi hơi khó chịu một chút vì tôi nghĩ nàng có vẻ cợt nhả vài gã trong câu lạc bộ mà chúng tôi đến chơi tại đây… nhưng cả hai chúng tôi đều uống quá nhiều và cô ấy chỉ muốn vui mà thôi. Chúng tôi bàn cãi về chuyện ấy, và sau mọi chuyển ổn thỏa”.

 

 

David trở lại phòng mạch tuần lễ sau đó và báo cho tôi biết anh đã quyết định thôi không chữa bệnh nữa.” Mọi sự đều tuyệt vời trong đời tôi, tôi không thấy còn gì phải nói về chữa bệnh” Anh giải thích.”Chứng suy nhược của tôi đã hết, tôi ngủ như một đứa trẻ, tôi trở lại làm việc rất tốt, tôi có quan hệ tuyệt vời, dường như càng ngày càng tốt hơn. Tôi nghĩ rằng tôi đã được lợi ích gì đó trong những lần chữa bệnh, nhưng nay tôi thấy không thể tốn kém tiền bạc để chữa bệnh khi không còn gì phải làm”.

 

 

Tôi nói với anh tôi rất vui biết mọi việc tốt đẹp với anh nhưng cũng nhắc anh lưu ý đến một vài vấn đề gia đình mà chúng ta nhận biết có thể dẫn đến bệnh suy nhược kinh niên. Suốt lúc ấy những thuật ngữ tâm thần thông thường như “đề kháng” và “bảo vệ” bắt đầu hiện ra trong tâm trí tôi.

 

 

Anh không tin: “Được đây; có thể là những chuyện mà một ngày nào đó, tôi sẽ xét đến” Anh nói. “Nhưng tôi thực sự nghĩ rằng phần lớn do sự cô đơn, một cảm giác thiếu ai đó, cần phải có một người đặc biệt để chia sẻ mọi thứ, và nay tôi đã tìm thấy nàng.”

 

 

Anh nhất quyết muốn chấm dứt việc chữa trị vào ngày đó. Chúng tôi sắp xếp để vị bác sĩ gia đình của anh theo dõi chế độ thuốc men, phê duyệt và chấm dứt khám bệnh, tôi kết thúc với sự bảo đảm là phòng mạch của tôi lúc nào cũng sẵn sàng tiếp đón anh.

 

 

Một vài tháng sau, David trở lại phòng mạch của tôi.

 

 

“Tôi hết sức đau khổ”, anh nói với một giọng buồn nản. “Lần trước, tội gặp ông, mọi sự đều tuyệt vời. Tôi thực sự nghĩ rằng tôi đã tìm được người bạn đời lý tưởng thậm chí tôi đã nghĩ đến việc hôn nhân. Nhưng dường như tôi càng tiến gần bao nhiêu thì nàng lại càng lùi xa bây nhiêu. Cuối cùng nàng đã chấm dứt quan hệ với tôi. Quả thật tôi bị suy nhược một đôi tuần sau đó. Thậm chí tôi bắt đầu gọi điện thoại chỉ để nghe giọng nói của nàng, và lái xe đến chỗ nàng làm việc chỉ để xem xe của nàng có ở đây không. Sau khoảng một tháng tôi ốm vì làm việc đó – thật là quá nực cười – và dù sao triệu chứng suy nhược của tôi cũng tăng lên. Tôi vẫn ăn uống, ngủ nghỉ tốt, vẫn đi làm tốt, và tôi vẫn có dồi dào sức lực nhưng tôi vẫn cảm thấy như thể là mất mát một phần nào trong tôi. Giống như tôi lại trở về với tình trạng trước đây, giống như cảm tưởng mà tôi đã bị nhiều năm.

 

 

Tôi lại bắt đầu điều trị cho anh.

 

 

Dường như rõ ràng là nguồn hạnh phúc, tình ái lãng mạn để lại nhiều điều khắc khoải. Và có lẽ Đức Đạt Lai Lạt Ma đã biểu lộ sự bác bỏ khái niệm tình yêu lãng mạn là cơ sở để quan hệ và Ngài mô tả tình yêu lãng mạn chỉ là “ảo tưởng không thể đạt được”, không đáng nỗ lực. Quan sát kỹ lưỡng hơn, có lẽ Ngài đã mô tả bản chất của tình yêu lãng mạn một cách khách quan chứ không phải dưa ra phán xét giá trị tiêu cực bị ảnh hưởng sau nhiều năm tu tập với tư cách một nhà sư. Ngay cả nguồn tham khảo khách quan như tự điển cũng chứa đựng một tá định nghĩa về “lãng mạn”, “mơ mộng”, có quá nhiều cách nói như “truyện hư cấu”, “sự cường điệu”, “sự bày tỏ sai lầm”, “không có thật hay tưởng tượng”, “không thực tiễn”, “không có cơ sở thực tế”, ” tiêu biểu cho hay bận tâm với sự làm tình hay tỏ tình được lý tưởng hóa” vân vân… Hiển nhiên dọc tiến trình văn minh Tây Phương đã có một sự thay đổi. Quan niệm thời cổ Thần Ái Tình (Eros), với ý nghĩa cơ bản hợp thành một, hay hợp nhất với người kia, nay đã có ý nghĩa mới. Tình yêu lãng mạn chỉ đạt được phẩm tính giả tạo, có hương vị gian lận và dối trá, một phẩm tính khiến Oscar Wilde chán nản nhận xét “Khi yêu, bao giờ cũng bắt đầu bằng cách tự lừa dối mình, rồi bao giờ cũng chấm dứt bằng cách lừa dối người khác. Đó là cái mà thế giới gọi là tình yêu lãng mạn”.

 

 

Ở phần trước, chúng ta đã khảo sát vai trò của sự thân mật và riêng tư như một thành phần quan trọng trong hạnh phúc con người. Không có gì nghi ngờ gì về việc đó cả. Nhưng nếu tìm cách kéo dài sự thỏa mãn trong quan hệ, nền móng của quan hệ ấy phải vững chắc. Chính vì lý do đó mà Đức Đạt Lai Lạt Ma khuyến khích chúng ta nên xét đến cơ sở căn bản của mối quan hệ, nếu chúng ta thấy mình đang ở trong quan hệ sắp trở thành tồi tệ. Sự lôi cuốn xác thịt, và thấm chí cả cảm tưởng mạnh của sự phải lòng nhau, có thể đóng vai trò trong việc hình thành sự ràng buộc đầu tiên giữa hai người, thu hút họ gắn bó với nhau, giống như keo dán, tác nhân liên kết đầu tiên cần phải kết hợp với những chất liệu khác trước khi chúng có thể dính chặt lâu dài nhau. Nhận biết ra những chất liệu này, chúng ta quay trở lại với cách giải quyết của Đức Đạt Lai Lạt Ma là phải xấy dụng mối quan hệ mạnh mẽ – quan hệ của chúng ta dựa vào những đức tính về sự yêu mến, tình thương, tôn trọng lẫn nhau là con người. Quan hệ dựa trên những đức tính ấy giúp chúng ta đạt được mối liên kết sâu xa và có ý nghĩa không chỉ với người tình, hay chồng vợ mà còn với bạn bè, người quen, và cả những người lạ – thực tế là bất cứ con người nào. Nó mở ra vô số khả năng và cơ hội cho việc giao tiếp.

 

 

-ooOoo-


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.