Muôn Kiếp Nhân Sinh 2
Phần Ba – Nghiệp Báo Và Tương Lai Nhân Loại: Bí Ẩn Ngôi Nhà Cổ
Khi mới bước chân vào lĩnh vực đầu tư tài chính, tôi làm cho JPMorgan Chase & Co., một trong những tập đoàn tài chính lâu đời nhất thế giới, dưới quyền của một người quản lý tên Don C. Ông là một chuyên gia đầu tư với nhiều năm kinh nghiệm và đã hướng dẫn tôi rất nhiều từ lúc tôi mới vào nghề. Sau hơn mười năm làm việc, tôi thành lập công ty riêng và mời Don tham gia cùng tôi với vai trò đối tác. Nhưng ở thời điểm đó, việc có chân trong một công ty khởi nghiệp không phải là ưu tiên của ông, vì vậy ông chỉ đồng ý tham gia với vai trò cố vấn trong giai đoạn đầu thành lập công ty. Chúng tôi đã giữ mối quan hệ bạn bè thân thiết suốt nhiều năm kể từ đó.
Năm ngoái, Don về hưu. Ông mua một căn nhà gần bờ biển tại Hyannis Port, thuộc tiểu bang Massachusetts, Mỹ, cùng vợ ông là Susan dọn về đầy để nghỉ ngơi, an hưởng tuổi già. Gần đây, ông mời vợ chồng chúng tôi đến chơi. Có dịp gặp lại người bạn lâu năm, dĩ nhiên là chúng tôi không thể chối từ.
Chúng tôi đến thăm vợ chồng Don vào một ngày cuối tuần. Ngôi nhà của hai vợ chồng tọa lạc tại một khu đất thoáng rộng, cạnh bờ biển. Đó là một ngôi nhà đẹp theo lối kiến trúc cổ kính, với những đường nét hài hòa, tạo cảm giác ấm cúng và yên bình. Theo lời ông Don thì ngôi nhà này được xây từ đầu thế kỷ 20. Quanh nhà còn có khu vườn rất rộng, lại thêm ở gần biển nên không khí trong nhà luôn thoáng mát, trong lành. Don đưa chúng tôi đi tham quan một vòng quanh nhà, ông nói với vẻ hài lòng:
– Phần lớn những ngôi nhà quanh đây đều đã được tân trang lại cho hợp thời và tiện nghi hơn, nhưng tôi thì thích kiến trúc cổ kính nên từ lúc chọn mua ngôi nhà này, tôi hầu như đã giữ nguyên mọi thứ. Đây là lối kiến trúc tân cổ điển thịnh hành đầu thế kỷ 20. Nhìn những đường nét tì mỉ của ngôi nhà có thể hình dung sự khéo léo và tận tâm của những người thợ lành nghề. Hiện nay không còn nhiều ngôi nhà như thế này nữa.
Don chỉ vào chiếc lò sưởi đang có những thanh củi rực cháy, phát ra tiếng kêu lép bép:
– Đa số gia đình ngày nay đều dùng lò sưởi điện rồi, nhưng tôi vẫn thích cảm giác ấm cúng của lò sưởi dùng củi như thế này. Nó gợi lại cho tôi về sự giản dị, êm đềm của đời sống xưa cũ.
Don tiếp tục dẫn chúng tôi lên lầu, chỉ vào cầu thang gỗ dưới chân, ông hào hứng:
– Căn nhà này xây cả một trăm năm rồi mà còn vững chắc lắm. Ông thấy không, cầu thang này bằng gỗ nhưng không hề phát ra tiếng cọt kẹt khi bước đi. Nhiều công trình bây giờ sử dụng các vật liệu nhân tạo không làm được như thế đâu.
Bước lên hết cầu thang là căn phòng có cửa sổ lớn nhìn ra vườn, trong phòng cũng có một lò sưởi nhỏ và ở góc phòng có kê một chiếc bàn gỗ rất lớn. Don nói, không giấu giếm vẻ hãnh diện:
– Ông xem này, chiếc bàn tuyệt đẹp này được làm từ thân cây cổ thụ, có lẽ cũng phải đến trăm năm tuổi. Nhìn những đường nét vân gỗ này xem, như một bức tranh vậy. Tôi được biết, người làm ra nó là một thợ mộc nổi tiếng. Ông hãy nhìn kỹ từng chi tiết này, tất cả bộ phận được ráp vào nhau khéo léo bởi những mộng gỗ chắc chắn chứ không đóng đinh như bàn ghế ngày nay.
Tôi chắc là hiện nay không còn mấy người sản xuất theo kiểu thủ công tinh xảo như thế này nữa.
Tôi gật đầu, tán thưởng thiết kế độc đáo của chiếc bàn. Don nói tiếp:
– Tôi nghĩ nó được làm cùng lúc với căn nhà, vì nó lớn thế này người ta không thể khuân nó qua khung cửa hẹp kia được. Dù đã về hưu và không mấy khi dùng đến bàn làm việc nữa, nhưng tôi đặc biệt rất thích chiếc bàn này.
Sau khi tham quan khắp căn nhà, thưởng lãm và trầm trồ những món đồ trang trí trang nhã mà vợ chồng Don đã chọn bài trí cho phù hợp với phong cách cổ kính nơi đây, Angie cùng Susan vào bếp chuẩn bị bữa ăn tôi. Tôi xin phép ra vườn dạo một chút. Khu vườn rộng và rất mát mẻ với cây cối xanh tươi, được chăm sóc cẩn thận. Tôi dạo bước dưới bóng mát của những hàng cây, một làn gió lạnh lùa qua khiến tôi rùng mình, đưa tay kéo áo khoác trùm kín cổ. Sự tĩnh lặng dưới hàng cây vừa tạo cảm giác thanh bình, vừa có chút gì rờn rợn. Tôi nhắm mắt, hít một hơi thật sâu thứ mùi nồng nồng của rêu trên những thân cây cổ thụ, lẫn với mùi biển mát lành. Khi mở mắt ra, tôi nhìn thấy dưới một gốc cây to cạnh hàng hiên có một ông lão đang ngồi trên băng ghế đọc sách, ông lão cũng nhìn thấy tôi, ông quan sát tôi một lúc rồi khẽ gật đầu chào. Tôi gật đầu đáp lại, ông lão có vẻ ngạc nhiên. Tôi thầm nghĩ có lẽ đây là người nhà của Don. Tôi định bước về phía ông chào hỏi thì chợt nghe tiếng Don sau lưng, ông ra vườn tìm tôi, tay cầm hai ly rượu. Tôi nói cảm ơn, nhận ly rượu từ tay Don và quay người lại phía băng ghế nhưng đã không còn thấy ông lão lúc nãy ở đó. Tôi nhìn quanh cũng không thấy người đâu, bèn quay lại hỏi Don:
– Hình như còn có người thân của ông ở đây phải không? Lúc nãy tôi gặp một người đàn ông ở đây, chưa kịp chào hỏi thì đã không thấy ông ấy đâu nữa.
Don giật mình, tỏ vẻ kinh ngạc:
– Ông thực sự nhìn thấy ông ấy ư? Vậy là cảm giác trước đây của tôi đúng rồi…
Tôi trả lời, cũng không giấu vẻ ngạc nhiên:
– Tôi thấy chứ sao không? Ông ấy ngồi ngay kia mà, ông ấy còn gật đầu chào tôi. Có phải người thân của ông không? Tôi chưa kịp chào hỏi gì cả. Don xua xua tay, giọng hơi căng thẳng:
– Không đâu, nhà này chỉ có hai vợ chồng chúng tôi thôi. Nhưng tôi đã luôn có cảm giác rõ rệt ở đây còn một ai đó khác… Nhưng dẫu sao thì xin ông đừng nói gì về việc này với nhà tôi nhé. Tôi không muốn bà ấy lo lắng.
Vẻ ngập ngừng của Don càng khiến tôi thấy khó hiểu. Tuy vậy, tôi cũng gật đầu:
– Được rồi, nếu đó là việc riêng của gia đình ông thì tất nhiên tôi sẽ không nhắc đến nữa.
Don im lặng, do dự một lúc rồi tiến lại gần tôi, nói nhỏ:
– Có thể ông cảm thấy chuyện này hơi hoang đường, nhưng người mà ông vừa gặp… có lẽ không phải là người, mà là một hồn ma. Vợ chồng tôi dọn về đây không bao lâu thì tôi bắt đầu cảm giác được sự hiện diện của một ai đó trong nhà. Có lần tôi giật mình thức dậy vì nghe thấy tiếng bước chân ngoài hành lang. Lúc đó, tôi cố gắng đè nén nỗi sợ hãi, nhẹ nhàng mở ngăn kéo lấy khẩu súng, cầm chặt và im lặng chờ đợi. Tôi không dám làm điều gì sơ suất. Tuy nhiên, tiếng bước chân đã hoàn toàn biến mất, cũng may lúc đó, vợ tôi vẫn say ngủ. Tôi khẽ mở cửa đi ra. Mặc dù giữa mùa hè nhưng tôi chợt cảm thấy một cơn ớn lạnh rùng mình. Tôi mở công tắc đèn quan sát mọi nơi. Ngôi nhà không có dấu hiệu của sự xâm nhập bất hợp pháp. Tôi tự an ủi mình thần hồn nát thần tính nhưng vẫn cảm thấy bất an. Một lần khác khi làm việc khuya ở phòng khách dưới nhà, tôi nghe thấy tiếng lịch kịch, dường như là tiếng mở ngăn kéo chiếc bàn lớn trên lầu. Tôi mở điện thoại và sẵn sàng gọi cho 911, đúng lúc đó thì vợ tôi mở cửa vào nhà, cô ấy vừa đi dự tiệc sinh nhật một người bạn cũ. Tôi vội ra hiệu cho vợ im lặng, và chỉ lên lầu ra dấu cho vợ tôi biết là có người đột nhập, vợ tôi hốt hoảng lắm. Cô ấy ra hiệu cho tôi gọi cho cảnh sát, nhưng đúng lúc đó, tôi lại nghe thấy tiếng bước chân ô hành lang trên lầu đi về hướng chúng tôi. Theo phản xạ tôi nhìn lên trên nhưng hành lang không một bóng người, tiếng bước chân cũng không còn. Tôi cầm lấy cây gậy đánh golf, ra hiệu cho vợ tôi đi ra ngoài vườn trước rồi tôi la lên: “Chúng tôi có súng, dù anh là ai hãy rời khỏi đây! Tôi đã gọi cảnh sát và họ sẽ đến ngay”.
Tôi cũng bị cuốn vào câu chuyện và hỏi:
– Rồi mọi chuyện sau đó thế nào?
Don khẽ lắc đầu:
– Đáp lại tiếng quát của tôi là sự tĩnh lặng đáng sợ. Đợi thêm một lúc, tôi lấy hết can đảm đi lên cầu thang. Đôi tay cầm gậy golf của tôi ướt đẫm mồ hôi. Hành lang hoàn toàn im ắng, thậm chí, cánh cửa phòng phát ra tiếng động lịch kịch mà tôi nghe thấy cũng đóng kín, không có vẻ như có ai vừa đi ra từ căn phòng đó. Tôi mã toàn bộ đèn hành lang nhưng không thấy ai. Tôi xuống nhà và gọi vợ tôi vào nhà. Tôi hỏi cô ấy rằng lúc mới vào nhà có nghe thấy tiếng bước chân trên hành lang không thì cô ấy bảo: “Em chỉ thấy anh ra dấu cho em yên lặng, sau đó, anh ra hiệu cho em đi ra vườn, em không hề nghe thấy tiếng bước chân nào. Có khi nào anh làm việc khuya quá, tinh thần mỏi mệt nên sinh ra ảo giác không?”.
Những ngày sau, tôi vẫn không cho rằng đây là chuyện ma quỷ gì, chỉ nghĩ là người lạ xâm nhập, nên đã lắp thêm hệ thống báo động quanh nhà. Vậy mà tôi vẫn nghe thấy những tiếng động lạ trong nhà, dù cửa thì vẫn khóa kỹ, chuông báo động cũng không kêu. Kỳ lạ hơn, chỉ mình tôi nghe thấy còn vợ tôi hoàn toàn không cảm nhận được có sự khác thường nào. Chuyện này chính tôi cũng không giải thích được nên cũng chẳng kể với ai ngoài vợ tôi. Vợ tôi nghe kể thì cũng hơi chột dạ, muốn bán căn nhà này đi, nhưng tôi không nỡ. Ông thấy đó, ở đây gần biển, không khí trong lành, không gian yên tĩnh và chỉ mấy mươi phút là có thể đến Bayberry Hills Golf Course để chơi golf…
Don ngừng lại, nhìn tôi như thăm dò, rồi nói tiếp:
Có nhiều khi, nếu chuyện không xảy ra với mình thì mình vẫn không tin là có thật. Từng tuổi này rồi, tôi cũng trải qua nhiều, cũng không còn cố chấp giới hạn niềm tin của mình nữa. Qua một thời gian, tôi cảm nhận được rằng nếu thật sự có một linh hồn ở nơi này thì họ cũng không làm hại gì chúng tôi. Dần dần, chúng tôi cũng không quá căng thẳng nữa. Cũng lạ là gần đây tôi không còn nghe thấy những tiếng động lạ đó nữa. Vừa nãy nghe ông kể chuyện nhìn thấy người đàn ông lạ mặt trong vườn một cách rõ ràng tôi mới giật mình. Nhưng nếu đó là linh hồn thì sao ông lại nhìn thấy rõ ràng, thật kỳ lạ…
Tôi im lặng, vừa ngạc nhiên vừa bối rối trước câu chuyện vừa nghe. Mãi sau, tôi mới lên tiếng:
– Sau những trải nghiệm mà tôi từng đi qua, tôi không quá bất ngờ về những linh hồn vẫn tồn tại quanh chúng ta, nhưng tôi không biết tại sao tôi lại có thể nhìn thấy ông ấy rõ ràng đến vậy…
Don lắc đầu:
– Thỉnh thoảng tôi cảm nhận được lờ mờ sự hiện diện của ông ấy, còn thấy rõ thì chưa bao giờ. Còn nếu người đàn ông mà ông vừa thấy là người thì hệ thống chuông báo động tinh vi mà tôi lắp đặt đã phải kêu rồi.
Tôi vừa định nói thêm thì nghe tiếng gọi từ trong nhà, Susan và Angie đã chuẩn bị xong bữa ăn tối. Chúng tôi vừa ăn vừa trò chuyện thân mật trong tiếng nhạc của Frank Sinatra, một tuyển tập kinh điển mà chúng tôi đều cùng yêu thích từ thời còn thanh niên. Sau bữa ăn, Susan đề nghị chúng tôi cùng đi dạo bờ biển vì hoàng hôn ở đây rất đẹp. Trong khi Angie và Susan vào phòng lấy thêm áo khoác vì không khí đã bắt đầu chuyển lạnh thì tôi bước ra khu vườn. Trong bóng chiều nhập nhoạng, tôi lại nhìn thấy ông lão kia, người mà giờ đây tôi đã biết có thể không phải là con người bằng xương bằng thịt giống như mình. Ông lão ngồi trên ghế, tay cầm một quyển sách, nhìn tôi với vẻ quan sát. Tôi do dự một chút, nhưng rồi thấy ông không hề có vẻ gì ác ý, tôi bèn lên tiếng:
– Xin chào ông. Tôi là Thomas.
Ông lão hơi giật mình, ông tiếp tục quan sát tôi một lúc, rồi ngập ngừng:
– Chào ông! Tôi… Đã lâu rồi tôi chưa nói chuyện với ai. Ông là người đầu tiên mà tôi có thể nói chuyện, kể từ khi…
Tôi nghe ra trong giọng nói của ông một sự thiết tha, bỗng có chút mủi lòng. Ông nhìn tôi với vẻ khẩn khoản, như có điều gì muốn chia sẻ. Tôi lên tiếng hỏi:
– Có phải ông có việc gì cần không? Xin hỏi tôi có thể giúp được gì cho ông?
Ông lão đứng dậy, tiến một chút về phía tôi, sau vài giây lưỡng lự, ông nói:
– Thật cảm ơn ông. Đúng là tôi có chút chuyện cần được giúp đỡ. Chúng ta có thể nói chuyện một chút được không?
Tôi gật đầu:
– Được chứ. Nhưng bây giờ chúng tôi chuẩn bị ra ngoài. Khi trở về tôi sẽ gặp ông ở đây, được không?
Ông lão gật đầu, tỏ vẻ cảm kích:
– Cảm ơn ông rất nhiều. Tôi sẽ đợi.
Tôi gật đầu chào ông lão rồi trở vào phòng khách, nơi mọi người đang chờ. Chúng tôi đi dạo quanh bờ biển, vừa nhìn ngắm khung cảnh thanh bình nơi đây vừa trò chuyện vui vẻ, đến tối muộn mới trở về nhà. Susan pha một bình trà nóng và chúng tôi ngồi ở phòng khách tiếp tục trò chuyện. Susan và Angie hào hứng trao đổi những bí quyết nấu ăn. Được một lúc, tôi xin phép ra ngoài hiên hóng gió. Don hỏi với theo:
– Có cần tôi đi cùng ông không?
Tôi lắc đầu:
– Ồ, không cần đâu. Tôi muốn ở một mình. Sự yên tĩnh nơi đây thật tuyệt vời, tôi muốn cảm nhận một chút.
Tôi khép cửa, bước ra khu vườn, dù trời tối, tôi vẫn nhìn thấy ông lão đã ngồi đợi sẵn trên băng ghế. Tôi gật đầu chào ông, lần này đã bớt đi sự dè chừng. Ông lão cũng gật đầu chào đáp lại tôi. Ông lên tiếng trước:
– Cảm ơn ông đã quay lại gặp tôi. Tôi đã ở đây lâu lắm rồi, đã cố thử cho người khác biết về sự hiện diện của mình và cố gắng giao tiếp với họ nhưng không thể. Người bạn của ông cũng là người khá đặc biệt, ông ấy có thể cảm nhận sự hiện diện của tôi, nhưng có đôi lần tôi thử nói chuyện thì ông ấy không nghe được, ông là người đầu tiên vừa nhìn thấy tôi vừa nghe được lời tôi nói.
Tôi hỏi:
– Nhưng ông là ai?
Ông lão tiến lại gần hơn một chút, hơi cúi người về phía trước, tự giới thiệu:
– Tôi tên là James G., là kế toán riêng cho một gia đình giàu có và nổi tiếng ở vùng này. Đây là nhà của tôi, đích thân tôi đã mời về những người thợ giỏi nhất, và chứng kiến họ cẩn thận thêm từng viên gạch, từng khúc gỗ để xây nên ngôi nhà. Ngôi nhà này chứa đựng rất nhiều kỷ niệm của tôi và gia đình, đồng thời chứa cả bí mật nữa. Tôi là người lo liệu sổ sách kế toán cho ông chủ, tôi giữ tất cả giấy tờ, tài liệu về tiền bạc của chủ tôi trong một hồ sơ chính thức để khai thuế. Nhưng có lẽ ông cũng biết, trong việc kinh doanh, không phải lúc nào tiền bạc đều rõ ràng, minh bạch. Ông chủ tôi có những chi tiêu vào việc riêng, không được công khai và tôi giữ những giấy tờ liên quan trong một hồ sơ bí mật mà chỉ có tôi và ông chủ biết thôi. Đây là những món chi tiêu có liên quan đến nhiều người, các cơ quan chính quyền và có thể ảnh hưởng đến danh dự của ông chủ tôi và dòng họ, cũng như những người có liên quan.
Ông lão dừng lại một lúc như để cẩn thận lựa chọn ngôn từ, rồi nói tiếp:
– Trong hồ sơ bí mật đó có một quyển sổ kế toán ghi rõ các khoản thu chi cho từng người, theo từng thời gian cụ thể, với các con số chi tiết. Rất nhiều thông tin riêng tư cần được giữ kín. Dù đã là chuyện hơn tám mươi năm trước rồi và ông chủ tôi cũng đã qua đời, nhưng nếu sự việc bị tiết lộ vẫn có thể gây hại cho nhiều người và hơn hết là ảnh hưởng đến danh dự của ông chủ tôi. Đáng lẽ ra tôi đã phải tiêu hủy cuốn sổ đó, nhưng chưa kịp thực hiện thì tôi bất ngờ qua đời vì xuất huyết não. Đã hơn tám mươi năm rồi, tôi vẫn canh cánh điều đó trong lòng và chưa bao giờ dám rời khỏi ngôi nhà này. Tôi phải ở đây để giữ cuốn sổ, tránh nó rơi vào tay người khác. Tôi chịu ơn ông chủ rất nhiều, thế nên, việc quan trọng đã hứa với ông chủ nhưng chưa hoàn thành khiến tôi cứ day dứt không yên.
Ông lão nhìn tôi bằng ánh mắt khẩn nài, nói tiếp:
– Thưa ông, hơn tám mươi năm rồi, tôi đã chờ đợi một người có thể giúp được tôi. Nay tôi may mắn gặp được ông, tôi có thể nhờ ông giúp tôi tiêu hủy tập hồ sơ đó được không? Chỉ khi nào thực hiện được tâm nguyện cuối cùng này, tôi mới yên lòng rời khỏi đây.
Tôi nhìn ông lão, cảm động trước lòng trung thành của ông, sau vài giây suy nghĩ, tôi trả lời:
– Được, tôi sẵn lòng giúp ông.
Ông lão cúi người về phía tôi, giọng xen lẫn giữa cảm kích và xúc động:
– Cảm ơn ông! Cảm ơn ông rất nhiều! Thưa ông, cuốn sổ đó đang nằm trong một ngăn kéo bí mật trong chiếc bàn gỗ lớn tại phòng làm việc trên lầu, tôi thấy ông đã đến chỗ đó rồi. Đó là chiếc bàn được thiết kế đặc biệt theo yêu cầu của tôi. Ngoài tôi ra, không ai biết đến ngăn kéo đó, càng không biết về những gì cất giữ bên trong. Ngay cả vợ và con tôi cũng không biết gì về việc này. Sau khi tôi chết, vợ tôi đã sống ở đây cho đến khi qua đời. Sau đó con trai tôi tiếp tục sống ở đây, nhưng không đụng chạm gì đến cái bàn đó hết. Năm ngoái, vì công việc, nó đã dọn đi California nên mới rao bán căn nhà này. Người chủ mới rất thích sự cổ kính của ngôi nhà nên không sửa sang gì và cũng ít khi sử dụng phòng làm việc, nhờ vậy chiếc bàn vẫn còn nguyên ở đó. Giờ tôi sẽ chỉ cho ông cách mở ngăn kéo bí mật đó, nhờ ông giúp tôi đem cuốn sổ đó đốt đi, không để lọt vào tay ai, có được không ông?
Tôi gật đầu:
– Được rồi, ông chỉ cho tôi cách lấy tập hồ sơ. Tôi sẽ giúp ông.
Ông lão lại cúi gập người, bày tỏ lòng cảm kích:
– Xin cảm ơn ông.
Tôi trở vào nhà, mọi người vẫn đang trò chuyện vui vẻ. Tôi nói với Don rằng mình hơi mệt, xin phép sử dụng phòng tắm trên lầu rồi sẽ xuống tiếp tục trò chuyện cùng mọi người. Khi tôi lên lầu, bước vào phòng làm việc và chốt cửa lại, đã thấy ông lão chờ sẵn trong phòng. Ông chỉ cho tôi cách mở ngăn kéo bí mật. Ngăn kéo đó được thiết kế nằm phía dưới một ngăn kéo khác, rất khó nhìn thấy và phải mở bằng chốt đặc biệt, cố gắng không gây ra tiếng động nào khi mở ngăn kéo bí mật ra, tôi tìm thấy trong đó một quyển sổ đã bạc màu cùng một số giấy tờ khác đã ố vàng. Tôi cầm cuốn sổ và tập hồ sơ đến lò sưởi và châm lửa đốt. Khi mảnh giấy cuối cùng đã cháy hết, tôi cẩn thận cào lớp tro để không lưu lại dấu vết. Xong việc, tôi quay người lại thì đã không thấy ông lão đâu nữa.
Khi tôi trở xuống nhà, Angie và Susan vẫn đang trò chuyện. Don đang ở hàng hiên hóng mát vối ly rượu vang trên tay. Don đang chờ tôi. Tôi bước ra hàng hiên, cầm ly rượu, cụng ly với người bạn của mình và nói nhỏ:
– Từ hôm nay, có lẽ ông sẽ không còn nhìn thấy ông lão kia nữa đâu.
Don không tỏ vẻ ngạc nhiên lắm, có lẽ ông đã linh cảm được chuyện gì, ông chỉ hỏi đơn giản:
– Nhưng ông đã làm gì?
Tôi mỉm cười, trả lời:
– Tôi đã yêu cầu ông lão đi nơi khác.
Don có hơi bất ngờ:
– Ông nói chuyện được với ông lão ấy ư? Ông có thể giao tiếp với họ ư? Tôi mỉm cười:
– Cho phép tôi không kể điều này. Dù sao thì tôi đã đề nghị ông ấy đi nơi khác, không làm phiền gia đình ông nữa, và ông ấy đồng ý. Từ nay ông và Susan có thể yên tâm.
Don nhìn tôi, mỉm cười ý nhị:
– Tôi biết chuyện không đơn giản như thế đâu. Chúng tôi có phòng tắm dưới nhà nhưng ông cố ý dùng phòng tắm trên lầu… Nhưng không sao, theo lời ông nói thì mọi chuyện tốt đẹp cả rồi. Tôi phải cảm ơn ông.
Tôi mỉm cười đáp lại:
– Phải, mọi việc đều tốt đẹp cả. Giờ ông bà có thể yên lòng ở ngôi nhà này, không cần lo lắng gì nữa.
Chúng tôi cụng ly, trò chuyện sang chủ đề khác. Làn gió biển thổi vào, mang theo cảm giác nhẹ nhàng, thanh mát.
*
Mấy tháng sau, tôi cùng Angie đến căn nhà tại Colorado để nghỉ cuối tuần. Tôi ghé thăm ông Kris và trong lúc trò chuyện, tôi cũng kể cho ông nghe câu chuyện diễn ra ở nhà Don. Kể xong, tôi hỏi:
– Trước đây ông có nói về cõi giới vô hình và cho tôi biết rằng đó là một cõi giới riêng biệt khác hẳn cõi trần, vậy người chết đã đi qua cõi đó, tại sao vẫn có thể trở về liên lạc với người sống?
Ông Kris thong thả đáp lời:
– Chúng ta hãy bắt đầu với những gì con người trải qua sau khi chết. Khi qua đời, con người rời bỏ xác thân vật chất và hiện hữu dưới hình thức khác gọi là thân trung ấm (Bardo) hay vong linh (Spirit). Đây là trạng thái trung gian giữa cái chết và lần tái sinh tiếp theo. Nhiều người gọi đó là ma, nhưng gọi như vậy là nhầm lẫn, vì ma quỷ là những thực thể sống ở cõi riêng của chúng. Danh từ thường gọi khác là linh hồn (Soul) cũng không chính xác, vì quan niệm đó cho rằng linh hồn là bất diệt, không thay đổi và chỉ di chuyển từ kiếp này qua kiếp khác. Do đó, theo quan niệm ấy, đã làm người thì làm người mãi, dù trong kiếp người đó có làm việc gì, bất kể tốt xấu, vẫn trở lại làm người. Tương tự, đã làm súc vật thì mãi làm súc vật, trải qua bao nhiêu kiếp cũng không thay đổi. Quay lại điều mà tôi đã nói với ông trước đây, cái duy nhất thật sự hiện hữu là tàng thức (A lại da thức), nó là căn bản của sự tồn tại, là nền móng của mọi tâm thức. Tàng thức có thể coi như cái kho chứa rất nhiều chủng tử (hạt giống). Mọi tư tưởng, lời nói, hành động trong một kiếp sống, dù tốt hay xấu, đều tạo ra nhân, hay chủng tử, được lưu trữ trong tàng thức, không bao giờ mất đi. Tùy vào sự thu xếp của luật Nhân quả mà một số chủng tử sẽ phát khởi, biểu hiện thành tâm thức trong mỗi kiếp sống. Do đó, tâm thức luôn luôn biến đổi, luân chuyển qua nhiều kiếp khác nhau, lúc làm người, lúc làm thú vật, lúc làm bậc tiên thánh ở cõi giới tâm thức cao hay ma quỷ. Có thể hình dung việc này như một người làm vườn vào kho lấy ra một số hạt giống để gieo trồng, tùy điều kiện đất đai, thời tiết hay tưới bón mà những hạt giống được chọn này sẽ mọc thành cây rồi trổ quả. Kiếp người cũng thế, tùy sự sắp đặt của luật Nhân quả mà người ta sinh ra tại một nơi chốn nhất định, với hoàn cảnh và tính tình riêng, không ai giống ai. Có người sung sướng, có người khổ đau, có người rất thông minh và có người lại khờ dại. Tất cả tính tình của một người đều chỉ là những chủng tử đã có sẵn trong tàng thức và được biểu hiện trong kiếp sống đó mà thôi.
Ông Kris dừng lại để tôi suy nghĩ, rồi tiếp tục:
– Trải qua vô lượng kiếp, chủng tử chứa trong tàng thức thì rất nhiều nhưng tùy nhân quả sắp đặt, hay nghiệp lực, mà chỉ một số nhỏ chủng tử được lấy ra cho mỗi kiếp sống thôi. Tùy hành xử cá nhân, tức thân – khẩu – ý trong mỗi kiếp sống mà chúng ta tiếp tục tạo thêm những cái nhân, lưu trữ vào trong tàng thức dưới dạng chủng tử. Do đó tàng thức là cái kho không bao giờ cạn, và chủng tử phát khởi là không bao giờ có hồi kết. Đó là lý do con người tiếp tục lưu chuyển mãi trong vòng sinh tử luân hồi, khi thì làm người, lúc thì làm thú vật, ma quỷ hay các bậc cao hơn. Khi chuyển kiếp làm người thì tâm thức (tức tàng thức) đến trước rồi các yếu tố vật chất cấu kết trong bào thai đến sau. Đên khi chết, các yếu tố vật chất tan rã trước, tâm thức là cái cuối cùng ra đi. Khi qua cõi âm, tâm thức chuyển thành một dạng của năng lượng, lưu lại đây một thời gian để chuẩn bị chuyển kiếp, cũng chính là giai đoạn thân trung ấm mà tôi vừa nhắc. Tuy nhiên, có những trường hợp đặc biệt khi vong linh còn ước nguyện chưa thành ở cõi trần, thì sẽ quanh quẩn tại đây, không chịu siêu thoát. Đó là trường hợp mà ông đã gặp tại Hyannis Port. Tuy nhiên, không phải cứ muốn là vong linh có thể liên hệ được với cõi trần. Nói đến chuyện người đã qua đời có thể liên hệ với người sống ở thế gian, đa số sẽ cho là chuyện tưởng tượng hoang đường, bởi không phải ai cũng thấy hay nghe được người đã khuất, vì giác quan và lý trí con người bị giới hạn trong thân xác nên phải cần đến trực giác mới có thể giao tiếp được với thế giới bên ngoài thế giới vật chất. Trường hợp của ông, chính trực giác đã giúp ông trò chuyện với người kia. Khi hai người trò chuyện, ông không nghe bằng âm thanh, bởi vong linh đó đâu còn giác quan vật chất để phát ra tiếng nói nữa. Chính trực giác đã giúp ông nghe được tiếng nói người đó bằng tâm thức, rồi chính trực giác giúp ông đáp lời ông ta trong tâm thức, từ đó giúp ông ta hoàn tất tâm nguyện để có thể siêu thoát.
Tôi hết sức ngạc nhiên trước những điều vừa nghe:
– Thật vậy ư? Tôi không ngờ sự việc diễn ra như thế. Vì khi trò chuyện với ông ấy, tôi hoàn toàn không ý thức được mình đang nghe và nói bằng trực giác. Tôi hiểu mọi thứ ông ấy nói rõ ràng như một cuộc trò chuyện bình thường. Nhưng tôi vẫn thắc mắc lắm, khi vong linh qua cõi bên kia sẽ như thế nào?
Ông Kris từ tốn giải thích:
– Bởi vì tâm thức mỗi người là khác nhau nên khi qua đời, mỗi người sẽ có một trải nghiệm khác nhau. Thế giới bên kia thuộc về phạm vi tinh thần nên những người duy vật, những người tin rằng chết là hết, khi qua đây sẽ không nhận thức được gì mà cứ ở trong trạng thái như người ngủ say. Đó là nghiệp quả của sự phủ nhận mù quáng. Phải mất nhiều năm, có khi cả thế kỷ, họ mới ý thức mình đã qua cõi khác.
Tôi ngạc nhiên:
– Người ta có thể không biết rằng mình đã chết sao? Tại sao lại như vậy? Ông Kris giải thích:
Người duy vật không tin vào những gì không thể nhận thức được bằng giác quan vật chất. Họ xem đời sống ở cõi trần là sự hiện hữu duy nhất và chết là hết, không còn điều gì tồn tại sau cái chết nữa. Niềm tin này trở thành điểm mù trong tâm thức của họ. Vì không chấp nhận sự tồn tại của một cõi giới nào khác nên sau khi chết, họ cứ mê man, bất động dù đã bước vào cõi tinh thần. Sau thời gian rất lâu, sự cố chấp của tâm thức tan dần, họ tỉnh dậy trong sự bỡ ngỡ, hốt hoảng, xúc động, mọi niềm tin trước đó đều đảo lộn và họ không biết bám víu vào đâu. Trong lúc hoang mang bối rối này, họ dễ bị những vong linh xấu lôi kéo hay bị các loài ma quỷ dẫn dụ vào những nơi mà đáng lẽ họ không phải đến.
Tôi hỏi:
– Nhưng làm sao người ta có thể biết về thế giới bên kia nếu chưa chết? Ông Kris mỉm cười, giải thích:
– Một người tu tập có định lực, khai mở được những giác quan đặc biệt thì có thể chuyển tâm thức qua cõi giới khác để quan sát và học hỏi. Trong thời buổi khoa học này, bất cứ ai nói về cõi giới bên kia cũng đều bị coi là hoang tưởng, nói xằng nói bậy, vì người ta đòi hỏi mọi thứ phải theo khoa học, phải có bằng chứng, được xác nhận bởi những nhà khoa học uy tín. Dĩ nhiên, những điều mắt ta không thể nhìn thấy thì ta không tin cũng là hợp lẽ. Nhưng con người chúng ta nhận thức mọi sự bằng giác quan và ít ai ý thức được rằng các giác quan này chỉ giới hạn trong một phạm vi nhỏ hẹp trong khi chúng ta sống trong một vũ trụ bao la. Ngày nay, khoa học đã chứng minh được sự tồn tại của thế giới vi sinh vật mà mắt thường không thể thấy, từ đó cho thấy quan niệm cho rằng cái gì không nhìn thấy được thì không tồn tại là còn thiếu sót. Ví dụ đơn giản nhất là không khí bao quanh chúng ta: Nó ở đó, nhưng chúng ta nào có thấy, và còn có bao nhiêu khí lực vô hình khác quanh ta mà các giác quan thông thường không thể nhận biết được, chúng ta giống như đang sống trong một phòng kín với ô cửa sổ rất nhỏ, nên chỉ có thể nhìn mọi vật qua ô cửa sổ đó thôi, không biết gì về thế giới rộng lớn bên ngoài. Con người, ngoài các giác quan thông thường của cơ thể vật lý, còn có những giác quan khác có thể giúp chúng ta nhận biết mọi sự, mọi nơi, mọi cõi, chỉ là không phải ai cũng biết cách sử dụng.
Ngay như các giáo sĩ, những người theo các tôn giáo, cũng chỉ nói rất sơ lược về các cõi giới bên kia, vì họ chỉ biết kinh sách đã dạy như thế chứ chưa từng đến đó trải nghiệm để có thể về trình bày lại. Tuy nhiên, vẫn có người nhờ khai mở những giác quan tinh nhuệ, có thể chuyển tâm thức đến những cõi giới kia, chứng kiến và thuật lại. Đây không phải điều gì đặc biệt khác thường, vì thật ra mọi người đều có những giác quan này nhưng không biết sử dụng đó thôi.
Tôi ngạc nhiên:
– Thật vậy sao? Mọi người đều sở hữu những giác quan đó sao?
Ông Kris gật đầu, xác nhận:
– Đúng thế, mọi người đều có những giác quan này nhưng muốn sử dụng thì cần phải có công phu tu luyện và định lực thâm sâu thì mới có thể chuyển tâm thức đến những cõi giới khác. Tôi có thể làm được việc này, nhưng dĩ nhiên ông không nhất thiết tin những gì tôi nói. Tự ông có thể suy xét, tìm hiểu, phân tích cẩn thận rồi hãy quyết định có nên tin hay không. Thật ra, ông và tôi đã từng làm việc này ở kiếp sống khác rồi, nhưng nay ông đã quên.
Một lần nữa, ông Kris lại nói về tiền kiếp của tôi, khiến tôi không thể không tự hỏi nếu mình đã có sự hiểu biết như thế thì tại sao quên? Chưa kịp nói ra thắc mắc của mình, thì ông Kris như đọc được ý nghĩ của tôi, đã mỉm cười nói thêm:
– Chúng ta đã từng tu tập cùng nhau trong nhiều năm, nhiều kiếp, nhưng con đường của chúng ta đi không giống nhau. Chúng ta đều có những ngã rẽ riêng, bài học riêng và nhân quả riêng phải trả, do đó ông và tôi có những trải nghiệm khác nhau nhưng tình bạn chúng ta vẫn như cũ, được nối tiếp từ những kiếp sống xưa. Vì vậy, tôi và ông mới có thể gặp lại nhau ở kiếp này để hoàn tất lời hẹn và sứ mệnh khi xưa.
Ông Kris nhìn tôi một cách thân ái rồi nói thêm:
– Cái chết chỉ là sự từ bỏ xác thân vật chất, còn tâm thức thì vẫn hoạt động nên khi qua cõi âm, vong linh vẫn có thể ý thức được những gì xảy ra nơi đây. Dĩ nhiên, lúc đầu ai cũng trải qua trạng thái bỡ ngỡ, lạc lõng, hay hoảng hốt một thời gian. Sau khi vượt qua điều đó, vong linh sẽ trải nghiệm trạng thái gọi là hồi quang phản chiếu (Terminal Lucidity), tất cả mọi việc đã trải qua trong kiếp sống vừa qua sẽ hiện rõ trong tâm thức, vì không còn bị trói buộc trong thân xác vật lý nên vong linh có thể nhận xét mọi việc một cách khách quan hơn. Tùy vào những gì tâm thức nhìn lại được trong lúc này mà vong linh có thể trải qua cảm giác tiếc nuối, buồn rầu, giận dữ hay hối hận và điều này sẽ ảnh hưởng đến kiếp sống về sau. Khi các gánh nặng của xác thân vật lý như bệnh tật hay áp lực của đời sống không còn, vong linh có thể suy nghĩ khách quan, rõ ràng, minh bạch hơn, không bị thành kiến chi phối nữa. Vì có thể nhìn mọi việc đúng như nó đã xảy ra, một số vong linh sẽ biết hối hận, biết nhận lỗi và tự trách mình đã làm những việc sai trái, rồi nảy sinh ước vọng hoàn thành việc gì đó để chuộc lỗi. Đây là giai đoạn rất quan trọng, vì khi đó tâm thức sẽ phối hợp với luật Nhân quả, khởi động một số chủng tử chứa trong tàng thức, chuyển thành nghiệp lực, thu xếp cho họ cơ hội học hỏi những gì họ cần học ở kiếp sau. Do đó, mỗi kiếp người được quyết định một phần nhờ luật Nhân quả và phần khác là nhờ tâm thức cá nhân, nhờ sự thức tỉnh sau trải nghiệm của từng kiếp sống, cả hai phối hợp với nhau quyết định hướng đi cho kiếp sống sau, cũng tức là bài học mà người ta phải học, mục đích mà họ muốn đạt được ở kiếp sau. Khi sinh ra, mỗi người đều có sẵn những mục đích được xây dựng trên tâm thức, và được nghiệp lực dẫn dắt để học bài học mà họ cần. Vấn đề là khi tái sinh làm người, người ta có nhận thức được điều đó không, có biết mục đích cuộc đời mình là gì không, có ý thức được điều họ cần học trong kiếp sống đó hay không. Nhiều người để cho dục vọng hay hoàn cảnh xung quanh lôi kéo, không tự biết mình, không biết mục đích của mình, rồi lạc lối vào con đường khác, nên không thể hoàn tất bài học và phải học đi học lại. Vòng luân hồi là như thế đó. Vì không tỉnh thức, cứ u mê, điên đảo, để hoàn cảnh xung quanh ảnh hưởng, người ta tiếp tục gieo nhân rồi phải trả quả. Nhân quả nối tiếp nhau không ngừng nên có khi vong linh chuyển kiếp làm người, có khi làm thú vật, hoặc đi đến cõi giới của ma quỷ.
Ông Kris dừng lại cho tôi suy nghĩ rồi nói tiếp:
– Cõi giới của loài người là môi trường thuận tiện nhất để học và áp dụng những bài học vì con người được lựa chọn sống như thế nào, làm những việc gì. Do đó, khi được chuyển sinh làm người, việc tự biết mình, tìm ra mục đích của đời mình là điều quan trọng. Nếu đọa lạc vào các cõi khác như súc sinh, hay ma quỷ thì rất khó có thể học được gì. Được sinh làm người là cơ hội rất quý báu, và nếu sống không mục đích, chỉ vật vờ trôi dạt theo hoàn cảnh xung quanh, để dục vọng lôi cuốn thì vô cùng đáng tiếc. Bởi vì một khi mất đi kiếp người thì sẽ trải qua thời gian rất lâu, qua rất nhiều sự tu tập mới có thể trở lại làm người.
Vì biết được rằng tâm thức con người lúc chết ảnh hưởng rất lớn đến kiếp sống về sau nên các tôn giáo đều khuyên con người hãy chuẩn bị cẩn thận cho sự chết. Tuy nhiên, không ai có thể biết mình sẽ chết lúc nào hay cần chuẩn bị ra sao. Một số tôn giáo đã đề cao thái quá sự chuẩn bị này qua việc tổ chức các nghi thức cần thiết trước khi từ trần. Nếu tin vào các nghi thức đó, người ta sẽ cảm thấy được cứu rỗi, vui vẻ ra đi khi được thực hiện nghi thức. Nhưng nếu không thực hiện được nghi thức đó thì sao? Chính niềm tin đó sẽ tạo ra sự sợ hãi vô ích. Đâu phải ai cũng chết già hay chết trên giường bệnh, đâu phải ai cũng có được các nghi thức trên. Nếu gặp tai nạn, chết bất thình lình thì sao? Nếu không có ai thực hiện nghi thức đó cho họ thì sao?
Ông Kris dừng lại để tôi suy ngẫm về câu hỏi trên, rồi nói tiếp:
– Thật ra trạng thái tâm thức của con người khi chết hoàn toàn phụ thuộc vào cách sống của họ ở kiếp sống đó. Sự chuẩn bị tốt nhất cho cái chết chính là sống một cuộc đời thanh cao, biết nhìn những biến cố cuộc đời – tốt cũng như xấu, vui cũng như buồn – một cách điềm đạm như đang đến lớp để học những bài học cần thiết, và chấp nhận sự chết như là việc đi qua lớp học khác. Nếu biết học bài học cần phải học, làm những việc cần phải làm, sống với mục đích rõ ràng thì trạng thái tâm thức khi chết không quan trọng nhiều. Trái lại, nếu sống một cuộc đời chỉ toàn là những toan tính, tranh chấp, tham lam, bạo lực hay hận thù, thì khi chết tâm thức không thể tránh khỏi u mê, lạc lối.
Tôi hỏi:
– Ông nói rằng ông có thể chuyển tâm thức sang cõi âm, vậy đời sống ở cõi đó ra sao?
Ông Kris giải thích:
– Bên kia cửa tử là cõi giới của tư tưởng, vì vậy nó luôn luôn biến đổi, tùy theo tâm thức của vong linh mà nó biến hiện thành các ảo ảnh khác nhau, vì không còn vật chất nên tâm thức con người lúc này rất nhạy cảm, bất cứ tư tưởng nào khởi lên đều có thể tạo ra các mãnh lực biến ý tưởng thành thực tại. Đa số vong linh đến đây vẫn còn giữ ý tưởng về cõi trần nên cõi âm này cũng hiện ra những nhà cửa, đồ đạc, phong cảnh tương tự như cõi trần. Khi quan sát cõi này, tôi thấy mọi hình ảnh đều mập mờ, rung động vì nó được tạo ra bởi tâm thức chứ không phải vật chất. Vong linh ở cõi này cảm thấy ở đó giống như cõi trần, không khác bao nhiêu, do đó họ thường không biết rằng mình đã chết. Vong linh vẫn nhìn thấy thân nhân, vợ con, bạn bè và mọi sự như cũ dù không tiếp xúc được nữa. Vong linh không bị giam kín trong quan tài mà thường trở về nhà hay những nơi quen thuộc, và dù rất cố gắng nhưng họ không thể liên lạc với người thân được, nên họ đâm ra bối rối, đau khổ hay tức giận. Trường hợp ở Hyannis Port theo tôi là khá hy hữu. Tôi không biết tại sao vong linh đó có thể hiện hình rõ ràng như người sống, có thể bởi vong linh quá tha thiết với tâm nguyện chưa hoàn thành nên sự gắn bó với cõi trần đặc biệt mạnh mẽ hơn. Cũng có thể ông đã có mối liên hệ nhân quả gì đó với vong linh này nên ông được sắp xếp để hoàn thành tâm nguyện của người đó. Cũng có thể người đó nhận ra ông có khả năng nên tìm cách liên lạc với ông. Và cũng có thể vì ông là một người đặc biệt, căn cơ tu tập sâu dày trong nhiều kiếp và kiếp này, ông đang dần thức tỉnh. Trong đời sống, có rất nhiều nhân duyên lạ lùng xảy ra mà chúng ta không hiểu hết được.
Khi chúng ta suy nghĩ điều gì thì tư tưởng đó hiện ra trong cõi tư tưởng. Vì sống bằng tâm thức nên vong linh cõi âm có thể biết được tư tưởng của người sống và họ cũng biết được những việc xảy ra sau khi mình qua đời. Giai đoạn này, những gì xảy ra ở cõi trần rất quan trọng, vì nó ảnh hưởng đến tâm thức của vong linh ở cõi bên kia. Nếu chứng kiến những điều không mong muốn thì vong linh có thể rơi vào trạng thái tiêu cực như tức giận, oán hận hay buồn bực. Nếu người cha để lại gia tài cho con cái khi qua đời nhưng các con lại tranh giành, cãi cọ, kiện tụng vì số tài sản đó thì vong linh sẽ cảm thấy thế nào? Nếu vong linh người vợ thấy chồng ân ái với người khác khi mình vừa qua đời thì sẽ cảm giác ra sao? Vong linh của những vua chúa có quyền lực lớn chứng kiến mọi công lao xây dựng lại bị người đời sau thay đổi, phá hủy thì sẽ khổ sở như thế nào? Những trường hợp này hẳn cũng dễ hinh dung. Ngoài ra, những người khi còn sống quá chú trọng thân xác, lo lắng săn sóc cho tấm thân bề ngoài thái quá, thì khi chết đi họ thường quyến luyến bên cái xác, không chịu đi đâu, cho đến khi nó rữa nát, tiêu vong. Việc này có thể kéo dài vài chục năm hay vài trăm năm tùy theo sự hủy hoại của vật chất. Ngày nay, nhiều xác chết được nhà quàn tiêm thuốc bảo quản để giữ cho thân xác được nguyên vẹn cho tang lễ, vô tình khiến cái xác khó tan rã và vong linh khó siêu thoát. Đó là lý do một số nơi chủ trương thiêu xác giúp cho vong linh siêu thoát nhanh hơn, vì khi đó vong linh không còn gì để quyến luyến nữa.
Tôi hỏi thêm:
– Ngoài những việc đó ra, khi chuyển tâm thức qua cõi âm, ông còn thấy gì nữa?
Ông Kris trả lời:
– Tôi đã thấy nhiều vong linh quanh quẩn bên ngôi nhà cũ của mình, không chịu rời bỏ và vô cùng đau khổ vì căn nhà đó bây giờ đã thuộc về người khác. Tôi đã gặp những vong linh bởi vì khi sống quen vui chơi với bạn bè nên sau khi chết cảm thấy buồn tủi vì không ai để chuyện trò. Những vong linh ham ăn uống còn bi đát hơn, phải quanh quẩn gần trà đình tửu quán, nhìn mọi người ăn uống, thèm muốn vô cùng nhưng không thể ăn gì được. Những vong linh ham thích nhục dục còn khổ hơn nữa vì nay không thể thỏa mãn nhu cầu xác thân. Những vong linh này thường tụ tập rất đông quanh những nhà hàng ăn uống hay thanh lâu kỹ viện. Những người say rượu hay sử dụng ma túy thường bị những vong linh này tìm cách nhập vào để hưởng dư vị của tâm thức khoái lạc và dần bị rút đi sinh lực. Nhiều người còn sống không hiểu biết về sinh lực nên thường phung phí vào những việc vô ích, trong khi sinh lực là thứ rất quý với các vong linh thiên về dục vọng. Chúng tìm đủ mọi cách để xúi giục mọi người si mê mù quáng, trụy lạc vào rượu chè hay ma túy, rồi nhập vào rút dần sinh lực của họ. Người nghiện rượu hay ma túy thường không thể bỏ những thứ này, một phần vì tính chất gây nghiện của chúng nhưng một phần cũng do mất kiểm soát ý chí, để những thế lực ở cõi âm xúi giục. Những người có tính nóng giận, hung bạo cũng dễ mất kiểm soát, bị những vong linh thiên về bạo lực nhập vào, xui họ làm những việc bạo động, như đánh đập, tra tấn, hành hạ người khác hay giết người một cách dã man. Và ông cứ nghĩ mà xem, những người mà khi còn sống đã bị những thế lực quái ác ảnh hưởng thì khi chết đi sẽ bị dẫn dắt đi đến đâu, làm những việc tồi tệ gì nữa. Ngoài ra nếu để ý, ông sẽ thấy hiện nay trên thế giới, số người sinh ra bị thiểu năng trí tuệ ngày càng tăng lên. Tại sao như vậy? Một số trong đó chính là những người từng sử dụng ma túy hay rượu, tự phá hoại đầu óc, trí tuệ của mình, nên kiếp này đầu óc không còn minh mẫn nữa.
Nói đến đây, giọng ông Kris chợt chậm lại:
– Hiển nhiên, khi từ trần, nếu vong linh mang tâm thức quyến luyến, tiếc nuối, buồn rầu, giận dữ thì rất có hại. Do đó, làm sao để cho vong linh có thể ra đi thanh thản, không buồn rầu, không luyến tiếc là rất quan trọng. Cách tốt nhất là đọc kinh cầu nguyện hay gửi những tư tưởng tốt lành cho người vừa ra đi để cho họ yên tâm, không quyến luyến. Khi rời bỏ xác thân, mọi giác quan đều ngừng hoạt động, tất cả mọi thứ vật chất như tiền bạc, tài sản, địa vị, danh vọng đều không thể mang theo được. Ngay những người thân yêu, như gia đình, vợ con, bạn bè cũng không thể ở bên cạnh nữa, thứ duy nhất hiện hữu chỉ có tâm thức và chính tình trạng của tâm thức trong giai đoạn đó sẽ quyết định kiếp sống tiếp theo, quyết định người ta đi về đâu, đến chỗ nào và học hỏi những gì. Dĩ nhiên, người có đời sống tinh thần lành mạnh thì khi chết thường sáng suốt. Tuy họ vẫn biết được những việc xảy ra ở cõi trần sau khi họ ra đi, nhưng họ cũng hiểu rằng sợi dây thân ái kia chỉ là nhân quả, rằng mọi quan hệ cũng do nhân duyên nên không còn quyến luyến và biết sử dụng thời gian này để chuẩn bị cho kiếp sống tương lai.
Nếu hiểu biết những điều này, chúng ta sẽ thấy việc khóc than, quyến luyến vào lúc đó không có ích lợi gì. Những điều người ta thêu dệt, bày vẽ như phải mặc quần áo thế này, phải tổ chức các đám tang to lớn, ăn uống linh đình tiễn đưa người chết thế kia, tất cả chỉ là quan niệm của những người thiếu hiểu biết. Tất cả mọi sự khóc than, buồn khổ chỉ làm hại cho người chết mà thôi. Khi vừa qua đời, vong linh sẽ trải qua trạng thái mê man vô thức trong thời gian ngắn, đó là lúc các giác quan vật chất bắt đầu tiêu vong còn các giác quan tinh thần được thúc động. Sau đó họ sẽ thức tỉnh ở cõi bên kia và tâm thức bắt đầu hoạt động. Nếu tang quyến khóc lóc, kể lể, kêu than, có thể khiến vong linh khó chịu, bực bội hay lo lắng, trong trạng thái đó làm sao họ bình tĩnh yên tâm để ra đi được?
Tôi hỏi thêm:
– Vậy vong linh sẽ ở cõi âm bao lâu trước khi chuyển kiếp?
Ông Kris từ tốn đáp:
– Thời gian ở cõi âm không có tiêu chuẩn nhất định, có vong linh ở đây rất lâu nhưng cũng có vong linh chỉ ở một thời gian ngắn. Điều đó tùy vào các yếu tố như thói quen từ kiếp sống trước và từ sự thu xếp của luật Nhân quả. Khi còn sống, con người có những thói quen gì thì khi chết những thói quen đó sẽ ảnh hưởng lên tâm thức của họ. Nếu con người không biết cách kiểm soát tư tưởng lúc còn sống thì khi chết làm sao họ có thể kiểm soát được nữa? Những người khi chết mà lòng vẫn còn đầy tư tưởng hận thù, xấu xa, oán trách sẽ khích động những chủng tử xấu trong tàng thức phát động, tạo thành nghiệp lực, đẩy họ đến những hoàn cảnh tồi tệ. Cũng như thế, những người có tư tưởng thánh thiện, thường làm việc lành, sẽ được sinh về những nơi tốt đẹp.
Không ai biết mình sẽ chết lúc nào nên việc chuẩn bị một tâm thức thanh cao ngay trong cuộc sống hàng ngày là cần thiết để không phải đọa lạc vào những nơi tồi tệ dễ vào khó ra. Theo sự hiểu biết của tôi, đa số vong linh chỉ lưu lại cõi âm khoảng vài chục ngày rồi chuyển kiếp. Những vong linh có nhiều quyến luyến sẽ ở lại đây lâu hơn cho đến khi những ràng buộc tiêu tan, rồi cũng chuyên kiếp. Những người có đời sống tâm linh tu luyện đến trình độ cao thường chuyển tâm thức để tái sinh làm người hay đi đến các cõi giới cao hơn ngay lúc vừa qua đời, nên không trải qua thời gian nào ở cõi âm. Những người quá mức hung ác, tham lam, ích kỷ thì bị sức mạnh của nghiệp lực lôi kéo nên chuyển kiếp thành súc sinh, hay ma quỷ ngay lập tức, nên cũng không lưu lại cõi âm.
Ông Kris dừng lại như suy nghĩ rồi tiếp tục:
– Tuy nhiên, cũng có trường hợp một số vong linh vì tâm thức sân hận, thù oán, tham lam, tiếc nuối quyền lực hay danh vọng quá mạnh nên không thể chuyển kiếp được. Họ trở thành một loại thực thể vô hình quanh quẩn, mắc kẹt nơi đây, không đi đâu được. Thực thể này lang thang tại nơi chốn nào đó, quấy phá hay đôi khi làm hại con người. Bởi vì vong linh chỉ là năng lượng thanh nhẹ, không bị ràng buộc bởi vật chất nên có thể làm được những việc khác người thường như đi xuyên qua tường vách hay vật cứng dễ dàng, vì cõi âm là cõi tư tưởng nên vong linh nghĩ đến đâu là có thể đến ngay chỗ đó chứ không bị yếu tố không gian hay thời gian chi phối. Điều này cũng giống như khi ông nghĩ đến nơi nào mà ông đã đi qua thì hình ảnh đó hiện ra ngay trong đầu ông vậy.
Một số vong linh có khả năng báo mộng cho người thân để khuyên bảo hay nhờ họ làm việc gì đó. Một số vong linh có thể biết trước vài sự kiện tương lai nên có thể nhập vào xác người đồng cốt để tuyên bố. Tuy nhiên không phải dự báo nào của vong linh cũng đúng vì sự hiểu biết của họ rất giới hạn, đôi khi còn hay phóng đại sự thật. Nhiều người khi sống đã nói những chuyện không có thật thì khi chết cũng hay nói khoác, nhập vào xác người đồng cốt chỉ để khoe khoang địa vị họ đạt được, ví dụ đã trở thành thần thánh nào đó. Thật ra con người khi sống thế nào thì khi qua thế giới bên kia cũng thế thôi, không thông minh, tài giỏi gì hơn. Tuy nhiên ở cõi âm, họ có thể đọc được tư tưởng người khác hay nhìn thấy trước một số việc, do đó họ có thể trả lời vài câu hỏi nên nhiều người cho rằng các vong linh là linh thiêng hay có quyền năng nào đó. Theo sự hiểu biết của tôi, phần lớn những câu trả lời của vong linh đều dựa vào tâm thức hay lòng mong cầu của người hỏi mà thôi. Do đó, những câu trả lời này có khi đúng và có khi sai. Dầu sao, chúng ta cần phải tránh tiếp xúc với các vong linh vì có thể tiềm ẩn nhiều nguy hiểm hay làm chậm trễ việc siêu thoát của họ.
Tôi hỏi thêm:
– Nói vậy thì những nghi lễ cầu hồn, cầu cơ đều không đúng, không đáng tin có phải không?
Ông Kris gật đầu, xác nhận:
– Có nhiều người muốn tiếp xúc với người đã khuất qua trung gian là người đồng cốt hay các nhà ngoại cảm. Thật ra những cuộc tiếp xúc này, nếu có thể xảy ra, đều không có lợi cho người đã khuất mà còn khiến họ thêm quyến luyến, cản trở sự siêu thoát của họ. Ông hãy nghĩ xem, một người sắp chuyển kiếp qua một cảnh giới khác mà cứ bị người thân níu kéo, kêu gọi, cản trở tiến trình tâm linh thì tâm thức của họ sẽ thế nào? Ngoài ra khi liên lạc với vong linh, đâu ai biết được đó là vong linh của người hay là ma quỷ? Cho dù đó đúng là vong linh người thân thì cõi bên kia vẫn thường có ma quỷ bám theo, từ đó theo vào nhà. Khi vong linh chuyển kiếp rồi, thì loài ma quỷ kia có thể tự nhận là vong linh, đưa ra các đòi hỏi cúng tế, bắt người ta giết hại các loài vật để dâng cúng cho chúng. Từ đó sẽ có ảnh hưởng không tốt đến cả gia đình, việc giết hại động vật để cúng tế thần linh là nghi thức của các phù thủy chuyên liên lạc với cõi âm để làm chuyện tà muội, nên tuyệt đối phải tránh. Bất cứ hình thức thờ cúng gì liên quan đến việc giết hại hay sử dụng máu thịt đều là phương pháp kêu gọi các loài ma quái từ cõi giới của chúng đến để tạo ảnh hưởng, gây ra hậu quả tai hại. Ngoài ra, người đồng cốt mê man cho vong linh nhập vào chiếm hữu xác thân cùng là điều vô cùng tai hại. Thế giới bên kia có đủ loại vong linh, tốt cũng như xấu, tệ hơn nữa là các loài ma quái xấu xa, ghê gớm. Một khi người đồng cốt đã mất hết ý chí thì không thể kiểm soát được vong linh nào sẽ chiếm hữu xác thân, sử dụng sinh lực của họ, cũng vì vậy mà dễ gặp nhiều vấn đề trong kiếp sống hiện tại và cả tương lai.
Tôi hỏi tiếp:
– Nói như vậy, chính cách sống của mỗi người mới quyết định sau khi chết họ sẽ đi về đâu, trở thành cái gì. Nhưng nhiều người tin vào quan niệm thiên đàng và địa ngục, họ tin rằng khi chết, chỉ cần trải qua một vài nghi thức thì có thể lên thiên đàng, nếu không thì sẽ phải vào địa ngục. Ông nghĩ gì về niềm tin này?
Ông Kris lắc đầu, rồi mỉm cười giải thích:
– Đó là một sự hiểu lầm tai hại do một số giáo sĩ thời Trung cổ đã cố tình dựng nên, tạo ra sự sợ hãi để bắt mọi người phải tuân theo một số giáo điều do chính họ đề xướng. Họ nói rằng khi chết con người chỉ có hai con đường để lựa chọn một là lên thiên đàng và hai là xuống địa ngục, và chính những nghi thức tôn giáo sẽ quyết định điều đó. Đó là quan niệm không logic chút nào, bởi nó cho rằng sau khi chết con người có thể thay đổi hoàn toàn. Một người dù xấu xa, tham lam, ích kỷ hay hung ác thế nào chỉ cần trải qua nghi thức nào đó thì tất cả tội lỗi đều được xóa sạch và được sống trên thiên đàng. Hoặc người hiền lành tử tế đến đâu, làm bao nhiêu thiện lành thì cũng mất hết, cũng có thể biến thành ma quỷ sống dưới địa ngục nếu không được thực hiện những nghi thức ấy. Con người ngày nay đã hiểu biết hơn, không còn mấy ai chấp nhận quan niệm phi lý này nữa, nhưng trước đây nó đã từng gây khổ sở cho loài người trong nhiều thế kỷ.
Tôi thắc mắc:
– Lúc nãy ông nói khi chết thì xác thân vật chất tan rã trước và tàng thức ra đi sau cùng nhưng khi chuyển kiếp tái sinh thì tàng thức sẽ đến trước các yếu tố vật chất. Nếu vậy thì khi nào bào thai bắt đầu có sự sống?
Ông Kris trả lời:
– Khi thụ thai thì tàng thức đã có mặt trước khi những yếu tố vật chất thành hình. Khi người nam và người nữ giao hợp, một vong linh có những nhân duyên liên hệ với họ có thể được luật Nhân quả thu xếp đến làm con của họ. Do đó, trên phương diện tâm linh, sự sống đã có mặt ngay từ khi thụ tinh. Tuy nhiên, ngày nay khoa học vẫn còn bàn cãi về việc này, chưa thể đi đến một kết luận rõ ràng, vì khoa học chỉ dựa trên sự phát triển sinh lý của bào thai theo thời gian, chứ không biết gì về các tác động của luật Nhân quả.
Tôi hỏi thêm:
– Như vậy, sự phát triển tâm thức cá nhân và bào thai diễn ra thế nào? Ông Kris giải thích:
– Khi vong linh đến vào lúc thụ thai thì tâm thức của bào thai đã bắt đầu khởi sinh. Theo thời gian và sự cấu tạo vật chất của thai nhi như đầu óc, chân tay và cơ quan nội tạng thì tâm thức cũng biến chuyển, có ý thức về các giác quan như: nghe, nhìn, mùi, vị, xúc chạm và tư duy. Đến khi sinh ra, tiếp xúc với ngoại cảnh thì tâm thức phát khởi thành ý thức và cảm xúc như yêu, ghét, vui, buồn hay giận hờn.
Ông Kris dừng lại, ngẫm nghĩ một chút rồi nói tiếp:
– Quan niệm phổ biến cho rằng việc dạy dỗ con cái chỉ có thể bắt đầu khi đứa trẻ lớn lên một chút, khoảng ba hay bốn tuổi, vì khi đó chúng mới có khả năng hiểu biết. Thật ra điều này không đúng, sự giáo dục có thể ảnh hưởng đến đứa trẻ ngay từ lúc nó còn trong bụng mẹ. Tình cảm giữa mẹ và con không phải chỉ có sau khi đứa trẻ ra đời mà đã bắt đầu từ khi đứa con được thành hình trong bụng mẹ. Do đó, người mẹ có tâm trạng gì thì đứa con đều biết. Nếu người mẹ thông minh, hiểu biết thì bà sẽ biết cách giáo dục đứa con bằng cách nói chuyện với nó ngay từ lúc mang thai, vì tâm thức đứa bé đã có từ lúc thụ thai nên việc liên hệ với nó càng sớm thì càng dễ có sự thông cảm giữa mẹ và con. Không những mẹ mà người cha cũng phải tìm cách nói chuyện với con từ lúc nó còn là bào thai. Điều này sẽ tạo ảnh hưởng tốt đẹp đến đứa trẻ, giúp nó trở nên khôn ngoan, dễ dạy hơn. Nếu cha mẹ thường xuyên ở trong trạng thái giận dữ, hay cãi nhau trong giai đoạn người mẹ mang thai, thì chắc chắn đứa trẻ cũng dễ dàng trở nên nóng tính, hung dữ khi lớn lên. Nếu cha mẹ quá mải mê công việc, tính toán, âm mưu hơn thiệt thì đứa con sau này cũng sẽ cứng đầu, khó dạy, không nghe lời và thường bị bệnh suyễn, hay ngạt thở. Cho nên, thai giáo, hay sự giáo huấn, dạy dỗ trong giai đoạn thai nhi là rất quan trọng. Thật ra quan niệm thai giáo đã có từ xa xưa, từ thời của các nền văn minh cổ. Tiếc thay, ngày nay người ta vẫn tranh cãi chứ không hoàn toàn công nhận việc này, bởi họ cho rằng không có bằng chứng cho thấy bào thai có khả năng học hỏi.
Ông Kris nói tiếp:
– Mọi đứa trẻ sinh ra đều có những liên hệ nhân quả với cha mẹ nó. Luật Nhân quả vô cùng phức tạp, khó lòng biết được đó là nhân duyên, là nợ nần thế nào, nhưng dẫu sao, mỗi đứa trẻ được sinh làm người là để có cơ hội học hỏi những bài học chúng cần học, để chuyển hóa và thăng cấp. Khi sinh ra, mỗi đứa trẻ đều có những mong muốn hay mục đích cùng những tiềm năng sẵn có để hỗ trợ cho việc học hỏi của chúng. Do đó bổn phận của cha mẹ là ý thức việc này để hướng dẫn, giúp cho con mình có được cơ hội học hỏi, phát triển theo ý nguyện hoặc giúp con tự tìm ra mục đích đời mình. Đa số cha mẹ không hiểu được việc này nên thường ép buộc con cái phải làm việc này việc nọ để đáp ứng những mong muốn của chính họ thay vì của con. Lẽ tất nhiên, cha mẹ nào cũng mong con mình thành công, giàu sang, có danh vọng, địa vị trong xã hội, nhưng liệu kiếm nhiều tiền, mưu cầu danh vọng và vật chất có phải là mục đích mà đứa trẻ đó tìm kiếm khi đến làm con họ không? Theo tôi, bổn phận của người làm cha mẹ là giáo dục con cái nên người, giúp chúng phát triển, trưởng thành, làm con có hiếu trong gia đình, công dân tốt của xã hội. Đó là nhân lành đóng góp tích cực cho cộng nghiệp của quốc gia. Khi đứa con trưởng thành, tự nó sẽ biết tìm ra mục đích của mình để học hỏi và hoàn tất những gì nó cần phải học. Nếu không biết dạy dỗ con, để đứa trẻ trở thành phần tử xấu, gây tai hại cho xã hội thì cha mẹ phải chịu trách nhiệm vì đã không hoàn thành bổn phận của mình.
Ông Kris thở dài:
– Có lẽ ông cũng thấy hiện nay con người đã trở nên phóng khoáng hơn trong quan niệm về tình dục. Người ta không còn bị giới hạn hay cấm đoán bởi các luật lệ, giáo điều, thậm chí còn được khuyến khích bởi phim ảnh, báo chí hay các phương tiện truyền thông, vì vậy mà việc nam nữ kết hợp đã trở nên bừa bãi, vô ý thức, vô trách nhiệm, khác hẳn khi xưa. Một vấn nạn kéo dài nhiều năm nay trên khắp thế giới là việc phá thai, khi mà những thanh thiếu niên chưa trưởng thành, chưa có đủ hiểu biết, chưa sẵn sàng làm cha mẹ nhưng đã có quan hệ tình dục dẫn đến có thai ngoài ý muốn. Các bào thai đều là những vong linh đang chuyển kiếp thành người để hoàn tất bài học hay hoàn thành tâm nguyện gì đó. Nếu cái thai bị phá, không được sinh ra thì tức là vong linh mất quyền được sống. Ông thử nghĩ mà xem, lòng oán thù sân hận của những vong linh này sẽ nặng nề như thế nào? Phá thai là sát nghiệp vô cùng nặng, vì nó không những tiêu diệt một sự sống mà còn phá hoại tình cảm của cả hai người và gia đình có liên quan nữa. Rồi những vong linh thai nhi đó sẽ làm gì? Vì liên hệ nhân quả từ trước mà nó tìm đến để làm con nhưng lại bị giết hại thì hận thù này sẽ phải trả ra sao? Nếu mở được con mắt tinh thần ông sẽ thấy những người phá thai, các bác sĩ hay y tá thực hiện việc phá thai sẽ phải gánh chịu quả báo nặng nề như thế nào. Ông sẽ thấy được rất nhiều sự kiện vô cùng ghê gớm xảy ra cho những người liên quan ngay khi họ còn sống cũng như khi họ qua thế giới bên kia. Vì việc phá thai xảy ra khắp nơi nên số vong linh thai nhi cũng nhiều vô cùng. Lòng oán hận quá lớn, quá mãnh liệt khiến chúng muốn trả thù. Với tâm thức như thế, chúng chỉ có thể chuyển kiếp trở thành những loài ma quỷ hung ác đem tai họa cho nhân loại. Hầu hết các tai họa ngày nay như chiến tranh, thiên tai, bão tố, động đất và các loại dịch bệnh xảy ra đều liên quan đến nghiệp giết chóc của loài người và một khi chúng xảy ra thì khó có thể dập tắt.
Ông Kris dừng lại để tôi suy nghĩ rồi nói tiếp:
– Tôi đã giải thích cho ông những gì tôi biết, tin hay không tùy ông. Vì đây là vấn đề phức tạp, khó chứng minh nên nếu nói ra cũng chỉ tạo những tranh cãi vô ích.
Có nhiều cách giải thích khác nhau tùy quan niệm của tôn giáo, cũng như niềm tin của mỗi người. Tôi chỉ giải thích theo luật Nhân quả rằng tùy nghiệp lực dẫn dắt mà một số vong linh trở lại làm người, một số khác chuyển kiếp thành loài vật, hay loài ma quỷ. Tuy nhiên hiện nay so vong linh trở lại thành người không nhiều lắm đâu, vì một khi đã mất nhân thân thì rất khó trở lại mà phải trải qua quá trình tu tập rất dài.
Tôi ngạc nhiên:
– Vậy tại sao hiện nay dân số vẫn tiếp tục gia tăng?
Ông Kris thở dài:
– Ông không biết hiện nay rất nhiều loài thú vật đã chuyển kiếp thành người hay sao? Tệ hơn nữa, nhiều ma quỷ cũng chuyển kiếp thành người. Nghe có vẻ khó tin, nhưng nếu ông ngẫm nghĩ, có thể thấy ngày nay biết bao người không sống đúng nghĩa con người thật sự. Có biết bao người mang thân xác con người nhưng lại hành động như thú vật, biết bao người sống vô cảm, hung ác như loài ma quỷ. Khi chu kỳ của các quốc gia đi vào giai đoạn “Hoại” thì hiện tượng này xảy ra cũng là bình thường. Những “con người” này chuyển kiếp đến để phá hoại, để tiêu diệt, để làm cho những nơi chúng đến phải sụp đổ. Không khó để nhận thấy hiện nay nhiều nơi xảy ra chiến tranh liên miên không dứt, nhiều nhà độc tài tàn ác, không nhân tính đã giết hàng trăm ngàn người, giam cầm hàng triệu người, gieo rắc kinh hoàng khắp nơi, rồi xâm lăng, chiếm đoạt các quốc gia khác, để thỏa mãn giấc mộng làm bá chủ thế giới. Tại sao con người có thể hung ác, vô lương tâm như thế được nếu đó không phải là loài ma quỷ hay ác thú chuyển kiếp làm người? Thật ra giai đoạn này đã diễn ra hơn một trăm năm nay rồi và lúc này các động lực ma quái đang chế ngự thê gian. Các vong linh xuất phát từ những nền văn minh cổ, những nơi tà giáo ngự trị hay những âm binh ma quái bị giam giữ trong các cổ mộ được đào xới lên, được tháo cũi, sổ lồng trở lại gieo rắc sự tà ác, gây xáo trộn, chia rẽ khắp nơi.
Tôi hỏi:
– Nhưng làm sao chứng minh sự hiện diện của các loài ma quỷ quái ác này?
Ông Kris lắc đầu rồi nói:
– Tại sao chúng ta cứ đòi hỏi phải có bằng chứng thì mới chịu tin? Ngay cả khi có bằng chứng thì cũng chưa chắc người ta chấp nhận, nhiều người vẫn sẽ cho rằng bằng chứng chỉ là bịa đặt hay tưởng tượng, còn nếu ông muốn tìm bằng chứng, thì có thể tìm thấy trong hai trận thế chiến vừa qua và những cuộc chiến lớn nhỏ liên tiếp sau đó. Làm sao những cá nhân tầm thường lại có thể trở thành những nhà lãnh đạo tối cao, quyền lực lớn, có thể sai khiến con người làm việc giết chóc dã man ghê gớm như thế được? Ai đã đưa hàng triệu người Do Thái vào các trại tập trung để bị thiêu chết? Ai đã đem hàng triệu dân thiểu số đày đi Siberia để họ chịu chết rét? Trong vòng mấy chục năm nay, có lúc nào thế giới không có chiến tranh đâu, có lúc nào mà chúng ta không chứng kiến sự giết chóc. Hiện nay, nhiều quốc gia đi vào giai đoạn “Hoại” trong chu kỳ, vì vậy số quỷ ma, ác thú đang mang thân người nhiều vô kể. Khắp nơi đầy cảnh bóc lột, đàn áp, bạo động, giết chóc, hận thù chất chồng đến ngút trời. Tại sao thế? Phải chăng vì đa số con người hiện nay sống ích kỷ, vô cảm, tham lam, tàn ác tạo môi trường thuận lợi cho những loài yêu ma quỷ quái tìm đến. Nếu con người không sớm ý thức, bỏ việc ác, làm việc lành, bỏ tật tham lam ích kỷ, phát triển tình thương thì khó tránh được những tai họa không cách gì cứu vãn sắp xảy đến trong tương lai.
Tôi nghĩ đến tình trạng xảy ra trên thế giới ngày nay, bùi ngùi:
– Ông nói đúng, quả thật thế giới đang trải qua giai đoạn vô cùng khó khăn. Liệu chúng ta có hy vọng nào trong việc tìm giải pháp cho tình trạng hiện nay không?
Tưởng đâu ông Kris phải suy nghĩ một lúc rồi mới trả lời câu hỏi trọng đại thế này, nhưng ông đáp ngay, một cách nhẹ nhàng:
– Có chứ! Điều nhân loại đang cần là sự phát triển về phương diện tâm linh, để xoay chiều sự tiến bộ của tri thức. Trong những thế kỷ gần đây, tâm thức nhân loại chỉ phát triển một cách đơn phương trên bình diện tri thức. Tri thức hiện nay là hướng ngoại, là sự suy luận, phân tích, tính toán và phân biệt. Tuy nhiên tâm thức con người không phải chỉ là tri thức mà còn có phần khác, ta tạm gọi là tâm linh. Tâm linh là yếu tố sáng suốt, thanh khiết, mỹ lệ, là phạm trù của thương yêu và sáng tạo vượt ra khỏi điều kiện giới hạn của thời gian và không gian. người ta chỉ có thể nhận diện và phát triển được tâm linh khi tâm thức hướng ngoại được xoay chiều, quay vào bên trong. Đây là giải pháp cần thiết cho tình trạng hiện nay.
Ngày nay, nhờ sự phát triển vượt bậc của tri thức nên tâm thức nhân loại đã hiểu biết được rất nhiều yếu tố bên ngoài, phát minh được nhiều sản phẩm vượt xa các thế kỷ trước. Tuy nhiên, nó vẫn chưa tự biết được nó là gì, cũng như chưa biết mục đích của nó trong vòng sinh hóa của vũ trụ. Vì có tính chất hướng ngoại nên mục đích của tri thức là đi tìm những lạc thú ở bên ngoài, từ đó mà phát sinh ra sự tham lam, ích kỷ. Một khi đã có được gì thì cứ muốn có mãi, càng nhiều càng tốt, rồi nảy ra các tham vọng không có điểm dừng. Đối với một tinh thần hưởng thụ thì thế giới ngày nay hiện ra như một siêu thị đầy sản phẩm mà ai cũng thèm muốn. Đã thế, người ta còn tạo thêm nhiều sản phẩm mới lạ rồi quảng cáo khéo léo nhằm kích thích lòng ham muốn và dục vọng sở hữu của con người. Sự kích thích này xảy ra trên mọi phương diện, từ sở hữu vật chất đến thỏa mãn nhu cầu xác thân. Tinh thần hưởng thụ tạo ra lòng tham và sự ích kỷ, gia tăng cảm giác chia rẽ, nên tâm thức con người ngày càng chìm sâu trong ngoại cảnh. Để thỏa mãn lòng tham, con người lao vào những hoạt động bên ngoài nhằm thu góp mọi thứ họ có thể lấy được, rồi dần đi đến việc chiếm hữu bằng sức mạnh và quyền lực, từ đó gây ra chiến tranh, chiến tranh bắt đầu giữa người với người, sau đến gia đình rồi lan ra xã hội. Hiện nay khắp nơi đều có cảnh tranh giành, chiếm đoạt. Quốc gia này muốn chiếm quốc gia kia để bành trướng lãnh thổ của mình. Nước này gây hấn với nước kia để tranh đoạt quyền lợi rồi tạo ra đủ thứ vũ khí, từ súng ống, bom đạn đến vũ khí hạt nhân và vũ khí sinh học. Nước này đầu độc nước kia bằng chất thải nhà máy và muôn kiểu phá hoại môi trường. Nước kia gieo rắc vi-rút, vi trùng sang nước nọ gây đủ thứ bệnh tật ghê gớm, thậm chí có thể tiêu diệt toàn thể nhân loại.
Tôi lắc đầu:
– Tương lai nhân loại lẽ nào bi thảm đến thế sao?
Ông Kris mỉm cười, nói tiếp:
– Tâm thức nhân loại hoạt động tùy theo các động lực chi phối nó. Hiện nay động lực đó là sự tham lam, ích kỷ, thù hận, say mê quyền lực, bất chấp hậu quả. Tuy nhiên một khi nó nhận thức được các mục đích của tri thức mà nó theo đuổi là sai lầm thì nó sẽ dừng lại và khi đó phần tâm linh từ lâu vẫn bị phủ nhận sẽ hiện ra. Từ chối làm một việc ác cũng chính là thực hiện một việc thiện lành. Khi con người nhận thức được cái gì là xấu thì cũng là lúc họ bắt đầu biết thế nào là đẹp. Khi tri thức nhân loại ngừng hướng đến những dục vọng ích kỷ, thấp hèn thì tự động sẽ hướng đến những điều thiêng liêng, cao quý. Khi đó tri thức nhân loại sẽ xoay chiều, chuyển hướng vào bên trong, hòa hợp với tâm linh, đem lại sự toàn diện cho tâm thức. Khi tâm thức thay đổi, mọi sự sẽ thay đổi.
Trước một giải pháp giản dị như thế, tôi không khỏi ngạc nhiên và lòng cũng có đôi chút hoài nghi. Tôi nói:
– Điều ông nói chỉ có tính chất lý thuyết. Làm sao thực hiện được mới là vấn đề.
Ông Kris im lặng, vẻ đắm chìm trong suy tư. Một lúc sau, ông lên tiếng:
– Ông có thể coi đó như khái niệm tổng quát về cách thức sự thay đổi diễn ra trong tương lai. Khi nào nó xảy ra hay xảy ra tại đâu thì không phải là điều có thể nói được trong lúc này. Và dù có nói ra cũng không ai tin. Hiện nay con người đã ý thức về sự nguy hiểm của việc leo thang chiến tranh, chỉ một vài hỏa tiễn mang đầu đạn nguyên tử hay một loại vi-rút nào đó là cả thế giới có thể tan thành cát bụi. Do đó, đã có những cuộc thương lượng để tìm ra giải pháp. Quốc gia nào cũng có ý kiến về giải pháp cho chiến tranh nhưng không ai tự hỏi ý kiến đó xuất phát từ đâu. Phải chăng nó vẫn xuất phát từ cái tâm thức chưa thay đổi của tri thức hướng ngoại, nghĩa là vẫn tham lam, ích kỷ và tư lợi? Ai cũng cho ý kiến của mình là đúng và không chấp nhận ý kiến người khác. Do đó không thể có giải pháp chung trong lúc này. Hiện nay tâm thức nhân loại vẫn đang quay cuồng trong vòng hư ảo, rồi sẽ đi đến tình trạng cực đoan. Tuy nhiên, trong tương lai sẽ có những biến cố rất lớn xảy ra để buộc tâm thức điên đảo này phải thức tỉnh.
Tôi hỏi:
– Ông muốn nói đến biến cố gì? Có phải là chiến tranh?
Ông Kris lắc đầu, mỉm cười trả lời:
– Khi tâm sân hận và ác nghiệp lên đến mức nào đó sẽ xảy ra chiến tranh. Từ mấy ngàn năm nay, chiến tranh có bao giờ chấm dứt đâu. Tuy nhiên hiện nay với các vũ khí tối tân, có thể tiêu diệt toàn thể nhân loại thì chiến tranh đã chuyển qua hình thức khác. Các cường quốc đều biết nếu có đại chiến xảy ra, họ không thể thắng, nhưng cũng không được phép để thua. Do đó, thay vì đối đầu nhau trên chiến trường, họ chuyển qua xúi giục các nước nhỏ gây chiến với nhau (chiến tranh ủy nhiệm) để quốc gia của họ đỡ nguy hiểm hơn. Các cuộc chiến này cũng là nơi để thí nghiệm các loại vũ khí mới, các chiến thuật mới, tạo ra những ảnh hưởng mới, khiến cho người dân các nước nhỏ này phải gánh chịu hậu quả. Ông có thể thấy các cuộc chiến tranh như thế hiện đang xảy ra khắp thế giới, nhất là ở những đất nước có dân trí còn thấp kém, có nội bộ xáo trộn, tranh giành, tham lam quyền lực, phá hoại đời sống con người.
ông Kris giải thích thêm:
– Nhìn lại thế kỷ vừa qua mà xem, nhân loại đã chịu ảnh hưởng của một số triết gia, những nhà tư tưởng, những nhà lý luận với các quan niệm cực đoan, dẫn đến sự đàn áp và chia rẽ con người. Những người này tin rằng mọi sự đều có thể giải thích bằng lý luận hay chứng minh bằng những thí nghiệm. Phong trào duy lý này đã phân chia thế giới ra thành hai khối chống đối nhau, tạo môi trường thuận lợi cho những động lực ma quái và một số ma quỷ, ác thú chuyển kiếp thành người, gây ra chiến tranh giết chóc khắp nơi. Tại sao lại như thế? Vì những nhà tư tưởng, những nhà lý luận và các lãnh đạo này đều say mê quyền lực và không nhận thức được gì về luật Nhân quả. Họ tin tưởng tuyệt đối vào việc mình làm, bất chấp hậu quả mà những lý thuyết hay quyết định do họ đề xướng có thể mang lại. Họ tin rằng mọi việc đều có thể giải quyết bằng lý luận và sức mạnh vũ lực.
Tôi phản biện:
– Tôi thấy hiện nay mọi việc đã thay đổi rồi. Sự phân chia thành hai khối ý thức chống đối đã không còn.
Ông Kris lắc đầu nói ngay:
– Không được như thế đâu. Khi lý thuyết, túi điều, niềm tin cực đoan không còn hiệu lực nữa thì thế giới chuyển qua giai đoạn khác, ông thử ngẫm lại mà xem, có phải những lý thuyết, tín điều cũ đã bị thay thế bằng giá trị đồng tiền? Lý tưởng về một xã hội bình đẳng đại đồng đã được thay thế bằng lý tưởng làm giàu cá nhân. Ngày nay, những nhà tư tưởng, nhà lý luận đã phải nhường chỗ cho những nhà khoa học, những nhà khởi nghiệp, chuyên gia công nghệ. Tiếc thay, những người này cũng chỉ biết dùng trí thông minh, và tâm sức của họ để phát minh các sản phẩm với mục đích làm giàu, bất chấp hậu quả của việc đó tai hại thế nào. Một số sản phẩm trong số đó có khả năng khiến cho mọi người say mê mù quáng, biến thành thói quen không thể bỏ. Họ trở nên thụ động, không kiểm soát được tâm thức, rồi rơi vào u mê, vô cảm không còn biết phải trái, đúng sai gì nữa. Trên khắp thế giới, con người giờ chỉ biết đến kiếm tiền, tìm mọi cách làm giàu, rồi thì mặc sức hưởng thụ, rượu chè vui chơi, ăn uống vô độ, tiền bạc phung phí, bất kể ngày mai. Dĩ nhiên, xã hội thì luôn có người giàu người nghèo, nhưng ngày nay người ta chỉ đề cao những người thành công, giàu có, không còn mấy ai lên tiếng đấu tranh cho những người nghèo khổ, bất hạnh, bị bóc lột như trước đây. Ngày xưa, người ta giết nhau bằng vũ khí, súng đạn, thì nay vũ khí lợi hại nhất chính là triệt tiêu nhân tính, phá hoại đầu óc con người, khiến họ trở nên ích kỷ, tham lam và vô cảm. Đây là hệ quả của tri thức phát triển đơn phương, đưa nhân loại đến chỗ cực đoan, máy móc.
Tôi lắng nghe chăm chú và hỏi thêm:
– Nói như vậy, phải chăng tương lai nhân loại là không thể thay đổi?
Ông Kris trầm ngâm một lúc rồi trả lời:
– Trong tương lai, thế giới sẽ không còn chia làm hai khối chống đối nhau như trước mà sẽ phân thành ba khối, ba khối này cạnh tranh nhau nhưng đồng thời cũng hợp tác, liên kết, thỏa hiệp. Tuy nhiên, đến cuối cùng vẫn đi đến chiến tranh. Tại sao lại như thế? Vì các nhà lãnh đạo cũng như đa số dân chúng vẫn chưa hiểu biết về luật Nhân quả. Họ không ý thức được về hậu quả những việc họ làm, những hệ lụy từ các phát minh mà họ đề ra. Họ nghĩ rằng mọi việc đều có thể giải quyết bằng công nghệ, bằng truyền thông, bằng tiến bộ kỹ thuật và trong tương lai có thể để cho các máy móc thông minh phục vụ con người.
Từ chối làm một việc ác cũng chính là thực hiện một việc thiện lành. Khi con người nhận thức được cái gì là xấu thì cũng là lúc họ bắt đầu biết thế nào là đẹp. Khi tri thức nhân loại ngừng hướng đến những dục vọng ích kỷ, thấp hèn thì tự động sẽ hướng đến những điều thiêng liêng, cao quý. Khi đó tri thức nhân loại sẽ xoay chiều, chuyển hướng vào bên trong, hòa hợp với tâm linh, đem lại sự toàn diện cho tâm thức. Khi tâm thức thay đổi, mọi sự sẽ thay đổi.
Tôi thắc mắc:
– Ông vừa nói thế giới sẽ phân thành ba khối, cụ thể là thế nào?
Ông Kris giải thích:
– Tâm thức nhân loại hoạt động theo các động lực chi phối nó. Bao nhiêu năm nay động lực đó vẫn là tham lam, ích kỷ, hận thù, say mê quyền lực bất chấp hậu quả. Tâm thức nhân loại chưa thể chuyển hóa, nên sẽ đưa đến tình trạng các quốc gia kéo bè kết đảng, lập thành phe phái cạnh tranh với nhau. Thế giới sẽ phân làm ba khối, mỗi khối gồm một số quốc gia có chung mục đích, cạnh tranh với các khối còn lại. Tuy nhiên, vì chưa chuyển hóa nên họ cứ hợp tác rồi lại phản bội, liên kết rồi lại cạnh tranh, thỏa hiệp rồi cũng chống đối. Vì lòng tham lam ích kỷ, ai cũng tìm đủ mọi cách để đoạt phần thắng về phe mình.
Tôi hỏi thêm:
– Sau đó thì sao?
Ông Kris trả lời:
– Nhân loại còn phải trải qua những giai đoạn thảm khốc với rất nhiều thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh lớn nhỏ cho đến khi nào con người nhận thức được sự sai quấy của tri thức đơn phương và bắt đầu ý thức về luật Nhân quả trước tình trạng diệt vong của nhân loại.
Tôi thở dài, cảm thán:
– Việc đó không đơn giản chút nào. Người ta không dễ gì chấp nhận quan niệm về luật Nhân quả đâu, nhất là ở phương Tây này. Như ông đã nói, ở thời đại khoa học lên ngôi, người ta chỉ tin những gì nhìn thấy được, chứng minh được.
Ông Kris gật đầu:
– Đúng như vậy. Hơn nữa, hiện nay người ta vẫn còn cố chấp tin vào sức mạnh của quyền lực cũng như các vũ khí tối tân. Họ sẵn sàng dùng mọi cách, từ âm mưu đến vũ lực, để khống chế người khác nhằm đạt đến mục đích của mình. Khi người lãnh đạo một quốc gia có ý thâu tóm quốc gia khác thì sẽ bắt đầu khơi mào tranh chấp, rồi dẫn đến chiến tranh, vũ khí chiến tranh đã đi từ bom đạn đến các loại chất độc chết người, rồi hiện nay là các loại mầm bệnh truyền nhiễm. Môi trường khắp nơi đều bị hủy hoại, bị nhiễm độc, chẳng còn mấy chốn an toàn. Những biến cố lớn sẽ xảy ra cho toàn nhân loại, không giới hạn riêng nước nào hay vùng nào. Khi số người tử vong lên đến những con số khủng khiếp ở một số nơi, hy vọng mọi người hiểu được rằng ai trồng nhân lành thì gặt quả lành, ai trồng nhân ác thì gặt quả ác. Con người không thể tiếp tục sống với quan niệm “anh móc mắt tôi thì tôi cũng móc mắt anh”, khiến cho tất cả mọi người đều mù hết được.
Tôi hỏi lại:
– Nhưng theo ông, nhân loại có thể chuyển hóa tâm thức không?
Ông Kris chậm rãi trả lời:
– Điều đó tùy thuộc vào lựa chọn của mọi người. Những người hiểu biết sẽ thay đổi tâm thức và những người u mê, không chịu thức tỉnh thì sẽ gánh chịu những hậu quả do chính họ gây ra. Biệt nghiệp của từng cá nhân sẽ chuyển hóa khi con người có ý thức và biết thay đổi, hành động khác đi. Cộng nghiệp của quốc gia cũng sẽ thay đổi khi đa số người dân của quốc gia đó biết chuyển đổi tâm thức, hồi tâm hướng thiện. Khi người lãnh đạo một quốc gia biết hành xử trung thực, chính nghĩa, công bằng, không thiên vị, không tư lợi thì quốc gia đó sẽ được yên bình. Nhân loại hiện nay vẫn chưa có mấy người tin vào luật Nhân quả, nhưng tin hay không thì nhân quả vẫn xảy ra, dưới hình thức này hay hình thức khác.
Nhiều quốc gia trên thế giới đang bước vào giai đoạn “Hoại” của chu kỳ, vì vậy mà xã hội ngày càng xáo trộn, kinh tế ngày càng phân hóa, khoảng cách giữa người giàu và nghèo trở nên lớn hơn. Tiếc là đa số con người vẫn sống tham lam, ích kỷ, nên cứ mạnh được yếu thua, coi những bất ổn đó như lẽ thường. Sự bất mãn nào rồi cũng đưa đến rối loạn, phản kháng, rồi bạo động sẽ diễn ra khắp nơi. Nhưng khi rối loạn lên đến cực điểm thì cũng đến lúc trật tự được thiết lập trở lại. Nhưng trật tự này được thiết lập ra sao còn tùy vào sự hiểu biết, chuyển hóa tâm thức của người dân và lãnh đạo của quốc gia đó.
Ông Kris dừng lại, cân nhắc một chút rồi nói tiếp:
– Ngoài ra, đã có một số quốc gia trên thế giới đang đi vào giai đoạn “Diệt” của chu kỳ, nên xã hội ở những nơi đó hoặc là vô cùng loạn lạc, hoặc là vô cùng khổ sở với luật lệ hà khắc, bị kiểm soát, kìm kẹp chặt chẽ. Ở đó, kẻ ác ngự trị, người lành bị đọa đày. Già néo đứt dây, khi sự đàn áp trong một xã hội lên đến cực điểm, cũng là lúc nó sụp đổ hoàn toàn. Biến cố này sẽ không xảy ra từ bên ngoài, do hậu quả của một cuộc chiến tranh hay thiên tai, mà sẽ diễn ra từ bên trong do nghiệp quả đã đến lúc chín muồi. Ông nghĩ xem, nếu năm mươi năm trước có ai đó nói rằng rồi Liên Xô sẽ tan rã, chia thành nhiều nước nhỏ thì có mấy ai tin không? Thế mà sau đó, chỉ trong một thời gian ngắn từ lúc bắt đầu suy yếu, Liên xô đã tan rã hoàn toàn. Nếu bây giờ tôi nói, trong tương lai, một nước lớn như thế cũng sẽ tan rã, thì người ta cũng giống như năm mươi năm trước, coi đó là chuyện hoang đường. Tại sao ư? Là vì họ không hiểu hoặc không tin vào luật Nhân quả.
Ông Kris giải thích thêm:
– Chỉ cần nhìn lại lịch sử nhân loại ông sẽ thấy những biến chuyển lớn trên thế giới là không thể lường trước được, có lúc nhiều nước nhỏ hợp lại thành một nước lớn và cũng có lúc một nước lớn lại sụp đổ, phân thành nhiều nước nhỏ. Bài học lịch sử đó tiếp diễn hàng ngàn năm, nhưng nhân loại vẫn chưa chịu học. Các đế quốc như Ai Cập, Assyria, Babylon, Hy Lạp, La Mã, Mông cổ đã từng hùng mạnh biết bao, rồi thì đã xảy ra những chuyện gì, sử sách có ghi, hẳn ông cũng biết rõ. Tôi và ông đã cũng trải qua những kiếp sống tại đó, ông hiện đã quên rồi, nhưng tôi vẫn còn nhớ rõ.
Ông Kris lại nói về những kiếp sống trước đây, khi chúng tôi có những liên hệ với nhau. Dù rất tò mò muốn hỏi thêm về chuyện đó, nhưng chủ đề đang thảo luận cũng rất thu hút tôi. Tạm gác lại thôi thúc muốn tìm hiểu thêm về mối quan hệ tiền kiếp giữa tôi và ông Kris, tôi hỏi tiếp:
– Tôi nghĩ, một khi đã đến giai đoạn “Diệt” của chu kỳ thì sẽ phải giống như Atlantis, bị hủy diệt hoàn toàn, vậy nếu không phải do thiên tai thì dễ gì một cường quốc có thể sụp đổ hoàn toàn như thế?
Ông Kris mỉm cười, giải thích:
– Tất cả đều do sự thu xếp của luật Nhân quả. Một lục địa với đa số dân chúng đều hung dữ, độc ác, tích tụ đầy ác nghiệp như Atlantis thì phải chịu hậu quả là bị tiêu diệt. Tuy nhiên, với những quốc gia từ xưa đã có truyền thống văn hóa cao, đời sống tâm linh phát triển thì mặc dù phải sống dưới sự áp chế, đe dọa của các loài ma quỷ, ác thú, sẽ vẫn có một bộ phận dân chúng cố gắng duy trì nếp sống lành thiện, hiểu biết và tin tưởng luật Nhân quả. Nhờ cái nền móng căn bản vững chắc đó mà quốc gia sẽ tránh được nạn bị hủy diệt hoàn toàn, chỉ từ một nước lớn tan vỡ phân thành nhiều nước nhỏ mà thôi. Khi quyền lực đi đến chỗ bạo ngược, cực đoan thì sẽ có những biến cố xảy ra. Vì đã gây ra quá nhiều ác nghiệp nên những người liên can đều phải trả quả báo vô cùng nặng nề. Khi thời điểm đến, việc định công, luận tội, đúng sai, tốt xấu sẽ được phán xét rõ ràng.
Tôi ngẫm nghĩ những gì vừa nghe, rồi nói thêm:
– Những điều ông vừa nói cho tôi thấy ánh sáng cuối đường hầm. Quay lại việc ông nói lúc trước, rằng hiện nay có nhiều ma quỷ và ác thú chuyển kiếp thành người, tàn phá giết chóc khắp nơi. Vậy con người phải đối phó với những động lực ma quái này như thế nào?
Ông Kris mỉm cười, giải thích:
– Tôi đã nói qua với ông về những cõi giới vô hình. Trong đó tôi đã nói về cõi giới của vong linh, cõi giới của ma quỷ nơi những sự tàn ác ghê gớm ngự trị. Tuy nhiên, tôi chưa nói đến cõi giới của các vị thánh nhân, nơi mà những thực thể có tâm thức rất cao đang cư ngụ. Những thực thể này cũng từng là con người như chúng ta, nhờ tu luyện tâm thức, hiểu biết nhân quả, phát triển tình thương và trí tuệ cao thâm nên khi qua đời họ đã chuyển kiếp đến cõi giới cao hơn. Dù ma quỷ có quyền năng đến đâu, dù thú vật chuyển kiếp thành người có hung ác đến đâu thì cũng không thể ra khỏi sự chi phối của nhân quả. Gieo nhân gì thì gặt quả đó, đây là lẽ công bằng. Khi loài ma quỷ hung ác chuyển kiếp thành người gây nhiều nghiệp ác thì cũng sẽ phải trả nghiệp, đó là khi các thực thể cao cả đến thế giới này để hóa giải những động lực ma quái đó.
Tôi thắc mắc:
– Ông muốn nói đến sự ra đời của một thánh nhân sao?
Ông Kris từ tốn trả lời:
– Không phải chỉ một người mà rất đông các bậc thánh nhân có trình độ hiểu biết thâm sâu sẽ chuyển kiếp làm người để giúp đỡ, chuyển đổi tâm thức cho nhân loại. Một số đã đến đây từ nhiều năm nay rồi nhưng làm việc âm thầm nên thế giới không biết họ là ai. Theo thời gian, số người này ngày càng đông hơn trước, tạo ra được những động lực có thể thay đổi xã hội. Tuy nhiên, sự thay đổi này xảy ra rất chậm vì nhiệm vụ của họ chỉ là thúc đẩy nhân loại tự mình chuyển đổi tâm thức để học hỏi và phát triển chứ họ không thể làm thay con người được.
Sự truy cứu đến cùng của luật Nhân quả đối với những hành động bất lương của con người là tất yếu sẽ xảy ra. Có những người từng quyền uy, giàu sang nhưng giờ đã trắng tay, thậm chí có người còn rơi vào vòng lao lý. Ngẫm lại thì họ đều từng sử dụng thủ đoạn hại người, chiếm đoạt, lừa gạt nhằm mưu lợi cho mình. Luật Nhân quả của vũ trụ luôn vận hành chính xác và nghiêm minh.
Không phải cứ mặc sức làm điều độc ác, hại người lợi mình, rồi sau đó vì sợ sự trừng phạt của nhân quả nên vội vàng bỏ tiền bỏ của ra làm những việc công đức nặng tính hình thức là có thể xóa đi nghiệp ác hay báo ứng được. Nếu không thực sự xuất phát từ suy nghĩ, hành động thiện tâm thì không một ai trên đời có thể thay đổi được nghiệp quả.
Tôi tỏ vẻ hoài nghi:
– Nhưng đã có bằng chứng gì về những người này chưa?
Hiểu được sự nghi ngờ của tôi, ông Kris thong thả giải thích:
– Những câu chuyện thần thoại vẫn vẽ ra chuyện các vị thần với quyền lực vô song xuất hiện để hàng phục các loài ma quái. Nhưng điều này sẽ không thể xảy ra, vì nếu lấy sức mạnh đối phó với sức mạnh chỉ tạo thêm nghiệp ác, lấy oán thù dập tắt oán thù thì oán thù sẽ càng tích tụ. Người hiểu biết nhân quả không thể làm như thế được. Tôi chỉ có thể nói những gì tôi biết, tin hay không tùy nhận định riêng của ông. Tuy nhiên, tôi có thể cho ông biết hiện nay tại nhiều nơi trên thế giới đã có những đứa trẻ được sinh ra với nhiệm vụ hóa giải những động lực ma quái này. Đó là những cá nhân có hiểu biết, có tâm thức đã thức tỉnh, có tình thương lớn, biết thông cảm với những đau khổ, hoạn nạn của người khác. Ngay từ nhỏ, những đứa trẻ này đã tỏ ra thông minh, hiểu biết mau lẹ, đối xử công bằng với mọi người. Khi khôn lớn, họ trở thành những cá nhân có tinh thần hợp tác, sẵn lòng chịu thiệt thòi nếu cần thiết, vì đức hy sinh và lòng nhân ái của những người này rất lớn. Vì sống ở cõi thanh cao đã lâu nên những người này rất nhạy cảm với những rung động xấu xa, thường tỏ ra ghê tởm trước những đồ ăn bằng máu thịt.
Đa số họ không ăn thịt, nếu ăn vào cũng sẽ nôn ra. Hiện tượng đó không phải là dị ứng với thịt như y học hiện đại vẫn nói, mà là dấu hiệu của sự trưởng thành tâm linh, biết xót thương vạn vật. Do đó, nếu người làm cha mẹ nào sinh được những đứa trẻ như thế thì họ nên ý thức về trách nhiệm thiêng liêng của mình là đưa những bậc thánh nhân ấy đến với cõi đời. Hiện nay, trên khắp thế giới có rất nhiều người còn trẻ đã biết ăn chay, tránh sát sinh, tự học hỏi, tìm hiểu về thế giới tâm linh. Trong khi nhiều người trẻ khác vẫn còn mải mê với thú vui vật chất thì những người này đã biết tìm về cội nguồn tâm linh, đó là vì họ đã từng trải qua kiếp sống ở những cõi giới cao hơn cõi trần.
Tôi gật đầu, tán thành:
– Đúng là tôi có đọc được trên báo chí gần đây, rằng số lượng người ăn chay đã gia tăng lên rất nhiều, khiến doanh thu của các hãng thực phẩm tươi sống, các xưởng giết mổ giảm sút không ít.
Ông Kris bật cười:
– Là nhà đầu tư tài chính như ông thì hẳn biết rõ thị trường chứng khoán của các hãng sản xuất thịt cá hiện đang lên xuống như thế nào. Tương tự như thế, thời đại của các nhà tư tưởng gia, nhà lý luận, cũng như sự phát triển của tri thức cực đoan đã qua rồi. Thời thế của các nhà khoa học, chuyên gia công nghệ cùng sự phát triển của các máy móc thông minh cũng sẽ thay đổi trong một thời gian nữa.
Tôi ngạc nhiên:
– Chuyện đó diễn ra như thế nào? Mọi nghiên cứu đều cho thấy thế kỷ này đang là thời đại của công nghệ, nên chứng khoán các hãng công nghệ, truyền thông, mạng xã hội, trí thông minh nhân tạo, bán hàng trực tuyến đều phát triển rất nhanh.
Ông Kris mỉm cười:
– Rồi ông sẽ thấy, cái gì lên nhanh thì xuống chóng. Hiện nay thế giới đang ở trong giai đoạn biến chuyển, mọi chuyện rất khó nói trước được. Nhiều quốc gia đang bước vào giai đoạn “Hoại” và một số thì đã bắt đầu bước vào giai đoạn “Diệt”, nên chuyện gì cũng có thể xảy ra. Hiện nay sự chia rẽ, bất mãn, sợ hãi và rối loạn trong tâm thức con người đã ảnh hưởng lên sự vận hành của trái đất. Những thiên tai khủng khiếp như động đất, núi lửa phun trào, sóng thần có thể thay đổi mọi cục diện. Khi xảy ra nạn đói hay môi trường bị phá hủy hoặc xuất hiện các loại dịch bệnh nghiêm trọng thì thế giới của khoa học kia liệu có đứng vững không? Đó là chưa kể sự đe dọa chiến tranh đang ngày càng nghiêm trọng, chì một biến cố nhỏ cũng có thể làm bùng nổ một cuộc chiến lớn ở khắp nơi.
Tôi trầm ngâm:
– Theo sự hiểu biết của ông thì tương lai nhân loại rồi sẽ ra sao?
Ông Kris trầm ngâm:
– Tôi biết rằng tương lai sắp đến sẽ là thời của các nhạc sĩ, thi văn sĩ, nghệ sĩ, những người có sức sáng tạo mạnh mẽ trong các lĩnh vực âm nhạc, văn chương, nghệ thuật. Những tác phẩm của họ sẽ phản ánh lòng từ ái, lan tỏa sự hiểu biết, thể hiện sự sáng tạo, tôn vinh những cái đẹp của thiên nhiên và tạo ra ảnh hưởng lên toàn cõi nhân loại trên bình diện tư tưởng và tình cảm. Điều gì phát sinh từ tâm thức thanh cao đều có sức cảm hóa mạnh mẽ, thâm nhập vào tâm hồn con người và tạo ra sự thay đổi. Giai đoạn tiếp theo của nhân loại sẽ được xây dựng trên sự hợp nhất giữa mọi người, mọi quốc gia, mọi tôn giáo, mọi chủng tộc, trên bình diện tâm lý cũng như ngoại cảnh. Khi đó con người sẽ nhận thức được giá trị của sự sống trong vạn vật. Việc hòa hợp giữa hai thành phần tri thức và tâm linh sẽ bắt đầu với sự sáng tạo chân chính và nó sẽ phản chiếu sự huy hoàng của Chân, Thiện, Mỹ. Trong thời đại sắp tới này, con người sẽ biết nâng cao tâm thức, vượt khỏi những suy nghĩ nhỏ nhen tầm thường, những ham muốn tham lam, ích kỷ của đời sống hiện nay, để hòa hợp vào tâm thức chung của nhân loại. Mọi việc đều bắt đầu từ tâm thức cá nhân, do đó, giá trị của những thay đổi này phụ thuộc vào tinh thần chuyển đổi của từng con người. Hiểu biết chính mình và hiểu động lực của luật Nhân quả chính là bài học quan trọng trong tương lai và chỉ những người biết chuyển đổi tâm thức và biết thay đổi thì mới xứng đáng được hưởng nền văn hóa tốt đẹp xây dựng từ những bài học đó.
Ông Kris dừng lại ngẫm nghĩ một chút, rồi kết luận:
– Nói trước về những việc chưa xảy ra là điều không nên, vì tương lai luôn luôn biến chuyển, có thể thay đổi chứ không cố định. Tất cả mọi việc xấu hay tốt, lành hay dữ xảy ra ở một nơi nào đó đều đến từ tâm thức của những người sống ở đó. Tôi không muốn nói trước về một viễn cảnh tốt đẹp còn ở rất xa trong lúc mọi người đang lo lắng về sự đe dọa của dịch bệnh, biến động, xung đột và diệt vong, nhưng tôi hy vọng nhờ biết trước những khả năng sẽ diễn ra ở tương lai mà mọi người có thể chuyển đổi tâm thức – bỏ việc ác làm việc lành, biết ban trải tình thương, khiến cho việc xấu thì bớt xấu đi và việc lành thì có thể tốt lành hơn nữa.
***
Điểm đặc biệt trong buổi trò chuyện này với Thomas là ông không ngừng nhắc đi nhắc lại tầm quan trọng của luật Nhân quả. Đối với tôi và hầu hết những người chịu ảnh hưởng của nền văn hóa phương Đông, đây không phải điều gì mới nhưng đối với đa số người phương Tây, đây vẫn là một quan niệm tương đối mới lạ, chưa được hiểu thấu đáo. Hôm đó, tôi có đề cập lại chu kỳ “Thành, Trụ, Hoại, Diệt” và Thomas cho biết như sau:
“Vạn vật trên thế gian đều thay đổi theo định luật Chu kỳ, tức là trải qua bốn giai đoạn: Thành, Trụ, Hoại và Diệt. Trong giai đoạn “Thành” mọi người đều hăng hái xây dựng, trải qua bao nhiêu khó khăn thử thách gian truân người ta cũng khắc phục vượt qua được. Trong giai đoạn “Trụ” mọi người đều cố gắng đi theo nền móng đã xây dựng từ trước và mặc nhiên vô cảm hưởng thụ những gì tiền nhân gây dựng nên. Đến giai đoạn “Hoại” mọi người bắt đầu có mưu đồ lập bè phái lợi ích, tranh chấp, đả phá, oán hận triệt hại lẫn nhau. Thế giới hiện nay đang chứng kiến liên tục nào là chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh, tai họa, là bởi chúng ta đang đi vào thời kỳ suy tàn của nhân loại. Ngay tại các nước phát triển nhất chúng ta cũng chứng kiến rất nhiều xáo trộn, hỗn loạn, với sự phân hóa giàu nghèo ngày càng trở nên gay gắt. Khi bước vào giai đoạn “Diệt” chúng ta sẽ thấy xuất hiện rất nhiều loại vũ khí ghê gớm – trong đó có vũ khí hạt nhân và vũ khí sinh học có thể hủy diệt cả nhân loại.
Tuy nhiên, chu kỳ không diễn tiến đơn giản như thế. Ngay trong giai đoạn “Thành” chúng ta đã có thể thấy những dấu hiệu và mầm mống của “Trụ” và “Hoại”, vì ngay trong lúc xây dựng, vẫn có những người chỉ hưởng thụ hay tranh chấp hơn thua, mặc dù số này rất ít. Trong giai đoạn “Trụ” cũng thế, mặc dù số người tích cực làm những việc tốt đẹp và được hưởng thụ tiện nghi thì nhiều nhưng cũng bắt đầu có số ít người thích tranh chấp, gây hấn hay chỉ lo thu vén, phá hoại. Tương tự như vậy, đến giai đoạn “Hoại” và “Diệt”, tuy số người thích chiếm đoạt, tranh giành, hận thù, phá hoại chiếm đa số, thì cũng bắt đầu có một số ít người biết cố gắng xây dựng, chuẩn bị cho giai đoạn “Thành” sắp đến trong chu kỳ tiếp theo. Nếu những người này có thể giúp những người khác chuyển đổi tâm thức, ban trải tình thương, bỏ việc ác làm việc lành thì có thể rút ngắn giai đoạn “Hoại” và “Diệt” để đi đến giai đoạn “Thành” của chu kỳ mới ít tổn thất nhất.
Đây là một hy vọng lớn. Vì tương lai của đa số mọi nơi, mọi quốc gia, và toàn thế giới này có thể thay đổi, trở nên tốt đẹp hơn, nếu mọi người biết chuyển đổi tâm thức, tin vào luật Nhân quả, thay đổi biệt nghiệp cũng như cộng nghiệp và sống một cuộc sống công bằng, hòa bình, cao đẹp và ý nghĩa hơn”.
Khi qua đời, con người rời hồ xác thân vật chất và hiện hữu dưới hình thức khác gọi là thân trung am (Bardo) hay vong linh (Spirit). Đây là trạng thái trung gian giữa cái chết và lần tái sinh tiếp theo.
Thứ duy nhất thật sự hiện hữu là tàng thức, nó là căn bản của sự tồn tại, là nền móng của mọi tâm thức. Mọi tư tưởng, lời nói, hành động trong một kiếp sống, dù tốt hay xấu, đều tạo ra nhân, hay chủng tử, được lưu trữ trong tàng thức, không bao giờ mất đi.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.