Con nhà nghèo
Chương 1
Xóm Đập Ông Canh nằm dựa bên Gò Công qua Mỹ Tho, ngang qua ngã ba tẻ vô Ụ Giữa, bây giờ nhà chen rất đông đảo, cây đua mọc sum suê. Cái nhà việc cũ sùm sụp của làng hồi trước đã đổ bao giờ mà cất lại một toà nhà mới, nền cao khoảng khoát, nóc phơi đỏ lòm. Vài cái nhà lá tum hùm, cửa xịt xạc, vách tả tơi, hồi trước ở rải rác chung quanh đó cũng điêu tàn bao giờ mà nhường chỗ lại cho hơn chục cái nhà khác, tuy cũng lợp bằng lá dừa, song cột kê táng, vách đóng be, coi rất đẹp đẽ thơ thới.
Cảnh cũ đổi mới, nhà ít thêm đông, nhưng mà mấy chuyện nào trong xóm từ xưa đến nay thì mấy ông già cũng còn nhớ hết. Có khi ăn đám giỗ, người ta thử hỏi ông Tám Tiền, ông câu Hữu vậy chớ nhà việc mới cất hồi nào, ông thôn Tà mất bao giờ, chú chệt Chà về đó mấy năm rồi, thì hai ông trả lời liền, không do dự mà cũng không sai lầm. Có một chuyện hai ổng không chịu nói, là chuyện Cai tuần Bưởi.
Một lần nọ, người trong xóm, nhân trăng rầm tháng giêng tỏ rạng, tựu lại sân ông câu Hữu coi đạp lúa. Mỗi người đều nhắc chuyện xưa lại nghe chơi. Có người hỏi tại sao Cai tuần Bưởi lại bán nhà mà đi, thì ông câu Hữu nhíu mặt, chau mày, nín thinh một hồi lâu rồi nói rằng: “Các chú đừng có hỏi. Việc đó nói ra chắc sinh xào xáo trong xóm. Các chú không muốn ở yên chỗ này hay sao, nên hỏi tới chuyện Cai tuần Bưởi?”.
Ai nấy nghe nói như vậy thì sợ, nên ngó nhau rồi nói lãng sang chuyện khác, mà từ đó về sau cũng hết dám hỏi tới chuyện Cai Tuần Bưởi nữa.
Nói chuyện Cai tuần Bưởi thì phải bị nạn gì mà người ta sợ đến thế?
Mình không phải ở xóm Đập Ông Canh mà sợ. Vậy để mình thuật Cai tuần Bưởi cho mỗi người nghe một chút.
Cách chừng hai mươi mấy năm trước, trong xóm Đập Ông Canh, ở phía sau nhà việc, có một cái nhà ba căn, cột bằng cây bần, nóc lợp lá xẻ, cửa cặp lá chầm, vách gài bằng tre, trước sân một bên vắt một đống rơm, một bên trồng một cây me, sau kè chuối lá xiêm xơ rơ mấy bụi, mía sanh diệu lố xố mấy dòng. Cái nhà đó là nhà Cai tuần Bưởi.
Cai tuần Bưởi sinh trưởng ở xóm nầy, từ hồi cha cho đến bây giờ cũng ở trên đất này là đất của ông Cai Hiếu. Ông ta là con của ông trùm Lại, cha mẹ khuất hết, anh em chỉ có ba người mà thôi. Anh ta là lớn, năm nay đã được ba mươi hai tuổi rồi, có vợ là Thị Tố, gốc ở trên làng Bình Phú Tây. Thằng em kế đó tên Cam, năm nay được hai mươi lăm tuổi, hồi trước nó ở đợ đánh xe ngựa cho Hai Thu ở trong Ụ Giữa, ngựa sanh chứng lật xe gãy bánh, chủ đánh chửi nó nên nó giận, bỏ trốn đi mất mấy năm nay, không lai vãng về Đập Ông Canh, mà cũng không ai gặp nó nơi nào hết. Còn đứa em út là gái, tên nó là Lựu, năm nay nó mới được mười tám tuổi, tuy con nhà nghèo ăn mặc lam lũ, song nết na đằm thắm, đi đứng dịu dàng, ăn nói có duyên, mặt mày sáng sủa, nó ở với anh nó thuở nay.
Cai tuần Bưởi làm bạn với Thị Tố đã tám năm rồi, sinh được năm đứa con, ba trai hai gái. Thuở nay anh ta mướn hai dây ruộng của bà Cai Hiếu mà làm, mỗi năm phải đong lúa mướn ba trăm giạ, năm nào lúa trúng thì té ra chừng một trăm giạ đủ nuôi vợ nuôi con và em, năm nào lúa thất, đong lúa ruộng rồi không còn dư hột nào, thì phải lo làm mướn đặng lấy tiền độ nhật.
Mùa mới rồi, lúa cấy xong, lúa vừa mới bén, kế bị trời hạn, nắng cháy đọt, nước nóng gốc, lúa nở không được. Cai Tuần Bưởi đi thăm ruộng về, mặt mày buồn hiu, ngồi khoanh tay thở dài mà than rằng: “Trời muốn giết con nhà nghèo”. Chẳng hiểu trời sợ con nhà nghèo chết, hay là sợ chủ điền góp lúa không đặng, mà Cai tuần Bưởi than như vậy. Rồi cách vài bữa trời mưa một đám thật lớn trong cánh đồng Đập Ông Canh. Lúa nhờ mưa mát mẻ nên đâm đọt bén lại, nhưng vì bị hạn đã mất sức rồi, bởi vậy chừng trổ bông vắn vắn mà hột lại thưa thớt nữa. Thương cho Cai tuần Bưởi khi đến gặt, thì số lúa bó coi không thất bao nhiêu mà đến chừng đạp rồi, lường lúa hột thì chỉ có ba trăm hai chục giạ. Số lúa ruộng mướn của chủ điền bề nào cũng phải đong cho đủ ba trăm giạ. Thế thì cực nhọc trót một năm trường dang nắng cấm cà, dầm mưa nhổ mạ chỉ còn lời có hai mươi giạ mà thôi! Mà trong đó còn phải đong lúa mướn trâu, còn phải trả tiền công cấy thì dư nổi gì.
Đong lúa ruộng rồi, Cai tuần Bưởi nhắm thế nguy cấp, nếu ngồi khoanh tay mà than dài, thì chắc vợ con không khỏi chết đói, bởi vậy anh ta gói một cái quần ngắn, một áo cụt và một cái khăn tắm, rồi cặp nách tuốt vô Ụ Giữa, xin với ông Năm Vi, là lái lúa, mà ở bạn chèo ghe.
Qua năm này trời mưa xuống, ruộng rổi nước, Cai tuần Bưởi mới trở về, trong lưng có dư đuợc vài chục đồng bạc, đủ làm vốn mà cày cấy nữa, nên lăng xăng mua gióng mạ, mướn trâu đi cày, thấy vợ con vui mừng thì anh ta cũng vui, coi bộ đã quên những sự cực khổ mới qua rồi, mà cũng không sợ cái buồn rầu tới nữa.
Năm nay thuận mùa, lúa cấy mới nữa tháng mà coi mòi tốt lắm. Cai Tuần Bưởi hớn hở trong lòng nên một bữa từ hồi ăn cơm chiều cho tới lúc đỏ đèn, đi ra đi vô cứ nói: “Vái trời mưa thuận gió may như vậy hoài cho tôi, thì tới mùa ruộng mình không mất 500 giạ lúa”.
Con Lựu bưng một chong đèn để trên bộ ván giữa rồi vô buồng mà dỗ cháu ngũ. Cai tuần Bưởi nằm trên võng lát giăng phía đầu song trên mà đưa cọt kẹt. Thị Tố thì nằm trên chõng tre lót phía đầu song dưới mà cho thằng con nhỏ bú. Con mèo mướp chui dưới bàn thờ phía trong mà kiếm chuột kêu tiếng ngao ngao, con chó vàng đứng tại cửa giữa nhà vảnh tai ngó ra chân nghe giọt mưa rỉ rả.
Cai tuần Bưởi nằm không một hồi, chắc là trong bụng anh ta buồn, nên cất tiếng ngâm thơ Lục Vân Tiên mà giải muộn. Sắp nhỏ nhờ nghe giống ngoài giọt mưa đổ rỉ rả, trong tiếng ngâm thơ ê a bổng trầm, nên êm tai ngủ hết thảy. Thị Tố đấp mền bỏ mùng cho đứa nhỏ rồi, chị mới đi sập cửa mà gài lại.
Cai tuần Bưởi thấy vợ đã rảnh, anh ta ngừng ngâm thơ, bước lại ngồi dựa chông đèn vấn thuốc mà hút. Thị Tố muốn nói chuyện với chồng, nên lại đứng cà rà một bên, mà rồi không nói, lại bước vô bàn thờ bưng khay trầu đem ra, cũng để gần cái chông đèn, rồi têm trầu mà ăn, Cai tuần Bưởi hút thuốc rê, phần bị trời mưa thuốc ướt, phần bị thuốc phèn chậm lửa, nên kê vô đèn đốt hoài mà thuốc không chịu cháy.
Thị Tố nhai trầu nhóc nhách, với tay lấy gói thuốc của chồng mở ra rứt một miếng mà xỉa, rồi ngó chồng cười mơn mà hỏi:
– Mình đi ghe về xưa rày, mình có hay giống gì không?
– Không, có hay giống gì đâu?
Thị Tố cười, ngoái tay xỉa thuốc một hồi nữa, rồi mới hỏi lớn tiếng rằng:
– Vậy chớ mình không thấy cậu Hai khác hơn mọi lần hay sao?
– Cậu Hai nào?
– Cậu Hai con bà Cai chớ cậu Hai nào?
– Ờ. Tưởng mình nói cậu Hai nào chớ, ai mà dè đâu. Cậu Hai thì cũng vậy chớ khác giống gì?
– Xưa rày mình gặp cậu, vậy chứ cậu có nói gì hay không?
– Không, có nói giống gì đâu!
Thị Tố chau mày, ngồi nín thinh, coi bộ lo ra. Cai tuần Bưởi bơ bơ, cặp điếu thuốc mà hút, ngặt vì thuốc tắt nữa, nên phải kê vô đèn mà đốt lại. Thị Tố suy nghĩ một hồi rồi ngồi xích lại một bên chồng mà nói rằng:
– Vậy mà cậu hứa chắc với tôi để cậu nói với mình.
– Nói giống gì? Từ hôm tôi về tới nay đã gần bốn tháng rồi, tôi gặp cậu hoài, tôi thấy cậu có nói giống gì đâu. Cậu muốn nói chuyện gì đó?
– Cậu muốn nói chuyện con Lựu.
– Chuyện con Lựu là chuyện gì? Cậu muốn nó ở hay sao?
– Không, ở éo gì đâu!… Vậy chớ mình không hay giống gì hết hay sao?
– Thiệt đa. Không hay giống gì hết.
– Hôm tháng giêng mình đi ghe, ở nhà cậu Hai tới chèo chẹo hoài, chịu không nổi. Đôi ba bữa cậu xuống một bữa. Mà hễ cậu xuống thì cậu sai tôi đi đầu này đầu kia, rồi cậu ở nhà chọc ghẹo giởn hớt với con Lựu. Con nhỏ phần thì nó khờ, phần nó sợ cậu, nên nó có dám nói gì đâu. Ban đầu tôi không hay, ai dè cậu như vậy mà đi muốn con Lựu. Đến chừng tôi hay mới hỏi nó, nó mới nói thiệt. Bữa sau cậu xuống thì tôi mới cằn nhằn trách cậu. Tôi nói làm như vậy nhà tôi về đây nó rầy la tôi, mà mợ Hai đây mợ hay chắc là mợ cũng cào nhà tôi xuống sông nữa. Cậu nói không sao mà sợ, để mình cậu sẽ nói với mình, còn mợ Hai một ngày chí tối lục đục trong nhà hoài, có đi đâu mà hay. Cậu mua một cái áo xuyến, một quần lãnh, một chiếc đồng, một đôi bông nhận hột cho con Lựu. Cậu lại cho nó mấy chục bạc nữa.
Cai tuần Bưởi nghe nói tới đó, anh ta quăng điếu thuốc xuống đất rồi hỏi rằng:
– Con Lựu có chịu hay không?
– Không chịu sao được. Cậu bám sát quá mà.
– Còn mình đó chi.
– Tôi dám cãi hay sao? Tôi tưởng dầu có mình ở nhà cũng không làm sao được.
Cai tuần Bưởi đứng dậy đi lại võng nằm gác tay lên trán không nói chi nữa hết. Đứa nhỏ nằm trong mùng khóc óe lên. Thị Tố lật đật vô cho con bú.
Ngoài sân trời mưa đã dứt hột, mặt trăng vẹt mây mà rọi lờ mờ, gió nam thổi lao rao, đánh mấy tàu lá dừa phía đầu song nghe lạch xạch. Trong vách nghe chuột xạ kêu lít chít, ngoài hào ểnh ương rống uênh oang. Tính đương buồn, mà gặp cảnh cũng buồn. Bởi vậy Cai tuần Bưởi nằm nín khe mà trong ruột như dao cắt.
Thị Tố dỗ con ngũ lại rồi, chị ta chui ra thấy chồng nằm buồn hiu, mới men lại ngồi chồm hổm nơi đầu võng mà nói rằng:
– Thôi, việc đã lỡ rồi, mình buồn làm chi. Mình nghèo mà cậu Hai thương nó cũng là một cái may. Miễn là cậu Hai thương nó hoài, thì thân nó cũng không đến nỗi cực khổ.
– Cậu là bậc giàu sang, cậu chơi qua đường rồi cậu bỏ, chớ phải cậu đem nó về làm bé làm mọn gì đó hay sao.
– Bỏ sao được. Bỏ là hồi mới kia, chớ nó có thai có nghén rồi mà bỏ nỗi gì.
Cai tuần Bưởi vùng ngồi dậy ngó vợ trân trân mà hỏi rằng:
– Con Lựu có chửa rồi hay sao?
– Chớ sao. Nó có chửa đã hơn sáu tháng rồi.
– Trời ơi!
– Vậy chớ mình không thấy cái bụng của nó đó sao?
– Tôi có dè đâu… Cha mẹ sinh ba anh em, có mình nó là gái. Vì nhà nghèo tôi không sắm ăn sắm mặc tử tế như con người ta được, nhưng tôi thương nó nhiều lắm. Tôi thấy thằng Cu thiệt thà giỏi giắn nên tôi thương, nên tôi tính để chừng gặt hái xong rồi tôi gã nó cho thằng Cu đặng nó có đôi bạn lamé ăn với người ta. Cậu Hai làm như vậy thì còn gì mà kể!…
– Tại cậu Hai, chớ phải tại nó hay sao. Tôi tưởng dầu mà mình gã nó cho thằng Cu đi nữa, nếu cậu Hai muốn, thằng Cu cũng không biết làm sao cho được, chẳng luận là mình.
– Con nhà nghèo thiệt là dở quá! Thôi thì phận số nó như vậy, tôi cũng không biết làm sao được. Tôi lo có một nổi là lo mợ Hai hay đây nó mang khốn.
– Không. Cậu Hai bảo biết chuyện đó rồi.
– Đàn bà chừng họ ghen thì rầy rà to chuyện lắm.
– To chuyện thì to chuyện, chớ có phép nào dám giết người ta hay sao. Nói cùng mà nghe, dầu mợ hai hay muốn làm dữ, thì có cậu Hai đó.
– Biết cậu Hai có xử êm được hay không?
– Sao lại không được. Cậu thương con Lựu lắm mà.
– Thương sao mà tôi về mấy tháng nay tôi không thấy cậu Hai léo xuống đây.
– Cậu sợ thấy mặt mình, cậu ngỡ ngàng, nên cậu tránh. Bề nào chừng con nọ đẻ rồi, cậu cũng phải ra mặt chớ. Hôm tháng trước tôi có than với cậu. Tôn nói nhà mình nghèo, không biết chừng đây con nhỏ đẻ rồi làm sao. Cậu nói để chừng đó cậu sẽ cho nó tiền để nó ăn nó đẻ.
– Không biết lối xóm có hay chuyện này hay không?
– Sao lại không hay. Thiên hạ họ đều hay hết, song họ không dám nói chớ.
– Nếu thiên hạ hay thì mợ Hai hay còn gì?
– Mợ Hai chưa hay đâu. Có ai học với mợ đâu mà hay.
Hai vợ chồng đương nói chuyện nho nhỏ với nhau, bỗng con chó vàng nằm dựa cửa hực hực hai ba tiếng, rồi chun lỗ chạy ra sân đứng sủa om sòm.
Thị Tố bước lại vạch kẹt cửa mà dòm thì thấy có một người bận quần đen áo trắng đương xâm xâm đi vô sân. Chị ta hỏi:
– Ai đi đó?
Người ấy đáp rằng:
– Tôi.
– Tôi là ai?
– Tôi là Cu.
Thị Tố day lại ngó chồng. Cai tuần Bưởi bước lại vừa mở cửa vừa hỏi rằng:
– Cu mày đi đâu chừng này mậy?
Ở ngoài Cu đáp rằng:
– Có anh Cai tuần ở nhà đó không?
– Có. Hỏi chi vậy?
– Anh đó phải không anh Hai?
– Ừ.
– Mở cửa cho tôi vô chơi với, anh Hai.
Cai tuần Bưởi mở cửa rồi, thì Cu dở lên mà chui vô.
Thằng Cu là trai ở xóm trên, mặt đen, môi dầy, hàm răng thưa, chân mày rậm, vóc trung trung, mà bộ tướng coi mạnh dạn lắm. Nó mồ côi cha mẹ mà cũng không có anh em chi hết. Năm nay nó được 23 tuổi rồi. Mẹ nó mất hồi nó được 20 tuổi. Từ bấy đến nay nó ở bạn cầm cày cho ông Cả Trí. Nó làm thiệt là siêng năng xốc vác, mà ông Cả Tri mướn nó một năm có bốn chục đồng bạc. Có nhiều người muốn mướn nó một năm năm chục đồng, mà nó không chịu ở, nó nói rằng nhờ ông Cả cho nó mượn tiền mà chôn mẹ được mồ yên mả đẹp, không lẽ bây giờ nó ham tiền rồi bỏ ông Cả đi ở chủ khác.
Thằn Cu vô rồi ngó Cai tuần Bưởi miệng cười ngỏn ngoẻn. Thị Tố hỏi nó rằng:
– Có chuyện chi mà em xuống tối dữ vậy?
Nó cúi mặt xuống, một tay vịn cây cột, một tay gãi đầu mà đáp rằng:
– Xuống chơi chớ có chuyện chi đâu.
– Trời mưa ướt át mà đi chơi xa dữ hôn!
Thằng Cu nín thinh, không nói nữa, mà bộ nó bỡ ngỡ lắm. Cai tuần Bưởi ngồi lại bộ ván, bưng cái đèn để xê vô một chút rồi nói rằng:
– Ngồi đó chơi em.
Thằng Cu nói:
– Để đó cho tôi, anh Hai – rồi nó ngồi ghé nơi góc ván, mà cũng nín khe, không nói chi hết. Thị Tố thấy vậy mới bỏ đi lại võng nằm đưa cút kít.
Cai tuần Bưởi mở gói thuốc ra và xé giấy vấn thuốc và nói rằng:
– Hút thuốc đây em.
– Dạ, tôi không biết hút thuốc.
– Ruộng ông Cả cấy rồi hết hay chưa?
– Còn vài đây nữa, mai mốt đây cũng cấy.
– Luá coi mòi tốt hay không?
– Tốt.
– Ruộng nhà giàu lúa tốt luôn luôn, bởi vậy họ giàu thêm hoài.
– Tôi thấy lúa của anh năm nay cũng tốt lắm mà.
– Phải. Lúa năm nay khá. Năm ngoái bị thất một mùa rồi, nếu năm nay thất nữa thì chết còn gì.
Hai người nói tới đó thì hết chuyện, nên ngồi lặng thinh nữa. Thị Tố bèn hỏi thằng Cu rằng:
– Em đã lớn rồi sao em chưa tính cưới vợ, em Cu? Cưới vợ rồi cất nhà cất cửa lo làm ăn với người ta, chớ ở đợ già đời hay sao?
Thằng Cu cười và cúi mặt mà nói rằng:
– Năm nay tôi cũng cưới đa. Nếu anh Hai chị Hai thương tôi, gả cô Tư Lựu cho tôi thì tôi cưới.
Thị Tố vừa nghe nói, vùng ngồi dậy mà đáp rằng:
– Úy! Sao được!
Thằng Cu chưng hửng, sắc mặt mới tươi cười hồi nãy, bây giờ hóa ra buồn rũ. Nó nín thinh một hồi rồi nói nho nhỏ rằng:
– Nếu tôi cưới cô Tư Lựu không được thì thôi, tôi không thèm cưới vợ nữa.
Thị Tố cười mà nói rằng:
– Tưởng đâu có mình con Lựu là con gái hay sao?
– Con gái của họ thiếu gì, mà điều tôi thương có một mình cô Tư thôi.
– Thương sao từ hồi nào bây giờ không nói?
– Chị Hai nghĩ đó coi, muốn cưới vợ thì phải có tiền, chớ không tiền mà cưới vợ nỗi gì. Phận tôi nghèo tôi không có nhà cửa chi hết. Phần thì lúc bà già tôi qua đời rồi, tôi thiếu nợ người tới bốn năm chục đồng bạc. Tôi muốn cô Lựu mấy năm nay rồi, ngặt vì không có tiền, nên tôi không dám nói ra. Đã biết, nếu tôi xin lãnh bạc trước của chủ tôi đặng cưới vợ, rồi sau tôi ở đợ trừ cũng được. Mắc tôi nghe họ nói cái nợ cưới vợ già đời trả không nổi, bởi vậy tôi sợ quá, tôi không dám làm bướng. Chẳng giấu chi anh Hai chị Hai, số nợ tôi chôn cất bà già tôi trước, tôi ở mà trữ đã dứt rồi. Bây giờ tôi còn gởI nơi chủ tôi được sáu chục đồng bạc. Bạc đó tôi không dám lãnh mà xài, là vì tôi tính để dành cưới vợ. Chuyến trước tôi xuống chơi, tôi muốn nói, mà rồi nghĩ năm nay tôi đúng tuổi bắt thăm đi lính, nếu tôi cưới vợ, rủi tôi bắt nhằm số một, số hai, quan trên chấm tôi đi lính làm sao. Hôm qua bắt thăm tôi. Tôi bắt nhằm số bảy hai. Cậu thôn nói tôi khỏi bị điền lính. Tôi mừng quá, nên tôi mới xuống đây. Tôi nói thiệt với anh Hai chị Hai, phận của tôi bây giờ là vậy đó. Tôi không có thiếu nợ ai hết. Vậy xin anh Hai chị Hai liệu coi có gả cô Tư Lựu cho tôi được, thì tôi mang ơn lắm.
Cai tuần Bưởi ngồi nghe thằng Cu nói chuyện mà sắc mặt buồn xo. Chừng nó nói dứt rồi anh ta cũng không trả lời, cứ chau mày chong mắt ngó sững ngọn đèn. Thị Tố biết chồng rối trí không trả lời thằng Cu được, nên rước mà đáp rằng:
– Vợ chồng qua thấy tính em ăn ở thật thà chắc chắn là thương em lắm, mà còn gả con Lựu cho em chắc là không được.
– Sao vậy chị Hai? Chị chê tôi nghèo hèn phải không?
– Không phải tại vợ chồng qua. Vậy chớ, như em thấy, vợ chồng qua giàu có sang trọng gì hay sao mà chê em nghèo hèn.
– Nếu vậy thì cô Tư Lựu chê tôi chớ gì!
Thằng Cu than mấy tiếng rồi nó đau đớn trong lòng quá, không biết sao mà nói nữa được, nên ngồi cúi mặt mà nước mắt rưng rưng, Cai tuần Bưởi thấy càng thêm buồn nên ngồi day mặt qua phía bóng tối, không dám ngó mặt thằng Cu nữa. Ba người ngồi im lìm một hồi rất lâu, rồi thằng Cu mới nói rằng:
– Tôi không cưới được cô Tư Lựu thì tôi không thèm cưới con ai hết, mà chắc là cũng bỏ xứ này tôi đi, còn ở đây nữa mà làm gì. Xin anh Hai chị Hai làm ơn nói giùm lại với cô Tư Lựu không biết duyên nợ trời khiến làm sao mà tôi thương cô lung lắm. Mấy năm nay tuy tôi không nói ra, nhưng mà trong bụng tôi cứ tính làm vợ chồng với cô hoài. Nếu cô không ưng tôi thì tôi buồn rầu lắm, chắc chịu không nổi. Tôi mồ côi mồ cút, ở đợ ở đần, song tôi biết làm ăn, chớ không phải ham cờ bạc rượu trà như họ. Hễ tôi cưới cô rồi, như cô muốn ở tư ở riêng, thì tôi lo cất nhà cất cửa cho cô ở, cô muốn thế nào mà tôi có thể làm vừa lòng được tôi cũng chịu hết. Đạo vợ chồng miễn là thương nhau thì thôi, dầu nghèo hột muối cắn làm hai cũng vui, giàu có làm giống gì. Nếu anh Hai chị Hai thương tôi, nói giùm, thì chắc cô hết chê tôi nữa.
Cai tuần Bưởi day lại mà nói rằng:
– Không phải con Lựu nó chê em nghèo mà không ưng đâu.
– Vậy chớ tại sao?
– Qua thương em lắm. Vợ chồng qua mới nói chuyện với nhau hồi nãy đây, qua cũng có nói muốn gả nó cho em. Qua mà gả không được, là vì có chuyện riêng, khó nói cho em nghe lắm.
– Việc gì? Anh Hai đừng ngại chi hết, anh nói đại ra đi. Hay là có chỗ nào tử tế hơn tôi họ nói rồi chớ gì?
– Không phải. Nếu mà qua gả nó được thì qua gả cho em liền. Để rồi em coi, qua không gả cho ai hết đâu.
– Anh nói cái gì nghe lạ lắm vậy? Tại sao mà anh gả không được?
Cai tuần Bưởi ngồi ngẫm nghĩ một chút rồi bước lại gần thằng Cu mà nói nho nhỏ rằng:
– Qua không giấu em làm chi. Qua mắc đi ghe mấy tháng, cậu Hai Nghĩa ở nhà tới ve vãn nó, nó dại nên lấy cậu đã có chửa rồi.
Thằng Cu nghe mấy lời dường như sét đánh bên tai, nên vùng la “trời đất ơi” và đứng dậy ngó Cai tuần Bưởi trân trân. Hai người ngó nhau không ai nói được tiếng chi hết. Thằng Cu chắc lưỡi lắc đầu nước mắt chảy ròng ròng, bước ra dở cửa mà đi về, quên từ giã vợ chồng Cai tuần Bưởi.
Cai tuần Bưởi thấy vậy bèn kêu mà dặn với rằng: “Chuyện đó qua nói cho một mình em biết mà thôi; em đừng có nói bậy bạ cho thiên hạ hay, nghe không em Cu “.
Không biết thằng Cu có nghe mấy lời dặn đó hay không mà nó đi tuốt, không nghe nó trả lời trả tiếng chi hết.
Qua tháng mười một, mấy đám ruộng cấy lúa đã chín rồi nên phơi màu vàng vàng, còn mấy đám ruộng cấy lúa mùa thì lúa vừa mới trổ đều, nên màu coi xám xám.
Mùa này nhờ trời mưa thuận gió hòa làm lúa sớm lúa mùa đều trúng hết thẩy, bởi vậy con nhà làm ruộng ở miệt Đập Ông Canh ai cũng hớn hở vui mừng.
Cai tuần Bưởi làm lúa mùa, nên bông lúa vừa mới ngậm sữa, mà đã thấy mòi nặng hột lắm. Một buổi sớm mai, anh ta đi thăm ruộng, ra tới đó đứng trên bờ mà ngó mông. Anh ta thấy lúa vung chùng dài bông sai hột, thì trong lòng khấp khởi, thầm tính nếu trời nhểu phước đừng có gió chướng sớm thì mùa này chắc có 500 giạ lúa trong nhà. Số lúa ấy phải đong lúa ruộng 300 giạ, và đong lúa trâu lúa vay 50 giạ, thì bề nào cũng còn dư 150 giạ. Thôi, năm nay mình khỏi đi chèo ghe mướn rồi. Mà anh ta tính tới sự đong lúa ruộng thì nhớ tới con bà chủ điền là cậu Hai Nghĩa. Tại sao cậu nói thương con Lựu mà mấy thángnay không thấy cậu ghé thăm nó, mà lần nào gặp mình cậu cũng không nói tới chuyện đó? Cậu tính sao đây? Chừng con Lựu nó đẻ mới làm sao?
Anh ta coi lúa mới vun đó, mà nhớ tới việc của em lại buồn ủ rũ ngay. Anh ta chau mày xịu mặt, quày quả bỏ về. Vô tới đầu xóm gặp chú câu Hữu vác cây dù trên vai đương lơn tơn đi ra. Câu Hữu hỏi: “Mày đi đâu về đó vậy Cai tuần?” Anh ta nói “đi chơi” rồi đi tuốt, không đứng lại mà nói dằng dai như mọi lần trước.
Cai tuần Bưởi về tới sân thì thấy trong nhà chộn rộn, không biết có việc chi, nên lật đật đi riết vô. Lúc bước vô cửa thì Thị Tố ở trong buồng chạy ra nói rằng: “Con Lựu chuyển bụng. Mình vừa bước ra đó thì nó đau bụng liền. Tôi mượn thằng cu Tý nó đi rước mụ. Bà mụ coi mới rồi, bà nói nội giờ tỵ này nó sổ”.
Cai tuần Bưởi biến sắc. Anh ta lột khăn bịt đầu xuống mà lau mồ hôi mặt rồi leo lên võng mà nằm. Mấy đứa con chạy lu bu chung quanh đứa nắm tay, đứa ôm chân, đứa nằm sấp trên bụng, đua nhau nói đỏ đẻ bên tay, mà anh nằm im như khúc gỗ, không thèm rờ tới đứa nào hết.
Trong buồng con Lựu rên tiếng nhỏ nhỏ. Bà mụ với Thị Tố lăng xăng chạy ra chạy vô một hồi rồi nghe tiếng con nít khóc oa oa. Cai tuần Bưởi biết đã sổ lồng rồi, nên bớt lo, mới ngồi dậy vấn thuốc mà hút.
Thị Tố bước ra cười ngỏn ngoẻn và nói rằng:
– Nó sổ rồi, con trai. Thằng nhỏ trộng đến, tóc đen trạy. Tôi muốn mình chạy lên nóicho cậu Hai hay đặng cậu mừng, được không?
Cai tuần Bưởi liền đứng dậy mà nói rằng:
– Để tôi đi.
– Nè, mà mình lên đó phải có ý nghe không? Đợi chừng nào cậu Hai ngồi một mình thì sẽ nói nhỏ với cậu, chớ có người ta thì đừng có nói đa.
– Tôi biết mà.
– Mình nhớ hỏi cậu coi muốn đặt tên gì, và mời cậu có rảnh xuống chơi đặng thấy con của cậu luôn thể.
Cai tuần Bưởi lấy cây dù cặp nách rồi bước ra cửa mà đi. Hai đứa con lớn chạy theo hỏi: “Cha đi đâu đó cha?” Anh ta nạt chúng nó trở lại, rồi anh ta giương cây dù lên che mà đi.
Cũng dựa bên lộ dây thép đi Mỹ Tho, mà nằm bên phía tay trái khỏi xóm Đập Ông Canh chừng một ngàn rưỡi thước, có một cái xóm đông, đếm lớn nhỏ hết thảy được gần một trăm nóc. Xóm đó người ta kêu là “Xóm Ông Cai” là vì ông già của cậu Hai Nghĩa là ông Cai Tổng Hiếu, hồi sinh tiền nhà ở trong xóm đó mà bây giờ ông đã qua đời rồi, song vợ con cũng còn ở trong xóm đó.
Cái nhà ngói lớn, chung quanh có một vuông tre bao kín mít, phía ngoài lộ có xây gạch làm một cái cửa ngõ chắc chắn, hai bên mé cửa ấy có trồng hai cây điệp Tây, hễ qua đầu mùa mưa thì trổ bông đỏ lòm, nhà ấy là nhà của ông Cai Hiếu.
Ông Cai mất đã mấy năm rồi, bây giờ bà Cai ở nhà với vợ chồng cậu Hai Nghĩa, còn con gái của bà, là cô Ba Nhân, đã có chồng nên về ở theo bên chồng trong chợ Giồng Ông Huê.
Cậu Hai Nghĩa năm nay cậu được chừng 27 hoặc 28 tuổi. Vợ của cậu, là mợ Hai Hưởng, vốn là con gái của ông Huyện Hàm Phong ở trên Chợ Gạo. Mợ Hai cao lớn người, nước da như màu bánh ếch ngọt, mặt lang ben ăn lốm đốm, miệng rộng, mắt lớn. Nếu lấy nhan sắc mà luận thì mợ thiệt là khó coi, nhưng vì mợ là con nhà giàu sang, nên quyền thế với tiền tài che mắt bít miệng thiên hạ hết thảy, bởi vậy chẳng những cậu Hai Nghĩa mà thôi, mà hết thẩy những người biết mợ ai cũng quên cái nhan sắc xấu đó hết.
Vợ chồng cậu Hai Nghĩa ở với nhau đã được bảy tám năm rồi mà mới sinh được có một đứa con gái mà thôi. Gia tài của ông Cai để lại, tuy bà Cai còn hưởng huê lợi chớ chưa chia cho hai con, song sự cho mướn ruộng thì bà Cai giao cho cậu Hai coi; cậu Hai cho ai mướn bà không cần biết tới, miễn là tới mùa góp số lúa ruộng đủ cho bà thì thôi.
Cai tuần Bưởi là tá điền của bà Cai thuở nay, anh ta tới lui nhà bà thường; nhưng mà bữa nay mắc ôm ấp trong lòng một việc kín mà lại quan hệ nữa, bởi vậy, khi anh ta sập dù bước vô cửa ngõ thì trong ngực hồi hộp, cặp mắt láo liêng. Anh ta đi vòng vô cửa nhà sau, còn đương đi lựng khựng dựa tấm vách sát tường đầu song nhà bếp, bỗng đâu môt. bầy chó năm sáu con tuôn ra, con đứng xa mà sủa, con xốc lại mà táp. Cai tuần Bưởi sợ hãi nên miệng la chó om sòm, còn tay thì cầm cây dù mà quơ lia lịa. Có một con chó mực thiệt là dữ, nhảy lại táp cây dù mà tri nhằng nhằng. May lúc ấy có thằng Phùng, là bạn của cậu Hai, nó chạy ra kịp, vác cây rượt bầy chó tản lạc hết. Cai tuần Bưởi mới khỏi bị cắn, song cây dù vải trắng bị rách một lỗ lớn bằng cái dĩa.
Cai tuần Bưởi đi theo thằng Phùng mà vô nhà sau, dòm thấy bà Cai đang ngồi tại bộ ván trên nhà cầu, thì lật đật dựng cây dù dựa cánh cửa rồi cóm róm đi lên, đi còn xa lắc mà lột khăn cầm trong tay, chứ không dám bịt đầu nữa. Lên tới nhà cầu, anh ta lại đứng ngay trước mặt bà Cai rồi khum lưng xá bà ba xá.
Bà Cai Hiếu đã trên năm mươi tuổi, tóc mới bạc hoa râm, da mặt dùn chút đỉnh, hình vóc ốm yếu, mà mặt mày ôn hòa. bà đương ngồi têm trầu mà ăn, bỗng thấy Cai tuần Bưởi xá bà thì bà ngước mắt lên mà hỏi rằng:
– Mày là thằng Bưởi phải hay không?
– Dạ, bẩm bà, phải.
– Đi đâu đó?
– Dạ, tôi lên xóm có chuyện, nên ghé thăm bà với cậu Hai mợ Hai.
– Lúa mày năm nay khá không?
– Dạ, bẩm bà khá.
– Nè, năm nay đong lúa ruộng phải giê cho thiệt sạch chớ đừng có làm dơ như năm ngoái nữa đa. Tao nghe mợ Hai mày nói hồi năm ngoái mày đong lúa dơ cảy.
– Dạ, bẩm bà, lúa ruộng tôi đâu dám làm dơ.
– Ừ, phải liệu lấy, nếu mày dễ ngươi, tao biểu nó lấy ruộng lại mà cho người khác mướn, rồi không có cơm ăn thì chịu đa.
Cai tuần Bưởi làm ăn lo lắng hết sức, đến nỗi thất mùa mà cũng không dám để thiếu lúa ruộng. Bà chủ điền đã không biết thương, mà lại còn hăm he như vậy, thì lấy làm đau đớn vô cùng. Cái chữ bần nó làm cho con người ta hết dám khôn! Cai tuần Bưởi không phải là không biết phiền, nhưng nghĩ vì nhà nghèo mà phiền nhà giàu thì hại cho mình chớ không hại gì đến người ta, bởi vậy anh ta cắn răng ngậm miệng không dám trả treo tiếng chi hết.
Bà Cai thấy anh đứng chần ngần đó hoài mà không nói việc chi nữa nên bà biểu rằng:
– Thôi, có về thì về, còn như muốn ở chơi thì ra sau mà chơi với bầy trẻ.
Cai tuần Bưởi xá bà rồi thủng thẳng trở xuống nhà sau. Anh ta thấy Phùng đương ngồi chùi lau cái yên ngựa, bèn ngồi cạnh bên đó mà coi một hồi rồi hỏi nhỏ rằng:
– Cậu Hai đi đâu vắng vậy em?
Thằng Phùng ngước lên ngó Cai tuần Bưởi rồi cười ngạo mà đáp rằng:
– Cậu Hai với mợ Hai ngủ trên nhà chớ đi đâu!
– Ngủ hay sao?
– Ăn cơm rồi cậu Hai nghỉ trưa, chớ phải như anh vậy sao mà mang đầu đi tối ngày.
– Mình nghèo thì mình phải chịu cực khổ, còn người ta giàu thì người ta phải hưởng sung sướng chớ sao!
Cai tuần Bưởi tính thầm trong bụng để ở dần dà chơi đợi cậu Hai thức dậy rồi sẽ lập thế mà nói. Anh ta mới kiếm chuyện mà hỏi thằng Phùng rằng:
– Em ở với cậu Hai một năm bao nhiêu vậy, Phùng?
– Hỏi chi vậy? Bộ cậu Hai muốn đem anh vô thế chỗ tôi hay sao mà anh hỏi thăm?
– Nói bậy mày! Tao mắc ruộng nương ai ở đâu được.
– Ờ, phải a, có lẽ đâu đi ở kỳ vậy. Nè, anh Cai tuần, tôi hỏi anh thiệt nghe: cậu Hai xuống làm giống gì dưới xóm anh mà chầu xưa tôi thấy cậu đi hoài xuống dưới anh?
– Ai mà biết đâu nà.
– Khéo giấu dữ hôn. Tôi hỏi thử chơi vậy chớ, anh tưởng tôi không hay đa há?
– Tháng giêng, tháng hai tao mắc đi ghe, rồi mấy tháng nay tao về tao mắc việc ruộng, tao có biết chuyện gì đâu mà giấu.
– Đừng có làm bộ! Tôi nói cho anh biết anh phải coi chừng, chớ nếu mợ Hai hay đây, đố anh khỏi chết.
– Chuyện gì mà chết, mậy?
– Ừ, thì để rồi anh coi.
Cai tuần Bưởi nghe thằng Phùng hăm như vậy thì sợ mà lại lo nên ngồi nín khe không dám cãi nữa.
Thằng Phùng chùi yên ngựa rồi đem ra sân phơi nắng. Cai tuần Bưởi muốn đi theo nó mà ra sân rồi đi vòng ra phía trước chờ cậu Hai thức dậy đặng nói chuyện, ngặt vì mới ló ra cửa, thấy bầy chó nằm lểnh nghểnh, nên lấp ló mà không dám đi. Anh ta xẩn bẩn nội nhà sau cho đến xế, cậu Hai với mợ Hai mới thức dậy. Cậu Hai xuống rửa mặt, Cai tuần Bưởi lột khăn mà xá. Cậu Hai hỏi rằng:
– Đi đâu đó?
– Dạ, tôi lên thăm bà với cậu mợ.
– Lúa chín hay chưa?
– Thưa chưa, tôi làm lúa mùa nên mới ngậm sữa.
Cậu Hai không hỏi nữa, bỏ đi rửa mặt, gỡ đầu rồi kêu thằng Phùng mà biểu thắng ngựa đặng cậu cỡi đi chợ Giồng. Cậu đi lên nhà trên, Cai tuần Bưởi làm gan đi theo. Nào dè lên nhà trên cậu Hai thay áo dài, bịt khăn đen, mang giày tây; mà làm việc gì cũng có mợ Hai ở một bên, nên chỉ đứng xớ rớ xó cửa mà ngó, không dám nói chi hết. Còn cậu Hai thì vừa thay đồ vừa nói chuyện với vợ, vừa giỡn với con, coi bộ cậu không kể có Cai tuần Bưởi chút nào hết.
Cai tuần Bưởi liều thế ở đây khó nói chuyện được, lại nhớ hồi nãy cậu Hai biểu thắng ngựa đặgn cậu đi chợ Giồng, anh ta mới tính ra đường đón cậu mà nói có lẽ tiện hơn. Anh ta nghĩ như vậy, nên bước lại xá cậu Hai mợ Hai rồi xuống nhà cầu xá bà Cai mà về. Anh ta ra tới lộ rồi đi lộn lên ngã chợ Giồng để đón cậu Hai. Anh ta đi thủng thẳng, đi ít bước thì đứng lại ngó chừng, đi được hai khoản dây thép thì thấy cậu Hai cỡi ngựa trong cửa ngỏ chạy ra, cậu ngồi trên con ngựa kim, đầu đội nón lông đen, yên lại hẳn hòi, coi tướng mạo khôi ngô lắm.
Cai tuần Bưởi đứng một bên đường đợi ngựa chạy gần tới mới đưa cây dù mà cản và nói rằng:
– Cậu Hai đứng lại đặng nói chuyện riêng một chút.
– Muốn nói chuyện gì sao hồi nãy ở trong nhà lại không nói?
– Thưa cậu, con em tôi nó đẻ rồi, mới đẻ hồi trưa này đây, nên tôi lật đật lên cho cậu hay.
– Ủa! Em chú đẻ thì nó đẻ, chú thưa với tôi làm gì?
Cai tuần Bưởi từ hồi ở nhà bước chân ra đi, trong trí chắc hễ cậu Hai nghe tin con Lựu đẻ thì cậu mừng lắm, bởi vậy bây giờ nghe cậu Hai trả lời vô tình như thế, thì chưng hửng, đứng ngó cậu trân trân, không biết nói sao nữa. Cậu Hai chau mày nói tiếp rằng:
– Đi về đi. Khéo chộn rộn không!
Cậu nói dứt rồi cậu thúc ngựa đi thẳng. Cai tuần Bưởi ứa nước mắt đi thất thểu lộn về nhà thầm tức, thầm tủi trong lòng, quên hết thế sự, đến nỗi trời nắng chang chang mà cũng quên che dù.
Tình nghĩa của nhà giàu sang là vậy đó hay sao?
Cái tiếng nói “thương” của họ chẳng phải nghĩa nó là trọng hậu, yêu mến, nâng đỡ, bảo bọc. Cái “thương” của họ chỉ là bóc lột, là lợi dụng, là vui chơi, dầu ai tan nhà nát cửa mặc ai, dầu ai khổ thân lao lực mặc ai, dầu ai ô danh thất tiết mặc ai. Họ gạt đặng lấy hết điền thổ của người ta mà trả giá không đầy phân nửa, cũng gọi là “thương”. Họ bắt người ta làm cháy da, xém thịt, phỏng trán trót năm, sinh lợi ba phần họ lấy hết hai, cũng gọi là “thương”. Họ đưa ra một mà thâu về hai, cũng gọi là “thương”. Họ sai khiến người ta dầm mưa giãi nắng để cho họ ở nhà ăn no ngủ ấm, cũng gọi là “thương”.
Bây giờ họ muốn thỏa mãn tình dục thấp hèn của họ rồi làm cho con gái người ta mang nhơ nuốt nhục trọn đời, mà họ cũng mở miệng gọi là “thương” nữa, thiệt là quá lắm rồi!
Cai tuần Bưởi vừa đi vừa suy nghĩ như vậy thì trong lòng lạnh ngắt, ngoài mặt lộ bất bình. Khi anh ta bước vô cửa thì Thị Tố chận lại, miệng cười ngỏn ngoẻn mà hỏi rằng:
– Sao? Mình cho cậu Hai hay rồi cậu Hai nói làm sao?
Cai tuần Bưởi chau mày, quăng cây dù lên trên ván mà nói quạu rằng:
– Có nói giống gì đâu!
– Ủa! Sao vậy?
– Cậu ngủ đợi hòng chết cha, chừng cậu thức dậy thì có mợ ở nhà nên tôi không nói được. Thấy cậu sửa soạn đi chợ, mới ra đón ngoài lộ mà nói cho cậu hay. Cậu nói nó đẻ thì đẻ, chớ nói với cậu làm gì, rồi cậu đi tuốt!…
– Hứ! Cái gì mà kỳ vậy kìa! Nói vậy cậu gạt mà lấy nó bây giờ nó có con cậu bỏ nó hay sao?
– Cậu lấy nó tôi có bắt được hồi nào đâu, nên tôi dám cãi.
– Mình bắt không được, chớ tôi có thấy. Cậu có nói với tôi rằng cậu thương nó lắm, cậu sẽ làm cho nó sung sướng trọn đời, khi nó có thai, nó nói cho cậu hay, thì cậu nói không hại gì, hễ đẻ thì cậu cho tiền mà ăn, rồi sau cậu cho đủ tiền mà nuôi con. Sao bây giờ cậu lại làm lảng như vậy?… Mình nói tôi nghe tôi giận quá. Họ muốn như vậy để tôi đặt tên thằng nhỏ là “thằng Hiếu” rồi tôi kêu tên nó tôi chửi tối ngày cho họ biết chừng.
– Thôi, thôi, đừng có nhiều chuyện, mình muốn họ bỏ tù tôi há?
– Bỏ tù cái gì?
– Thôi, con Lựu nó dại thì nó chịu. Mình nghèo mà ăn thua với người ta sao cho lại họ. Thuở nay ai dám lấy trứng mà chọi vô đá bao giờ.
– Nếu vậy người ta gạt mình nhịn hay sao?
– Chớ không nhịn rồi làm gì họ được?
– Tức quá! Để tôi nuôi con Lựu cho nó cứng cáp, rồi tôi biểu nó bồng nhào trong nhà họ cho coi.
– Tới nói bậy thì người ta bắt người đóng trăng chớ.
– Thà chết làm máu chớ ai chịu nhịn cho được mà.
– Nếu nói bậy người ta giận, người ta lấy ruộng lại mình cũng đủ chết rồi. Thôi, cái số phận con Lựu nó phải vậy thì thôi; ai xấu để trời đất biết, mình nói ra làm gì cho sinh chuyện.
– Tức quá mà! Ví dầu họ không thương con Lựu nữa thì thôi, còn máu thịt của họ đó, họ cũng không thương nữa hay sao?
– Họ thương hay không tương tự ý họ, mình ép họ việc đó sao được. Thôi bỏ đi; đi nấu cơm ăn, nói nữa mà làm gì.
Thị Tố ngoe nguẩy bỏ đi xuống nhà sau mà miệng nói lẩm bẩm những tiếng gì nghe không rõ. Còn Cai tuần Bưởi lấy cây dù đem lại móc trên khuông vách lá, vừa đi vừa nói rằng: “Đi không ích gì, mà lại còn bị chó cắn cây dù rách hết”.
Lúa của Cai tuần Bưởi chín rấp Tết. Qua lối hai mươi tháng anh ta lặng giặng như xoay. Phần thì lúa cả đồng đều chín rộ nên kém công gặt, phần em đẻ còn non ngày, vợ mắc con bồng con đeo không giúp đỡ được, bởi vậy sớm may chí tối phải ở ngoài ruộng hoài.
Con Lựu mới đẻ một tháng mấy bữa, tuy anh không la rầy chi hết, còn chị dâu thì lo lửa củi hẳn hòi, nhưng mà nó hay sự cậu Hai Nghĩa bạc tình, không ngó ngàng đếm xỉa gì tới thân mẹ con nó, thì nó phiền muộn trong lòng, ăn ngủ không được, cứ nhìn con mà khóc hoài. Nó khóc riết rồi cặp mắt sưng vù, mà mặt với bàn tay bàn chân cũng sưng nữa.
Thằng nhỏ thì Cai tuần Bưởi đặt tên nó là thằng “Hai” chứ không dám nghe lời vợ mà đặt tên “Hiếu”. Hôm trước Cai tuần Bưởi giận nên tỏ ý muốn đem nó cho mấy bà phước. Con Lựu nghe như vậy thì khóc sướt mướt mà nói rằng:
– Ai ở quấy thì trời phật ghi cho họ. Con tôi tôi banh da xẻ thịt đẻ nó ra, tôi rời nó sao đành!
Thị Tố lại nói tiếp rằng:
– Con kiếm không có mà nuôi, con đâu mà đem cho họ. Thây nó, để cho nó chịu khó nó nuôi đặng như không ai nhìn nó thì mình chửa dòng thằng cha nó mình chơi.
Cai tuần Bưởi nghe em, nghe vợ nói như vậy thì cười rồi bỏ đi lo việc ruộng nương, không nói tới việc đó nữa.
Bữa hai mươi ba tháng chạp, Cai tuần Bưởi đi coi gặt. Con Lựu bồng con ra ngoài tại cái chõng đầu song phía dưới mà cho nó bú. Thằng nhỏ nút ít cái rồi nhả vú ra mà ngủ. Mụ bà dạy nó một lát chích miệng như cười, một lát nhíu mày như khóc, con Lựu mặt mày sưng vù, nó ngồi nhìn con mà giọt lụy tràn trề.
Thị Tố ở nhà sau bước lên thấy vậy bèn hỏi rằng:
– Đẻ còn non ngày, đừng có khóc. Tại mày khóc nên mới sưng mặt đỏ da.
Con Lựu lấy khăn lau nước mắt mà nói rằng:
– Không biết tại sao hễ em ngó tới thằng nhỏ thì bắt chảy nước mắt.
– Bộ mày thương nhớ thằng cha nó chớ gì. Phải hôn?
– Em tủi phận em, chớ em không có thương nhớ ai hết.
– Hổm nay tao giận quá, tao nói để tao lên kiếm cậu Hai tao hỏi cậu tại sao mà cậu bỏ mẹ con mày. Anh Hai mày cứ theo cản hoài.
– Hỏi mà làm giống gì, chị Hai.
– Tao hỏi nếu cậu nói lôi thôi, tao nhiếc cậu cho cậu biết chừng.
– Người ta không nghĩ tới thì thôi, nhiếc mắng mà làm gì. Tại em dại nên em chịu, em không dám trách ai hết.
– Ông thầy Hoàng ổng nói cái bịnh thủng của mày đó phải uống một tễ thuốc mới hết được. Ổng biểu anh Hai mày phải đưa trước 10 đồng bạc cho ổng đi bổ thuốc, chừng ổng làm xong thì đưa thêm 10 đồng nữa rồi lấy thuốc. Trong nhà bây giờ không có một đồng, làm sao mà có đủ 10 đồng đưa cho ổng. Lúa còn đương gặt, chưa đạp được, làm sao mà bán. Mà đây còn phải lo ăn Tết nữa. Khổ lắm!
– Thôi, uống thuốc men mà làm chi, chị Hai.
– Đau mà không uống thuốc sao được. Không uống thì chết còn gì.
– Em tưởng chết còn tốt hơn là sống!
– Khéo nói bậy! Chuyện gì mà chết?
– Cái thân em sống càng thêm tủi, thêm xấu chớ sống làm chi, chị Hai. Em biết xưa rày anh Hai, chị Hai hổ thẹn với chòm xóm lung lắm. Em nghĩ vì em mà anh chị phải mang nhục thì em buồn rầu không biết chừng nào, bởi vậy em muốn chết phức cho rồi, đặng hết nhọc lòng anh chị nữa.
Thị Tố nghe mấy lời than phiền như vậy thì động lòng, bỏ đi lại bộ ván giữa ngồi vừa ăn trầu vừa ngẫm nghĩ một chút rồi ôn tồn nói rằng:
– Mày buồn cũng phải đó chứ. Làm thân con gái mà chửa oan đẻ lạnh thì tốt bao giờ. Nhưng mà tao nghĩ chớ chi mày đi làm đĩ lấy trai gì rồi chửa đẻ là xấu, cái này mình là tá điền của cậu Hai, mình cũng như là tôi tớ của cậu, cậu biểu sống thì sống, cậu biểu chết thì chết, cậu tới nhà cậu ám sát, mình làm sao mà dám cự lại với cậu. Tao tưởng trong làng này dầu cậu muốn ai đi nữa họ cũng phải chịu, chẳng luận là mày. Mày hư đây là tại cậu Hai hãm hiếp, chớ phải tự ý mày muốn hư hay sao mà sợ xấu.
– Nếu người ta ỷ quyền ỷ thế mà hãm hiếp, mình nghèo hèn nên không dám chống cự, thì mình phải liều thân giữ cho vẹn danh tiết của mình, chớ sao mình thuận tùng để người ta lấy cho đến có chửa rồi mình nói người ta hãm hiếp? Không được, cái lỗi của em lớn lắm, không thể nào em đổ cho ai được đâu.
– Nếu mày nói mày có lỗi, thì tao đây cũng có lỗi nữa. Anh Hai mày mắc đi ghe, để mày ở nhà với tao. Tao là chị mày, tao thấy cậu Hai làm trái mà tao không cự với cậu, thì tao quấy lắm.
– Phải, hai chị em mình quấy hết. Em dại dột em không biết liều mình, chị lớn khôn mà chị không dám chống cự, nên em với chị đều quấy hết.
– Trời ơi! Cự làm sao cho được! Chớ chi thằng nào bậy bạ nó tới đây nó chọc ghẹo mày thì tao bửa đầu nó chớ thèm cự à. Cái này là cậu Hai là con của bà Cai mà tao nói sao được. Đã vậy mà còn hồi ban đầu cậu nói tử tế lắm. Cậu nói cậu thấy tính nết của mày cậu thương, cậu nói mợ Hai đẻ có một đứa con gái mà thôi, nên cậu muốn kiếm con trai đặng nối dòng, cậu cho tiền bạc, áo quần, vòng bông; cậu hứa làm cho mày sung sướng trọn đời. Cậu nói nghe phải lắm, ai mà dè cậu chơi cho có chửa rồi cậu bỏ.
– Phải. Hồi đó cậu nói ai nghe cũng phải mê. Mà tại em dại em mê nên bây giờ em mới ăn năn đây. Bây giờ có một mình chị với em nên em tỏ thiệt cho chị biết. Hổm nay em muốn tự vận mà chết cho rồi, ngặt vì em thấy thằng con của em sao em thương thương quá, nên em còn nuối lại đây.
– Mày cứ nói chết hoài. Nói tầm bậy tầm bạ, không nên.
Thị Tố ngồi lặng thinh mà suy nghĩ một hồi nữa rồi vùng đứng dậy nói rằng:
– Nè, anh Hai mày mắc coi gặt, bữa nay nó đem cơm theo nó ăn đặng nó ở luôn ngoài ruộng đến chiều nó mới về. Thôi, mày ở nhà coi chừng sắp nhỏ, để tao lén tao lên cho giáp mặt với cậu Hai coi cậu Hai nói làm sao.
Con Lựu đáp rằng:
– Đi làm chi chị Hai.
– Để lên coi ý cậu làm sao mà. Có lẽ nào cậu là người tử tế mà ở bạc tình như vậy. Không biết chừng hôm trước anh Hai mày nói bậy sao đó nên cậu giận chớ gì. Để tao lên coi như cậu không xuống thì cậu cũng phải cho tiền đặng mày uống thuốc chớ.
– Em không thèm tiền bạc của họ đâu.
– Khéo nói dại không! Chuyện gì mà không thèm kia.
Thị Tố vói rút lấy cái khăn vải rằn xanh trên nóc mùng mà vắt vai rồi bước ra cửa mà đi. Đứa con lớn của chị ta, đương đưa đứa nhỏ xíu ngủ trên võng, nó ngó thấy chị ta ra đi nó kêu má om sòm, mà chị ta đi tuốt, không thèm nói chi hết.
Thị Tố lên tới nhà bà Cai lối chín giờ sớm mai. Chị ta bước vô nhà bếp thì thấy bạn bè lăng xăng, đứa lo nấu nướng, đứa lau chén dĩa. Chị ta hỏi thăm mới hay là bà Cai với mợ Hai đi chợ Giuồng Ông Huê mua đồ đặng sáng mai cúng tảo mộ, còn cậu Hai thì ở trên nhà trên, đương coi biểu trẻ chùi lư đặng ăn Tết. Vì chị ta quyết chí gặp cho được cậu Hai nên chị ta đứng xẩn bẩn một lát rồi lò mò đi tuốt lên nhà trên.
Thằng Phùng với một người nữa Thị Tố không biết tên, đương ngồi chàng hảng ngoài hàng tư mà chùi chơn đèn thau, còn cậu Hai Nghĩa thì ngồi tại bộ ghế trường kỷ ở trong đương lọ mọ biên chép giống gì đó không biết. Cậu Hai ngồi day lưng phía dưới nhà cầu nên Thị Tố đi lên cậu không hay. Chừng Thị Tố đi tới một bên lưng, chị ta kêu “Cậu Hai” cậu mới giật mình xây lại. Cậu thấy Thị Tố thì chưng hửng rồi cậu chau mày trợn mắt hỏi:
– Đi đâu đó?
Thị Tố cười và đáp rằng:
– Tôi lên kiếm cậu!
– Kiếm làm gì?
– Kiếm đặng hỏi coi con nhỏ đẻ đã đầy tháng rồi sao không thấy cậu xuống chơi.
– Nhiều chuyện quá! Xuống làm gì?
– Cậu xuống coi, nó đẻ thằng nhỏ ngộ quá, giống cậu thất kinh vậy.
– Ê! Bày đặt chuyện nà!
– Tôi nói thiệt a. Ai bày đặt làm chi. Cậu không tin, cậu xuống đó cậu coi.
– Ai mà biết đâu mà. Giống hay là không giống thây kệ nó chứ.
– Ủa! Cậu nói sao vậy? Trong ý cậu muốn chối, cậu nói không phải là con của cậu hay sao?
– Chị này thiệt là nhiều chuyện. Đi về đi, ta không biết, mà cứ theo nói hoài. Đi về đi.
– Về thì thủng thẳng rồi sẽ về chớ. Mỗi lần cậu xuống nhà tôi thì cậu tử tế quá, sao bây giờ tôi lên nhà cậu lại xô đuổi tôi? Ở chi vậy cậu Hai. Hồi nào cậu muốn nó, cậu nói lấy được, rồi bây giờ cậu lại hủy bạc nó như vậy. Đã biết chị em tôi nghèo hèn, nhưng mà ngày trước không phải tôi thấy cậu giàu nên tôi ép uổng cậu hay là con em tôi nó thấy cậu lịch sự nó tới ve vãn cậu, cậu ỷ quyền chủ điền, chủ đất, cậu ỷ thế con ông này bà kia, cậu tới ám sát mà lấy nó. Chị em tôi nghèo hèn không dám chống cự với cậu, lẽ thì cậu nghĩ lại cậu thương thân phận con Lựu lắm mới phải, chớ sao tại cậu mà nó có chửa nó đẻ, rồi bây giờ cậu bỏ cậu làm lảng như Vậy. Hôm trước nhà tôi lên nói cho cậu hay, cậu trả lời sao đó không biết, mà nó về hổm nay nó hờn cậu lung lắm. Tôi nói không lẽ cậu là người sang trọng mà cậu ở đoản quá như vậy. Dầu con Lựu nó có quấy với cậu chỗ nào thì cậu giận nó, chớ thằng nhỏ đẻ ra đó là máu thịt của cậu, nó có lỗi gì mà cậu giận luôn tới nó, nên cậu không thèm xuống. Cậu nghĩ lại đó coi lời tôi nói đó phải hay là bậy.
Cậu Hai Nghĩa ngồi chống tay lên trán, nín mà nghe, vừa động lòng, vừa hổ thẹn, nên không biết lấy lời chi mà đuổi Thị Tố nữa. Mà nếu để Thị Tố cà rà ở đây, rủi vợ mà mẹ đi chợ về gặp sợ sinh nghi càng khó hơn nữa. Cậu bối rối không biết liệu làm sao cho xong. Cậu tính hồi nãy mình làm quạu mà đuổi thì Thị Tố không chịu về, thôi để bây giờ mình dùng lời êm ái gạt chị ta đặng chị ta đi phứt cho rảnh. Cậu nghĩ nư vậy nên nói dịu ngọt rằng:
– Thôi, chị về đi, để thủng thẳng rồi tôi sẽ tính.
Mấy lời nói ấy thiệt là có ý tứ. Câu nói cho Thị Tố yên lòng mà về, mà cậu không có buộc cậu vào việc gì hết. Cậu nói thủng thẳng hay là cậu nhìn con, hay là cậu nuôi con Lựu, Thị Tố thiệt thà không hiểu thấu chỗ xảo của cậu, nghe cậu nói êm mấy lời thì tưởng là cậu xiêu lòng rồi, chắc cậu sẽ chiếu cố mẹ con con Lựu, bởi vậy chị ta mừng mới nói nhỏ rằng:
– Từ hôm nó đẻ đến nay nó trông cậu khóc cặp mắt sưng chù vù. Một đêm chí sáng nó ôm con ngồi khóc hoài nên sinh bệnh thủng nữa. Cậu xuống mà coi tay chưn mình mẩy nó sưng híp. Ông thầy Hoằng ổng biểu đưa hai chục đồng bạc đặng ổng làm một tễ thuốc cho nó uống, mà nó có tiền đâu mà đưa ra. Cậu làm ơn đưa cho ít chục đồng đặng nó uống thuốc cậu Hai. (49) Không phải cậu Hai Nghĩa tiếc gì vài chục đồng bạc, nhưng vì một là cậu sợ cho tiền rồi con mẹ nọ bắt bén đến xin hoài, hai là cậu sợ nói dần lân mợ Hai về gặp sinh chuyện, bởi vậy cậu cùng quằng nạt rằng:
– Chị này nói nhây quá. Ta biểu về đi mà! Tiền bạc đâu mà cho. Không cho gì hết. Đi ra cho mau.
Thị Tố gốc ở trên Bình Phú Tây, thuộc về tổng khác, nên hồi nhỏ không có ở dưới quyền ông Cai Hiếu. Từ khi có chồng về dưới này, tuy là chồng làm tá điền nhà cậu Hai, nhưng mà chị ta chẳng hề lui tới cúi lòn ai mà cầu việc gì. Đã vậy mà mấy tháng trước cậu Hai tới lui với con Lựu thườn ghay nói pha lửng mơn trớn với chị ta, bởi vậy chị ta lờn mặt không kiêng nể cậu cho mấy. Bây giờ chị ta nghe cậu nạt nộ xô đuổi nặng lời thì chị ta nổi giận nên cũng trợn mắt mà ngó cậu và nói rằng:
– Tôi nói tử tế quá mà cậu nạt nộ cái gì. Nó đau nên tôi xin tiền cho nó uống thuốc, chớ phải tôi xin về đặng vợ chồng tôi ăn hay sao. Cậu không tin thì hỏi ông thầy Hoằng mà coi. Cậu không muốn cho, cậu nói như vậy chớ sao cậu lại không có tiền.
Cậu Hai Nghĩa đương bối rối trong trí. Mà Thị Tố trả treo lằng nhằng làm cho cậu càng bối rối hơn nữa, nên cậu giận cậu vùng đứng lên kêu thằng Phùng mà biểu rằng:
– Phùng, mày đuổi con mẹ chết vầm này nó ra ngoài coi nà, để nó đứng nói hoài đó hay sao. – Cậu nói dứt lời liền bỏ đi vô buồng.
Thằng Phùng chạy vô hai bàn tay còn đánh dầu chùi lư dơ bẩn; nó chụp nắm tay Thị Tố mà kéo ra cửa. Thị Tố giận, mặt mày tái lét, muốn làm dữ coi xấu ai cho biết, nhưng mà chị ta nghĩ lại mình nói cậu Hai lấy con Lựu mà không có bằng cớ gì, mình nóng nói bậy người ta bắt lỗi mình được. Đã vậy mà mình tới nhà người ta làm rầy, mình mắc lý nữa. Chị ta xét như vậy nên dằng lòng líu ríu đi ra. Thằng Phùng thấy chị ta không chống cự chi hết thì cười mà nói rằng:
– Chị này gan thật, chị muốn chết hay sao nên dám léo tới đây nói lằng nhằng gì đó hử? Đi về cho mau. Láng cháng ở đó, cậu Hai giận đây, đố khỏi.
Thị Tố day trợn mắt ngó thằng Phùng mà nói láp dáp rằng:
– Tao chớ phải ai hay sao. Tao sợ là sợ người phải kia, chớ người như vậy tao dễ sợ đâu. Giàu thì giàu chớ có phép nào mà giết người được hay sao?
Thằng Phùng ngó theo mà nạt rằng:
– Còn nói gì nữa đó? Đi đi, ở láng cháng đó ta xít chó cắn đa, nói cho mà biết.
Thị Tố vừa nghe vừa phiền, ra ngoài lộ rồi mà còn ấm ức trong lòng nên đi về không được. Chị ta ngồi bẹp dựa lề đường, hai cánh tay chống trên hai đầu gối mà ngó mông.
Ai xui khiến cho thành một cái vần hội trớ trêu nghĩ thiệt là kỳ. Thị Tố vừa mới ngồi xuống đó thì xe của bà Cai Hiếu với mợ Hai Hường đi chợ cũng về tới đó. Thằng nhỏ đánh xe gò cương ngựa đứng lại rồi nhảy xuống mà dắt xe quẹo vô cửa ngõ. Thị Tố ngó thấy bà Cai với mợ Hai, chị ta lật đật đứng dậy mà xá. Nãy giờ chị ta giận cậu Hai, thiệt trong trí chị ta muốn rửa hờn lắm, nhưng mà chưa biết phải dùng cách nào mà làm cho đã cái nư giận được. Bây giờ chị ta thấy mặt mợ Hai Hường, thình lình trong trí phát một chước rất độc; chị ta vừa nhớ tới thì quyết thi hành liền, không thèm suy xét coi cái chước ấy hại cậu Hai mà có can phạm chi đến chị ta hoặc con Lựu hay không.
Xe của bà Hai với mợ Hai thủng thẳng quanh vô cửa ngõ, thì Thị Tố thủng thẳng đi theo ở đằng sau. Xe vô tới sân ngừng lại, bà Cai leo xuống rồi xâm xâm đi vô nhà. Mợ Hai bận áo lót, choàng khăn trắng, đi giày nhung, mắc thúng đồ cản trở mợ xuống không được nên phải đợi thằng đánh xe bưng trống chỗ rồi mợ mới leo xuống.
Khi mợ Hai xuống xe rồi, mợ thấy Thị Tố đứng xớ rớ trước mặt mợ, mợ không biết là ai nên hỏi rằng:
– Thím này là ai. Đi đâu vậy?
– Tôi là vợ Cai tuần Bưởi, ở dưới Đập Ông Canh.
– Vậy hay sao! Thím lên có chuyện gì?
– Thưa, tôi có một việc riêng, nên lên thưa cho mợ hay.
– Việc gì đó?
– Thưa mợ, tôi có một con em chồng năm nay mới mười bảy mười tám tuổi. Hôm tháng giêng tháng hai chồng tôi mắc đi ghe, hai chị em tôi ở nhà một mình. Cậu Hai xuống ve vãn con em chồng tôi hoài. Chị em tôi sợ mợ hay mà mang khốn, nên năn nỉ cậu hết sức mà cậu không nghe, cậu cứ ám sát lấy con nhỏ cho có chửa. Nó mới đẻ một đứa con trai. Tôi sợ trước sau gì đây mợ cũng hay, nên tôi mới phải lên thưa thiệt với mợ. Xin mợ tha lỗi cho con em chồng tôi, kẻo tội nghiệp nó. Tại cậu Hai, chớ thiệt nó đâu dám trèo leo như vậy.
Mợ Hai Hưởng đi xe bị nắng gió mợ mệt, mà mợ nghe Thị Tố nói cái việc sập nhà sập cửa như vậy nữa, thì mợ giận run, ngực nhảy thình thịch, mắt đổ hào quang. Mợ chụp tay nắm kéo Thị Tố vô nhà, vừa đi vừa nói om sòm rằng:
– Đồ khốn nạn quá. Thím nói sao đâu thím vô đây nói lại cho má tôi nghe một chút. Đi đi, cho mau.
Bà Cai đi về chưa kịp thay áo, bà khát nước nên ngồi tạm nơi bộ ván nhà cầu rót nước mà uống. Thình lình mợ Hai Hưởng kéo Thị Tố ào vô. Bà Cai không hiểu chuyện gì, nên bà bưng chén nước mà ngó sững.
Mợ Hai nói om sòm rằng:
– Má xử sao đó thì xử đi. Ở nhà tôi nó làm xấu hổ, nó lấy em Cai tuần Bưởi có con rồi.
Bà Cai chau mày mà nói rằng:
– Ai bày đặt chuyện nói kỳ cục vậy?
– Chuyện đã quả như vậy chớ có ai mà bày đặt. Má hỏi vợ Cai tuần Bưởi đây nó nói cho má nghe. Đồ khốn nạn thiệt mà. Phùng a, cậu Hai mày đâu? Mời cậu Hai mày xuống đây… Đi lấy thứ tá điền tá thổ lịch sự dữ!… Má hỏi vợ Cai tuần Bưởi, hỏi đặng thím nói cho mà nghe.
Mợ Hai xô Thị Tố ra đứng trước măt. bà Cai, Thị Tố không dè cái chước mọn của mình nó kết quả dữ dội đến thế, bởi vậy chị ta phát sợ, nên đứng run lập cập.
Bà Cai ngó Thị Tố một cách nghiêm nghị mà hỏi rằng:
– Mày bày chuyện mày nói giống gì cho sinh rầy rà trong nhà tao vậy hử? Mày muốn chết hay sao?
Thị Tố nghe bà hăm thì sợ, nên đứng trân trân, không dám nói. Mợ Hai ở đằng sau cứ xô đẩy biểu nói hoài, túng thế Thị Tố mới nói rằng:
– Bẩm bà, cậu Hai ép uổng mà lấy con em chồng tôi nó có chửa đẻ một đứa con trai. Tôi sợ mợ Hai hay được mợ giận vợ chồng tôi, nên tôi lên tỏ thiệt trước với mợ Hai chớ tôi có dám nói tiếng gì đâu.
Thị Tố vừa nói dứt lời thì mợ Hai Hưởng nhảy tới chỉ trỏ mà nói rằng:
– Đó, má nghe rõ ràng hay chưa? Má còn nói người ta bày đặt nữa thôi, hử?
Bà Cai nạt rằng:
– Ê! Chuyện gì cũng thủng thẳng mà nói, la om sòm, như vậy tốt lắm hay sao? Em của nó lấy ai ở đâu có con rồi nó thấy mình giàu có, nó nói xán xả như vậy, rồi cũng tin nữa sao?
Bà day qua điểm mặt Thị Tố mà nói rằng:
– Còn con này để rồi mày coi tao. Thằng Hai tao nó lấy em chồng mày, mày có bắt được nó hay không mà mày nói. Đồ khốn kiếp! Mày tới đây kiếm chuyện nói xấu cho cậu Hai mày, mày để tao làm mày ở tù rục xương cho mày coi. Bầy trẻ, có đứa nào đó, bây chạy kêu thằng Hương quản lại đây tao biểu cho mau. Đi, biểu đi… thứ đồ ăn mày mà nó cũng biết lập mưu cao dữ chớ! Nó tưởng đâu mình ngu dại lắm, nên nó bày chuyện mà nói cho mình sợ xấu mà cho nó tiền. bây dọa ai kia, chớ sao bây dám cả gan mà dọa tới tao.
Lời của bà Cai cắt nghĩa tuy hữu lý nhưng mà không đủ đuổi cơn ghen ở trong trí của mợ Hai Hưởng được, bởi vậy mợ ngồi tại góc ván, mặt còn đỏ phừng phừng, ngực còn nhảy đụi đụi. Thị Tố nghe biểu kêu Hương quản rồi lại nghe hăm he nữa, thì chị ta sợ quá, không biết rồi đây việc sẽ trở ra thế nào. Chị ta đứng ngẫm nghĩ một hồi rồi vùng xuống và lạy bà Cai vừa khóc vừa nói rằng:
– Bẩm bà, tôi có dám nói xấu cậu Hai chút nào đâu. Cậu Hai làm vậy tôi sợ mợ Hai hay rồi vợ chồng tôi mang khốn, nên tôi phải lên tiếng trước. Xin bà thương, phận tôi là tôi tớ của bà, sống thác cũng nhờ bà tôi đâu dám bày mưu bày kế gì.
Bà Cai không thèm trả lời, bà thấy Hương quản Kim bước vô, bà chỉ Thị Tố mà bà nói với Hương quản rằng:
– Con khốn nạn này nó tới đây kiếm chuyện nói xấu cho mất thể diện tao với thằng Hai tao. Hương quản, mày phải bắt đem xuống nhà việc đóng trăng nó đặng tra tấn rồi giải Toà cho nó ở tù cho tao.
Hương quản Kim “dạ” rồi bước lại kéo xốc Thị Tố đi liền, không cho nói tiếng chi nữa hết. Thị Tố bị bắt lấy làm ức, nên đi dọc đường chị ta khóc mà kêu trời hoài. Khi xuống gần tới nhà việc may gặp thằng Cu vác cây đòn xóc trên vai ở phía dưới lơn tơn đi lên. Thằng Cu thấy Thị Tố đi với Hương quản mà cặp mắt đỏ chạch, không biết việc gì, nên hỏi Thị Tố rằng:
– Chị đi đâu vậy chị Hai?
– Qua khi không mà bà Cai biểu ông Hương quản bắt qua, đem xuống nhà việc đóng trăng qua. Em làm ơn chạy vô trong ruộng mà nói giùm cho anh Hai em hay một chút.
Thằng Cu chưng hửng không kịp hỏi tiếng chi nữa hết, nó đi tẻ vô ruộng mà kêu Cai tuần Bưởi.
Hương quản dắt Thị Tố xuống nhà việc rồi kêu thường xuyên đem đóng trăng liền.
Lối 11 giờ trưa, trời nắng như đổ lửa, phần thì lặng trang không có một chút gió, phần thì ruộng đã cạn hết nước rồi, bởi vậy người đi đường nóng nực vô cùng, còn nói chi những kẻ gặt hay là cộ lúa, họ lấy làm khổ sở.
Cai tuần Bưởi đầu đội nón lá cối, áo cộc, bên dưới bận quần ngắn, áo quần hồi trước màu đen mà bị trải nắng dầm mưa lâu ngày rồi, nên bây giờ nó trổ vàng hoách nên không biết màu gì mà nói. Anh ta coi bộ hăng hái, đương lui cui gặt dưới ruộng với ba người nữa. Thằng Cu vác đòn xóc chạy lúp xúp theo bờ con, chừng vô tới đám ruộng Cai tuần Bưởi thì kêu mà nói rằng:
– Anh Cai tuần ơi, chị Hai ở nhà làm giống gì không biết mà bà Cai biểu lằng bắt đem chỉ xuống nhà việc rồi. Chỉ biểu tôi chạy vô cho anh hay. Anh về coi chuyện gì vậy.
Cai tuần Bưởi gặt gần, được một tay lúa, bỗng nghe thằng Cu kêu mà nói như vậy thì bủn rủn tay chưng, lật đật đưa tay lúa cho người đứng gặt bên đó, rồi máng vòng hái lên vai mà đi riết lên bờ. Khi đi gần tới chỗ thằng Cu đứng thì anh ta hỏi rằng:
– Tại sao mà làng bắt?
– Tôi có biết đâu. Tôi đi gánh lúa về, tôi gặp Hương quản dắt chỉ ở đâu trên xóm ông Cai đi xuống nhà việc. Chỉ mượn tôi chạy vô cho anh hay. Chỉ nói chỉ khi không mà bà Cai biểu Hương quản đem chỉ xuống nhà việc đóng trăng. Tôi nghe như vậy lật đật chạy vô đây, không kịp hỏi cho cặn kẽ. Anh về nhà việc mà hỏi thử coi.
– Khổ quá! Lúa rấp Tết, người ta lo gần chết mà còn làm cho thêm chuyện nữa.
– Không biết chừng tại người ta chớ không phải tại chỉ.
– Sao mà tại người ta? Nếu mà mình cứ ở trong nhà, mình đừng có nói tới ai hết, thì ai mà bắt mình được.
– Anh khéo nói! Mình nghèo họ muốn bắt đóng trăng chừng nào họ bắt, mình dám làm giống gì đâu mà họ sợ.
– Không. Tao biết ý con vợ tao nó hung lắm; hổm nay nó hầm hầm hoài. Tao chắc ở nhà nó mưu sự với con Lựu sao đó, rồi nó đi nói bậy bạ, nên chúng bắt nó đây chứ gì.
Hai người vừa đi vừa bàn với nhau cho tới nhà việc. Cai tuần Bưởi bước vô, thấy Hương quản Kim đang ngồi tại bàn viết, lật đật để vòng hái với cái nón lá xuống đất, rồi lột khăn mà xá. Thằng Cu không dám vô, nó dựng cây đòn xóc dựa vách tường rồi sẽ lén đi vòng ra phía sau đặng lóng nghe coi việc gì.
Hương quản ngồi viết một hồi rồi ngước mắt ngó lên, thấy Cai tuần Bưởi thì nói rằng:
– Mày muốn chết. Sao mày xui vợ mày đi làm chuyện như vậy hư?
Cai tuần Bưởi vừa gãi đầu vừa nói rằng:
– Bẩm thầy, tôi mắc đi gặt, tôi có biết chuyện gì đâu.
– Khéo chối dữ không! Có lý nào mà mày không biết. Mày bày đặt cho vợ mày làm như vậy đó chết lây tới mày nữa, chớ phải chơi sao.
– Bẩm thầy, vợ tôi nó làm chuyện gì đâu, xin thầy làm ơn nói cho tôi biết, chớ thiệt tôi không hay chuyện gì hết.
– Nó cả gan, dám lên nhà bà Cai nó mắng nhiếc bà với cậu Hai, nên bà biểu tao bắt giải Tòa cho nó ở tù chớ chuyện gì.
– Trời ôi! Con này quá trời rồi! Nó muốn giết tôi mà! Ý hị! Hết sức nói!
Hương quản biểu Cai tuần Bưởi đứng xê ra ngoài, rồi kêu thường xuyên dạy mở trăng, dắt Thị Tố lên. Cai tuần Bưởi vừa thấy mặt vợ thì than rằng:
– Mình quá quắt rồi! Mình báo hại tôi chi vậy hử?
Thị Tố chau mày đáp rằng:
– Họ muốn nói sao họ nói, chớ tôi có làm giống gì đâu mà báo mình.
Cai tuần Bưởi nạt rằng:
– Không làm giống gì, mà sao người ta bắt đóng trăng.
– Để thủng thẳng rồi tôi đọc câu chuyện cho mình nghe, mình làm ơn chạy về bồng thằng nhỏ lại đây đặng tôi cho nó bú, kẻo nó khát sữa.
Cai tuần Bưởi bước ra cửa gặp thằng Cu, nó biểu anh ta ở đó, để nó chạy lại nhà nó bồng giùm thằng nhỏ cho. Anh ta trở vô thì nghe Hương quản hỏi Thị Tố rằng:
– Chuyện sao đâu mày khai rõ ràng cho tao nghe coi, phải khai cho thiệt, chớ khai gian tao biểu bầy trẻ vả miệng chết.
– Bẩm thầy Hương quản, hồi tháng giêng tháng hai chồng tôi đi khỏi.
– Tao không hỏi mày chuyện hồi tháng giêng tháng hai làm gì. Tao hỏi chuyện bây giờ đây, chuyện hồi sớm mai này, chuyện trên nhà bà Cai đó.
– Bẩm thầy, thầy cũng biết chồng tôi có một đứa em gái tên con Lựu…
– Tao không cần biết con Lựu con Lê nào hết. Đừng có nói dông dài. Tao hỏi mày vậy chớ sao mày dám đến nhà bà Cai mày nói xúc phạm đến bà với cậu Hai. Mày trả lời nội bao nhiêu đó mà thôi.
– Bẩm thầy, chuyện có đầu rồi mới có kết. Thầy biểu tôi khai tắt ngang vậy, tôi khai sao được.
– Tao không muốn nghe khúc đầu. Tao cấm, không cho mày khai khúc đó.
– Bẩm thầy, thầy dạy tôi khai cho thiệt, mà thầy cản thủ cản vĩ tôi còn gì mà khai.
Hương quản chống tay lên trán ngồi ngẫm nghĩ một hồi rồi ngó quanh quất trong nhà việc, thấy Cai tuần Bưởi đứng xớ rớ dựa cửa, còn tên thường xuyên thì khoanh tay đứng dựa vách tường phía sau.Anh ta đuổi hết hai người đi ra phía ngoài, và dặn thường xuyên phải coi chừng mà cản, đừng cho ai vô, để anh ta tra tội.
Cai tuần Bưởi với thường xuyên đi ra rồi Hương quản mới dạy Thị Tố lại đứng gần một bên mà nói rằng:
– Bây giờ mày muốn khai cho đủ đầu đuôi mày khai đi, song mày phải khai nhỏ đủ mình tao nghe thôi, lại khúc đầu khai vắn tắt không được khai dài.
– Bẩm thầy, hồi mùa khô chồng tôi đi ghe mướn. Tôi ở nhà với em chồng tôi là con Lựu. Cậu Hai tới chơi, cậu thấy con Lựu cậu muốn nên cậu ám sát. Tôi sợ mợ Hai khó lòng, tôi năn nỉ hết sức mà cậu cũng không nghe, cậu lấy con nhỏ cho tới có chửa…
– Mày đặt chuyện bậy bạ! Nó lấy ai đâu có chửa, sao mày dám nói xán xả cho cậu Hai?
– Bẩm thiệt chớ. Nội xóm ai cũng đều biết chuyện đó hết; thầy không tin thầy hỏi họ mà coi.
– Thôi, sao nữa thì khai đi.
– Hồi tháng 11, con Lựu nó đẻ. Chúng tôi chạy lên cho cậu Hai hay. Hơn một tháng nay cậu không xuống thăm, mà cậu cũng không nói chi hết. Tôi định chắc mợ Hai hay rồi, nên cậu không dám tới lui nữa. Phận vợ chồng tôi là tá điền của cậu Hai mợ Hai. Nếu chuyện này bể ra thì không dễ gì! Tôi sợ quá nên hồi sớm mai này tôi lên thú thiệt mà xin lỗi với bà và mợ Hai. Không biết tại sao bà giận bà rầy tôi quá, rồi bà biểu thầy bắt tôi chớ tôi có dám nói giống gì đâu.
Hương quản ngồi suy nghĩ một hồi rồi trợn mắt ngó Thị Tố mà nói rất nghiêm nghị:
– Mày dại lắm mày ở tù chết. Mày phải biết danh giá của bà Cai với cậu Hai mợ Hai không nhỏ. Ví dầu cậu Hai có khuấy chơi, cậu trai gái với em chồng mày đi nữa việc đó cũng không đủ bằng cớ gì. Mày nói nội xóm Đập Ông Canh này ai cũng đều biết hết. Hết thảy cả xóm Đập Ông Canh này ai cũng là tá điền tá thổ của cậu Hai hết thảy, ai mà dám chứng cho mày. Mày nói chứng là ai đâu, mày nói thử cho tao coi. Tao dám chắc nội trong làng này dầu mày mướn một ngàn đồng bạc cũng không ai dám chịu làm chứng cho mày nữa. Mày ngu quá. Sao mày dám tới nhà người ta mày nói chuyện xấu cho người ta như vậy. Chuyện này mày làm mất danh giá người ta, mày có tội nặng lắm, chớ phải chơi hay sao. Bây giờ bà Cai dạy tao phải làm tờ bẩm mà giải nộp mày, tao không biết làm sao mà giải cứu mày nổi. Mà không biết chừng thằng Cai tuần cũng bị chớ không phải mình mày đâu. Đừng có lấp lửng.
Hương quản nói dứt lời liền đứng dậy bước ra kêu thường xuyên biểu đem Thị Tố đóng trăng lại.
Thằng Cu bồng thằng nhỏ lại đã lâu rồi, nhưng vì bị Hương quản cấm, nên vô không được. Thằng nhỏ khát sữa la khóc om sòm; Cai tuần Bưởi bồng dỗ hết sức mà nó cũng không chịu nín.
Hương quản thấy vậy mới biểu Bưởi bồng con vô giao cho vợ. Thị Tố bồng con theo thường xuyên xuống nhà sau ngồi trăng, vì Hương quản hăm dọa nên mặt coi có sắc sợ.
Thị Tố đi rồi Hương quản bèn kêu Cai tuần Bưởi lại đứng gần mà nói rằng:
– Này em Cai tuần, con vợ em dại quá. Việc cậu Hai trai gái với con Lựu, qua cũng hay chớ không phải không, nhưng mà bây giờ mình có bằng cớ gì đâu mà nói được. Con vợ em khờ quá, nó không biết luật, nó lên nói bậy nói bạ, bà Cai với mợ Hai giận nên biểu qua phải làm cho vợ chồng em ở tù hết thảy. Qua thấy em út thiệt thà qua thương, mà bây giờ biết làm sao. Nếu qua binh vực em, thì qua ngồi chức chánh Hương quản này sao yên. Qua ở trong lòng bàn tay bà Cai, qua đâu dám trái ý bà. Vậy em tính làm sao bây giờ?
Cai tuần Bưởi ứa nước mắt mà nói bệu bạo rằng:
– Xin thầy thương giùm vợ chồng em, thầy châm chế cho em nhờ, chớ em biết nói làm sao được.
Hương quản làm mặt buồn, đứng suy nghĩ một hồi làm bộ thở ra mà nói rằng:
– Qua tính như vậy có lẽ được. Em bưng trầu rượu lên lạy bà Cai với mợ Hai mà chịu lỗi. Em nói vợ em dại dột nói bậy nói bạ nên em xin bà với cậu mợ tha lỗi cho nó. Đem đi liền bây giờ đi, rồi chiều tối qua về qua òn ỉ nói giùm cho.
Cai tuần Bưởi vâng lời quày quả ra về. Thằng Cu mắc lọ mọ ở dưới nhà trú mà hỏi thăm Thị Tố; chừng nó trở ra thấy mất Cai tuần Bưởi, nó mới xách đòn xóc tuốt lại nhà kiếm. Nó bước vô cửa, thấy sắp con Cai tuần Bưởi đứa nào đứa nấy mặt mày lem luốc đương ngồi dụm nhau lại chơi dưới đất, còn Tư Lựu thì bồng con ngồi trên chõng mà khóc. Nó vùng hỏi trống rằng:
– Anh Cai tuần có về đằng này không? Ảnh đâu mất rồi?
Con Lựu ngó ra, cặp mắt ướt rượt mà đáp rằng:
– Anh Hai tồi về rồi mới đi đó. Ảnh nói để ảnh lên lạy bà Cai mà chịu lỗi cho chỉ.
Thằng Cu đứng một hồi mà nói rằng:
– Người ta không thương, người ta làm như vậy, mà còn lạy giống gì. Thôi, tôi về làm công chuyện tối rảnh tôi sẽ xuống thăm.
Trong lúc làng bắt đóng trăng Thị Tố mà tra hỏi làm cho Cai tuần Bưởi, thằng Cu, con Lựu đều lo sợ buồn rầu hết thảy, thì trên nhà bà Cai cũng không vui vẻ êm ái gì. Khi Hương quản dẫn Thị Tố ra khỏi cửa rồi, thì mợ Haituốt lên nhà trên mà kiếm cậu. Mợ kiếm cùng trong buồng ngoài trước, mà không thấy, bèn hỏi thằng Phùng rằng:
– Cậu Hai mày đâu, hử?
Thằng Phùng nói cậu ra ngoài vườn. Mợ Hai tuốt ra, cậu đứng dưới gốc cây khế, đương vác mặt ngó lên trên ngọn, đường như ếm khế chín mà hái, mợ vùng kêu mà nói om sòm rằng:
– Vô đây đồ khốn nạn! Tuồng mặt như vậy mà đi lấy em tá điền, tốt dữ! Sao không vô mà chào chị dâu của vợ, lại trốn ở ngoài này.
Cậu Hai xịu mặt nói rằng:
– Ào ào giống gì vậy!
Tuy cậu Hai nói giọng cự nự, song cậu ríu ríu đi vô. Mợ Hai bị cục máu ghen nung nấu trong ngực, mợ dằn không được, bởi vậy cậu vừa bước xuống thềm nhà thì mợ Hai ở sau nhảY tới đấm trên lưng cậu thụi thụi, làm cho thằng Phùng với mấy người chùi lư thất kinh, lật đật đứng dậy vỡ tan.
Vì có trước mặt mấy đứa đó cậu Hai mắc cỡ, nên cậu day lại nói rằng:
– Con quỷ này làm giống gì vậy? Muốn tao đánh bể đầu hay sao?
Mợ xốc tới, lúi đầu vào ngực cậu mà la lớn:
– Đầu đây, đầu đây, có giỏi thì đánh đi. Đứa nào nói phách mà không dám đánh thì tao coi như con chó. Ờ ờ! Cái tuồng mặt lấy bậy, không biết xấu mà còn nói lớn lối nữa!
Ai cũng tưởng mấy lời thách đố ấy sẽ làm cho cậu Hai phải thị oai trừng trị ác phụ, nào dè cậu hứ một cái, lẩm bẩm nói “đàn bà khốn nạn”, rồi bỏ đi vô nhà, chẳng hiểu cậu sợ hay là cậu kinh bỉ. Cậu nhịn không được, mới nói trả lại vài tiếng, thì mợ chạy a lại, nắm áo cậu mà xé rồi nhào lộn mà làm nhân mạng. Tôi tớ trong nhà kinh hồn khiếp vía, đứa kiếm chỗ ẩn mặt, đứa ngó nhau lắc đầu, không một đứa nào dám lại gần mà can gián.
Bà Cai ở dưới nhà cầu, nghe nổi giặc trên nhà trên, bà thủng thẳng đi lên; bà thấy dâu con đương cấu xé nhau, bà bước lại gỡ tay mợ Hai mà nói rằng:
– Buông ra con, Hai. Việc gì cũng thủng thẳng mà nói, con đừng có làm như vậy, bầy trẻ trong nhà nó chê cười.
Tuy mợ Hai buông áo cậu ra, nhưng mợ nói ong óng rằng:
– Ối! Nông nỗi này mà còn biết gì là xấu hổ nữa! Quân nó ăn ở mọi rợ như vậy đó má không thấy hay sao, hử?
Bà Cai chau mày mà đáp rằng:
– Đồ khốn nạn nó muốn cho xào xáo trong nhà mình, nên tới kiếm chuyện mà nói, chớ biết có thiệt như vậy hay không. Để thủng thẳng còn hỏi lại đã chớ.
– Không có làm sao người ta dám nói. Má còn binh hay sao?
– Không phải má binh. Má biểu con để cho má đi hỏi lại, nếu thiệt có như vậy thì má sẽ rầy nó chớ.
Đứa con gái của cậu Hai Nghĩa đã được ba tuổi rồi, nãy giờ nó chơi ở phía sau hè, bây giờ con nhỏ giữ dắt nó ra trước nó thấy cha mẹ nó rầy rà quá thì nó sợ, nên la khóc om sòm. Mợ Hai bước lại bồng con, nhưng mợ cũng cứ ong óng hoài, hễ bà Cai nói thì mợ vặc một vặc hai với bà, mà hễ bà thôi thì mợ mắng nhiếc cậu Hai không chừa chỗ nào hết.
Cậu Hai không thèm đối đáp với vợ nữa, cậu nghinh mặt rồi bỏ đi vô buồng trên phía cháu trên mà nằm. Bà Cai can hết lời mà dâu không chịu nín, bà giận bỏ trở xuống nhà cầu mà ăn trầu. Mợ Hai ôm con trong lòng cứ ngồi nói hoài, cậu lặng thinh mà mợ không chịu nín, cơm dọn rồi mà mợ không thèm ăn. Mợ nói mấy giờ đồng hồ, mà nghe chẳng có tiếng chi khác hơn là những tiếng “Tuồng mặt lấy tá điền… Em rể Cai tuần Bưởi… Quân mọi rợ… Đồ khốn kiếp… Đội quần mà đi… Cấm không cho xuống Đập Ông Canh…”
Cai tuần Bưởi lên chịu lỗi, anh ta bước vô sân còn nghe mợ Hai nói ong óng trong nhà.
Anh ta sợ khiếp vía, nhưng mà phải làm gan đi vô đại. Bà Cai vừa thấy mặt anh ta, thì bà ta hét vang rân. Bà mắng rằng:
– Đồ phản, còn tới làm chi nữa đó! Thuở nay nhờ ai có cơm mà ăn, có chỗ mà ở, rồi bây giờ trở mặt dám đặt điều nói xấu nói hổ cho tao, hử. Quây bây là quân trâu chó, đi ra cho mau, bằng không tao biểu bầy trẻ vác cây nó đập bây giờ.
Bà mắng bà chửi, còn Cai tuần Bưởi thì cứ khóc lóc hoài. Bà mắng mệt, mà nghỉ, anh ta mới đánh bạo nói rằng:
– Bẩm bà, xin bà thương giùm thân phận bọt bèo. Vợ con nó dại, nên nói bậy nói bạ, xin bà miễn chấp nó. Nếu bà không thương, bà bỏ tù nó, thì khổ cho con lắm. Lúa của con gặt còn ê hề, sắp nhỏ của con liu nhiu líu nhít, con biết làm sao được. Trăm lạy bà thương cho.
Bà Cai nạt lớn:
– Thây kệ chúng bây. Vợ chồng bây cả gan, dám xúc phạm đến danh giá nhà tao để rồi bây coi. Tao chỉ quăng ra vài trăm bạc, tao làm cho chúng bây ở tù hết cho bây mở mắt bây ra.
Cai tuần Bưởi khóc lóc năn nỉ chừng nào thì bà Cai mắng chửi rầy la chừng nấy. Anh ta thấy năn nỉ với bà không được mới tính lên nhà trên kiếm cậu Hai mợ Hai mà chịu lỗi. Anh ta lên đó không thấy cậu Hai, chỉ thấy mợ Hai đương ngồi nói om sòm mà thôi. Anh ta áp lại mà lạy.
Mợ Hai vừa thấy anh ta thì mợ la rằng:
– Ủa! Chào anh vợ của cậu Hai Nghĩa. Tới nhà sao không lên ván giữa mà ngồi, làm giống gì mà quỳ lạy đó vậy. Bầy trẻ đâu, sao không kêu cậu Hai ra tiếp rước anh vợ.
Thà bà Cai mắng chửi còn ít sợ, chớ mợ Hai nói gay gắt thiệt khó chịu không biết chừng nào. Con nhà nghèo khổ mà kể chi là vinh nhục thấp cao, bởi vậy Cai tuần Bưởi cứ khum lưng mà lạy, không dám chối cãi một tiếng nào hết. Thiệt tội nghiệp cho cái thân Cai tuần Bưởi. Anh ta năn nỉ mà chịu lỗi cho vợ, anh ta nói nhiều lời nghe thảm thiếc; tiếc thay cho mợ Hai không thèm ghé tai vào một lời nào hết, mợ cứ ngồi nói xeo nạy với chồng.
Cai tuần Bưởi lạy mỏi gối, nói hết lời mà coi bộ không ai đoái thương chút nào hết. Anh ta cóm róm đi xuống nhà bếp, gặp thằng Phùng nó nói:
– Đi về đi. Bà với mợ Hai đương giận mà anh nói thế nào được. Để mai mốt bớt giận rồi sẽ lên.
Cai tuần Bưởi nghe lời bèn lẻn ra cửa sau mà về, thầm tính để xuống nhà việc cậy Hương quản Kim nói giúp giùm.
Đi về dọc đường, may gặp Hương quản ở dưới nhà việc đi về nhà. Cai tuần Bưởi thuật chuyện mình xin lỗi lại cho Hương quản nghe và cậy Hương quản làm ơn ghé nói giùm. Hương quản gật đầu nói rằng:
– Thôi, em về đi. Để qua nói giùm coi được hay không.
Hương quản Kim nghe nói trong nhà bà Cai còn đương lộn xộn, anh ta không dám ghé cứ đi thẳng về nhà. Đến tối dọ nghe đã êm rồi anh ta mới mò lại. Khi bước vô cửa, anh ta hỏi thằng Phùng vậy chớ cậu Hai ở đâu. Thằng Phùng cười và nói nho nhỏ rằng:
– Mợ Hai em rầy quá, cậu Hai chịu không nổi nên bắt ngựa cỡi đi mất từ hồi xế đến bây giờ, không biết vô cô Ba trong chợ Giồng hay là lên nhà ông trên chợ Gạo. Chú còn đóng trăng vợ Cai tuần Bưởi hay không? Bà mới biểu tôi dọn dẹp rồi đi lại đằng chú dặn chú phải làm gắt đừng cho chỉ về ăn cơm uống nước gì hết.
Hương quản trề môi đáp rằng:
– Về sao được mậy. Bà dạy đóng trăng nó, ai mà dám thả?
Anh ta nói rồi bèn đi thẳng vô nhà cầu.
Bà Cai đương nằm trên ván gác tay ngang qua trán như là ngủ, còn mợ Hai thì bồng con nằm trên võng giăng gần đó. bà Cai thấy Hương quản vô bà không ngồi dậy, duy lấy tay mà hỏi:
– Mày làm tờ bẩm mà giải con đó hay chưa?
– Bẩm bà, tôi mới lấy khai nó, chớ chưa làm tờ bẩm.
– Ủa! Còn chờ giống gì nữa?
– Bẩm bà, không gấp gì. Tôi nói để tôi bẩm lại với bà rồi sẽ làm tờ bẩm.
– Mày muốn bẩm giống gì đó?
– Bẩm bà, con vợ thằng Cai tuần Bưởi khốn nạn lắm. Tôi biểu nó làm khai mà nó cứ khai cậu Hai trai gái với em chồng nó hoài. Từ hồi trưa, đến giờ tôi đánh vả nó sưng mặt mà nó cũng cứ nói vậy mãi. Tôi giận đóng trăng hai chân, tôi bỏ nó nằm dưới.
Mợ Hai lồm cồm ngồi dậy nói rằng:
– Thì lấy em chồng nó, nó khai lấy em chồng nó chớ sao. Tôi không có giận con vợ thằng Bưởi. Tôi giận ở nhà tôi với con em thằng Bưởi lắm. Hương quản có bắt em thằng Bưởi mà đóng trăng lại hay không?
Hương quản nghe hỏi vậy thì chưng hửng nên đứng lơ láo không biết sao mà trả lời. Bà Cai ngồi dậy nói rằng:
– Con đó có nói giống gì đâu mà đóng trăng nó.
– Nó là quân ăn mày, sao nó cả gan dám lấy chồng tôi. Để tôi xuống tôi xé trứng nó cho nó coi.
Bà Cai hết nói nữa được. Hương quản bước ra cửa nhả bã trầu rồi trở vô hỏi bà Cai:
– Bẩm bà, hồi trưa tôi gặp thằng Cai tuần Bưởi ở trên này đi về, nó nói lên lạy bà với cậu Hai mợ Hai mà xin lỗi cho vợ nó, không biết có thiệt như vậy hay không?
– Có. Nó lên nó lạy nó khóc đây. Tao chửi nát nước rồi nó trốn về mất.
– Bẩm bà, vợ chồng nó bà muốn giết chừng nào lại không được. Con vợ nó nói bậy bạ, bỏ tù cũng là đáng lắm. Ngặt vì tôi thấy cái thân phận thằng Cai tuần Bưởi tội nghiệp quá. Nó gặt nửa chừng lúa còn ê hề. Còn trong nhà con lít nhít cả bầy. Nếu làm cho vợ nó ngồi tù, thì tội nghiệp cho nó. Xin bà với mợ Hai rộng lượng bao dung cho nó một lần cho nó nhờ.
– Mày binh nó hay sao, quân đó mà còn thương nỗi gì?
– Bẩm bà, không phải tôi binh.
– Không phải binh sao mày xin lỗi cho nó?
– Bẩm bà, tôi nghĩ giải nó cũng khó lắm. Hễ giải thì vợ thằng Bưởi ở tù rồi. Ngặt vì tôi sợ nó lên trên Tòa nó nói bậy nói bạ hoài, mang tai tiếng cho cậu Hai thêm nữa.
Mợ Hai vọt miệng đáp:
– Thây kệ, giải nó đi, đặng đến giữa mặt quan nó khai cho mang xấu chơi. Sợ giống gì. Làm như vậy một lần cho tởn đến già.
– Thưa mợ, mợ nói vậy sao phải. Có việc gì thà là ở trong nhà mà xử, chớ có lẽ đâu lại cho thiên hạ biết làm chi.
– Việc đã rùm beng rồi, còn giấu ai nữa chớ.
– Có chi đâu mà rùm beng. Hồi trưa tôi tra khảo nó thì tôi đóng cửa nhà việc lại, tôi có cho ai nghe đâu. Xin bà với mợ Hai cho phép tôi phạt trăng nó ít bữa tại nhà việc mà răn nó rồi tha nó. Làm như vậy cũng đủ khiếp vía nó rồi, mà cậu Hai cũng khỏi mang tiếng chi hết.
Bà Cai thấm ý, ngồi suy nghĩ một hồi rồi mới nói rằng:
– Đồ khốn nạn, nó nói bậy nói bạ, tao muốn cho nó ở tù đặng nó biết chừng. Mà thằng Hương quản, mày nói như vậy, thôi tao cũng dung cho nó một lần. Nếu nó còn dại nữa rồi tao sẽ giết nó, chừng đó hết than trời trách đất.
Mợ Hai cùng quằng nói rằng:
– Má tha chớ tôi không tha. Mà như có tha cho con vợ thằng Bưởi thì phải bỏ tù con em nó cho tôi.
– Thôi con. Mình bỏ tù vợ thằng Bưởi thì được rồi, mà con nó ở nhà liu chiu lít chít tội nghiệp. Còn con em thằng Bưởi nó có nói giống gì đâu. Chừng nào nó nói giống gì thì nó sẽ biết tay má.
– Tôi giận con đó lắm. Tôi muốn thấy tuồng mặt con đó coi nó ra làm sao.
– Thôi, con. Má xin con viêc. đó, nếu con rầy rà hoài thì xấu chồng con, chớ không ích gì.
– Thôi, má đuổi thằng Bưởi phải dỡ nhà đi liền bây giờ đi, đừng cho nó ở trong điền trong đất nhà mình nữa.
– Phải, để nó đong lúa ruộng rồi sẽ hay. Má biết, con không cần lo việc ấy. Thứ đồ như vậy mà còn cho mướn ruộng và cho ở trong đất làm chi nữa.
Hương quản Kim thấy bà Cai với mợ Hai đã nhận lời mình xin rồi thì mừng nên lật đật từ mà về, sáng bữa sau xuống nhà việc kêu Cai tuần Bưởi lại mà rằng:
– Vợ chồng bây làm thất công tao quá! Hồi hôm tao năn nỉ hết sức bà mới chịu tha tù cho vợ mày. Bà dạy tao phải phạt trăng nó 8 bữa tại nhà việc cho nó khiếp sợ, sau đừng có ngu như vậy nữa. Thôi mày phải lên mà lạy bà với mợ mà cám ơn đi.
Người ta hiếp đáp mà Cai tuần Bưởi không hiểu, tưởng người ta làm ơn, nên cúi đầu lại Hương quản rồi lật đật đi lên nhà bà Cai mà lạy nữa.
Thằng Cu tối rảnh xuống nhà việc thăm Thị Tố, Thị Tố buồn nên nói hết công chuyện cho nó nghe. Nó hay con Lựu đau mà không tiền uống thuốc, nó về hỏi chủ lãnh 20 đồng bạc rồi lén đưa cho thầy Hoằng làm một tễ thuốc cho con Lựu.
Đến 30 Tết, Hương quản Kim mới tha Thị Tố về. Thầy Hoằng đem tễ thuốc lại mà đưa. Thị Tố chưng hửng, hỏi thầy Hoằng rằng:
– Ai đưa bạc cho thầy làm đây?
– Thằng Cu chớ ai. Nó đưa bữa hổm, nó nói bạc của thím mượn nó đem giùm lại cho tôi. Sao thím hỏi kỳ vậy?
Thị Tố hiểu rồi, nên gật đầu nói rằng:
– Phải a, tôi biểu nó mà tôi quên chớ.
Qua rằm tháng giêng, Cai tuần Bưởi đạp lúa xong rồi, mới mướn xe bò xe 300 giạ lên đong lúa cho bà Cai. Vì anh ta có tịch, sợ bà Cai hoặc mợ Hai ghét rồi bắt chặt bắt lỏng, bởi vậy anh ta giê lúa thật sạch, không dám để một hột lúa lép. Tuy vậy mà lúc đong lúa cũng không khỏi bị mợ Hai mắng nhiếc tưng bừng. Đong được phân nữa rồi, mợ Hai làm gắt buộc phải gánh ra sân mà giê lại, làm cho Cai tuần Bưởi phải thất công hết một ngày, phải mướn một người phụ mà giê, rồi lại phải về gánh lên 5 giạ nữa mới đủ đong.
Cai tuần Bưởi bị mắng nhiếc không dám cự, bị bó buộc không dám phiền, ấy là anh ta nghĩ mình ráng chịu đấm ăn xôi, chớ nếu nói đi nói lại, người ta không cho mướn ruộng nữa, rồi làm sao mà nuôi con, nuôi vợ. Ddã nhịn nhục hết sức, mà cũng không khỏi mang hại, nghĩ cái nghèo nó dở không biết chừng nào, chớ chi mà anh ta giàu, ai nói oan ức anh ta cự lai thì chẳng những là không có họa gì mà thôi, mà người ta còn kính sợ mình nữa…
Khi đong lúa đủ rồi, Cai tuần Bưởi lên nhà trên thưa với chủ điền mà về. Cậu Hai Nghĩa bèn nói rằng:
– Này, năm nay tao lấy ruộng lại mà cho người khác làm, tao không cho mày mướn nữa. Tao nói trước cho mày biết đặng có đi hỏi ruộng của chủ khác mà mướn lần đi.
Cai tuần Bưởi đứng ngẩn ngơ, không biết làm sao mà nói cho được. Mợ Hai lại nói tiếp:
– Mày cũng phải dỡ nhà đi kiếm chỗ đất khác cất mà ở, tao không cho ở trong đất tao nữa. Nội trong tháng giêng này phải đi đa, nếu còn ở đó tao sai bầy trẻ xuống cào nhà quăng xuống vũng nói cho mà biết.
Cai tuần Bưởi ngó bà Cai rưng rưng nước mắt, trong ý trông coi bà có thương con nhà nghèo mà can dâu dứt con hay không, nào dè bà ngồi tự nhiên, không thèm ngó anh ta mà cũng không thèm nói tiếng chi hết. Anh ta thấy vậy mới nói rằng:
– Thưa cậu mợ, xin cậu mợ thương tôi, chớ lấy ruộng lại rồi tôi làm sao.
Mợ Hai nạt rằng:
– Mày làm sao thây kệ mày chớ! Tao nói rồi a, nội tháng giêng này phải ra cho khỏi đất tao; nếu cãi lời rồi coi.
Cậu Hai bỏ đi vô buồng không thèm nói nữa.
Tuy Cai tuần Bưởi thiệt thà, nhưng mà anh ta cũng hiểu tại cớ nào mà người ta đuổi mình và lấy ruộng lại, anh ta nghĩ dầu năn nỉ đến mấy cũng vô ích, bởi vậy anh ta xá bà và mợ về liền. Khi về đến nhà, Thị Tố thấy sắc mặt anh không vui thì hỏi:
– Thêm 5 giạ nữa đó mà đong cũng chưa đủ hay sao? Thôi, biểu họ xuống gánh hết lúa của mình về trển cho vừa lòng họ.
– Đong đủ rồi, mà người ta lấy ruộng lại, không cho mình làm nữa.
– Ủa, mình có thiếu lúa ruộng đâu mà lấy ruộng lại.
– Họ đã lấy ruộng lại, mà họ còn đuổi phải dỡ nhà mà đi liền nữa chớ!
Thị Tố nghe nói nổi giận, ngồi lặng thinh một hồi rồi lầm bầm nói rằng:
– Quân ác thiệt! Vậy mà trời đất cho họ giàu có làm chi không biết!
Cai tuần Bưởi xịu mặt nói rằng:
– Tại mình hết thẩy! Mình làm lắm chuyện nên bây giờ mới ra nông nổi này đó.
– Phải, tại tôi thiệt. Mà tại họ nói như giống gì đâu, biểu tôi nín sao được.
– Một câu nhịn là chín câu lành. Phận mình nghèo, ăn thua với người ta sao nổi mà sinh sự. Đó, bây giờ người ta đuổi, mình biết đi đâu mà ở nè?
– Ôi! Thiếu gì chỗ ở mà lo, cần gì phải bái quỵ thứ đồ như vậy.
– Chỗ nào đâu mình thử chỉ coi? Dỡ nhà mà đi dễ lắm sao? Mà đi ở chỗ khác rồi ruộng đâu mà làm?
– Mấy nguời họ không ở trong đất, không làm ruộng của bà Cai, họ chết đói hết hay sao? Mà bà Cai đuổi mình hay là ai đuổi đó?
– Cậu Hai, mợ Hai.
– Cậu Hai cũng đuổi nữa hay sao?
– Chớ sao?
– Khốn nạn quá! Mắc thờ bà mà quên hết nhân nghĩa! Tôi muốn lên tôi xài nó một lần nữa, coi nó giỏi nó làm giống gì tôi nó làm đi.
– Thôi, thôi, đừng có nhiều chuyện nữa, mình muốn giết tôi đa há? Đã một lần rồi mà chưa tởn hay sao? Để cho tôi kiếm đất tôi hỏi đặng có đi ở chỗ khác chớ đừng có sanh chuyện mà báo hại tôi.
– Mình sợ họ quá, thiệt tức tôi không biết chừng nào.
– Họ giàu, mình nghèo, không sợ sao được, nói nghe kỳ không kìa!
– Tưởng họ giàu mà họ giúp đỡ mình đồng nào đó hay sao, mà sợ. Họ giàu họ lấy em mình cho có con rồi họ bỏ, mình giận mình nói, họ oán họ lấy ruộng lại, đuổi mình phải dỡ nhà mà đi, giàu như vậy mà sợ cái gì.
– Thôi, tôi xin mình đừng có nhắc tới chuyện đó nữa. Tại mình dại mình để em mình cho người ta lấy thì chịu, mình trách người ta nỗi gì… Tôi thấy đất của cậu Thôn Tá có cái nền nhà cũ của thằng Thình còn bỏ trống. Thôi để mai tôi qua tôi hỏi đặng dỡ nhà cất về đó mà ở cho êm, rồi thủng thẳng kiếm ruộng người khác mướn mà làm. Nhịn thua phứt cho rồi công chuyện ấy đi là hơn.
Thị Tố cùng quằng bỏ đi xuống nhà dưới nấu cơm, không thèm nói nữa.
Sáng hôm sau, Cai tuần Bưởi qua nhà Thôn Tá năn nỉ hỏi cái nền nhà của thằng Thình mà ở. Thôn Tá khá có mấy mẫu đất hương hỏa của ông bà để lại, nên làm đủ ăn. Anh ta nghe Cai tuần Bưởi năn nỉ thì thương, nên chịu cho ở trên cái nền nhà cũ bỏ trống đó.
Cai tuần Bưởi làm ruộng mùa này, đong lúa và trả vặt vạnh rồi còn dư được một thiên rưỡi lúa, anh ta mới bán lúa ấy, rồi mướn hai người phụ triệt nhà đặt đem qua cất bên Thôn Tá. Nhà trên dỡ rồi thì Thôn Tá cho kêu qua mà nói:
– Này, em Cai tuần, việc này khó quá em ơi!
– Việc chi mà khó, cậu Thôn.
– Hôm trước em hỏi cái nền nhà đặng em cất nhà em ở. Qua thấy em thiệt thà qua thương, nên qua nhận lời. Bữa nay bà Cai kêu qua lên bà rầy lung quá. Bà hỏi vậy chớ muốn cự địch với bà hay sao mà bà giận bà đuổi em, qua lại dám chứa em trong đất. Qua nói qua không hay chuyện gì hết, qua có một cái nền nhà bỏ trống, em tới em hỏi nên qua cho, chớ qua không dám cự địch với bà. Bà nạt qua, bà nói: “Mày giỏi mày chứa thằng Bưởi, rồi mày biết tay tao”. Em nghe đó mà coi, chuyện bà Cai giận hờn em làm sao qua có biết đâu, qua thấy em qua thương nên qua hứa để cái nền nhà cho em ở, mà bây giờ bà nói như vậy thì khó cho qua qúa. Em liệu làm sao?
– Thưa cậu, xin cậu thương giùm tôi, chớ tôi có biết liệu làm sao bây giờ.
– Không phải là qua không thương em, nếu qua không thương thì hôm trước em hỏi qua có cho đâu. Ngặt vì bà Cai nói như vậy đó, hễ cho em đất thì bà nói qua binh em, bà ghét qua rồi qua làm sao mà ở cho yên được. Thôi, qua khuyên em kiếm đất khác hỏi mà ở thì tiện hơn.
– Tôi dỡ nhà lỡ rồi, bây giờ hỏi đất ai cho kịp. Lại biết hỏi được hay không.
– Thiệt đó chút! Nếu qua cho em ở mà bà giận bà rầy qua, thì trong làng này có ai mà dám chứa em. Thiệt là tội nghiệp cho em quá! Biết làm sao bây giờ!
Cai tuần Bưởi ngồi rưng rưng nước mắt, không biết liệu sao cho được. Thôn Tá thấy vậy thì động lòng, nhưng vì cái quyền thế nó mạnh hơn cái thương nhà nghèo, bởi vậy anh ta chắc lưỡi cau mày, song không dám biểu Cai tuần Bưởi “Cứ về đất qua mà ở, ai giỏi làm gì thì làm đi”, mà lại khuyên Cai tuần Bưởi “thôi, đi kiếm chỗ khác mà lánh thân cho xong, chớ cự với bà Cai không dễ gì đâu”.
Cai tuần Bưởi về nhà tỏ lại sự ấy cho vợ và em nghe. Con Lựu khóc lóc nói:
– Vì em mà anh Hai chị Hai bị người ta giận dữ, mắng nhiếc, đuổi xô, em nghĩ thiệt em muốn chết phức cho rồi.
Thị Tố phủi đít đứng dậy nói rằng:
– Hứ! Chuyện gì mà phải chết kia! Sống mà coi họ giàu cho đời, sống mà coi họ ỷ được như vậy luôn luôn hay không chớ! Không cần gì hết, ở đây không được thì lên trên Bình Phú Tây mà ở, họ giỏi họ theo lên đó họ đuổi được nữa, tôi mới sợ. Miếng đất của thằng Rạng cũng rộng, nó ở phía trước, còn phía sau nó trồng chuối bậy bạ, không thâu về huê lợi nhiều cho lắm. Mình lên đó mình hỏi nó rồi về trển cất nhà mà ở.
Cai tuần Bưởi ngồi ngẫm nghĩ một lát rồi thở ra mà nói rằng:
– Hỏi thì chắc nó cho rồi, ngặt vì về trển mà ở rồi ruộng đâu mà làm?
– Vậy chớ mình ở đây rồi ruộng nương đâu mà làm?
– Không biết chừng cậu Hai mợ Hai nói vậy, chớ lẽ nào lấy ruộng lại thiệt sao?
– Cũng còn cậu Hai mợ Hai nữa! Người ta đã đuổi rồi mà cũng chưa biết thân! Tôi biểu mình nghe lời tôi, lên hỏi đất thằng Rạng đi, đừng thèm uật lỵ ai nữa hết, lên trển ở rồi mượn thằng Rạng nó mướn đất cho mà làm. Thứ làm mọi cho họ, chỗ nào lại không được mà lo kia.
– Nó là em út, mà bây giờ mình nguy, mình về nương tựa với nó coi kỳ quá, vì vậy nên tôi không muốn.
– À ạ! Mình sợ về theo quê vợ người ta chê cười, phải không? Dữ không! Họ giàu lớn xộn, mà họ còn chui đầu bợ đỡ mà nhờ bên vợ đó sao. Mình nghèo ai cười mà sợ. Huống chi thằng Rạng giàu có gì đâu, còn mình về trển rồi mình lo làm ăn, chớ mình xin của nó mà ăn hay sao mà họ cười?
Cai tuần Bưởi cùng thế rồi, nên cực chẳng đã phải nghe lời vợ mà đi lên Bình Phú Tây.
Thằng Ba Rạng là em của Thị Tố, năm nay nó được hai tám tuổi, cưới vợ từ lâu mà chưa có con. Nó có hai chị em mà thôi. Khi cha mẹ chết có để cho nó được hai thiên lúa với ba con trâu. Nó kế nghiệp của cha mà làm hai dãy ruộng Chánh bái Tam, nhờ trúng mùa hai ba năm nên nó mua được một vuông thổ trạch hơn năm mươi sào, mà ở gần ngã ba tẻ ra chợ Dinh.
Cai tuần Bưởi lên tỏ thiệt đầu đuôi chuyện mình lại cho vợ chồng Ba Rạng nghe. Ba Rạng tinh ý cứng cỏi cũng như chị, bởI vậy nghe anh rể bị người ta hiếp đáp thì lấy làm bất bình nên nói rằng:
– Đồ bất nhân bất nghĩa như vậy mà anh nhịn nó được, thiệt tôi tức quá. Anh về coi ai mua nhà thì anh bán phứt đi, rồi lên đây ở với tôi. Nhà tôi rộng, anh ở đậu rồi thủng thẳng mua cây lá cất mà ở riêng. Miếng đất tôi còn trống đó, anh muốn cất chỗ nào cũng được. Ai có giỏi muốn nói tiếng gì thì lên đây nói thử cho tôi nghe.
Ba Rạng cầm anh rể ở chơi tới ăn cơm chiều rồi mới về. Trời chạng vạng tối, Cai tuần Bưởi mới về tới Đập Ông Canh. Khi bước vô nhà, thì thấy thằng Cu đương ngồi nói chuyện với Thị Tố, còn con Lựu thì đương nằm trên võng mà dỗ con. Anh ta thuật lại những lời của Ba Rạng lại cho vợ nghe. Thị Tố nói rằng:
– Đó, mình còn cãi với tôi nữa thôi hử? Có phải thằng Rạng nó cũng nói như vậy hay không. Tôi nói về trển mà ở thì tiện hơn hết mà. Thôi, sáng mai mình đi hỏi bà con trong xóm, coi ai chịu mua cây lá mình bán phứt đi. Về trển rồi mình mua cây lá khác cất nhà mới mà ở, chớ bây giờ chở những đồ này không dễ gì đâu.
Cai tuần Bưởi thở ra mà đáp rằng:
– Bây giờ bán có mấy đồng tiền, rồi về trển mua đồ mới thì mắc quá.
– Mấy đồng cũng bán.
– Sợ họ không mua.
– Như họ không mua thì chất lửa mà đốt, rồi chở đồ đi không cần gì.
– Đốt đâu mà uổng vậy. Khéo nói bậy! Thôi! Để mai tôi kiếm họ tôi bán thử coi… Còn mình nói hôm tháng chạp thằng Cu nó có cho mượng 20 đồng bạc đặng làm tễ thuốc cho con Lựu uống. Bữa nay có nó xuống đây, thôi mình thối bạc lại cho nó, chớ để mình đi về trển rồi trở xuống mà trả thì thất công, mà để lâu em út nó phiền.
Thằng Cu đứng dậy nói rằng:
– Để đó anh Hai. Tôi xuống thăm anh, chớ có phải tôi đi đòi tiền bạc gì hay sao.
– Hồi túng em út cho mượn. Bây giờ bán lúa rồi thì trả chớ để cù nhầy sao cho phải. May quá, nhờ có em cho mượn bạc mới có thuốc cho con Lựu uống, bữa nay nó mới mạnh đó đa.
– Tôi không hay bà Cai đuổi anh. Tôi xuống thình lình, tôi thấy nhà trên đã dỡ tan tành, tôi hỏi chị Hai chỉ nói tôi mới hay. Lúc này anh đương nguy, anh để số bạc đó mà dùng. Không hại gì đâu, chừng nào anh khá rồi anh sẽ trả, bây giờ tôi cũng gởi cho chủ tôi, chớ tôi có cần dùng làm việc gì đâu.
– Em nói như vậy qua rất cám ơn. Qua mới bán một thiên rưỡi lúa được 90 đồng bạc, qua có tiền, nên qua muốn trả dứt cho rồi, đặng đi cho k hỏi dính dấp chỗ nào hết.
– Người ta kia, chớ tôi với anh mà anh ái ngại nỗi gì. Anh trả cho tôi thì tôi phiền lắm. Thôi, anh cất giùm đó cho tôi, chừng nào tôi cần dùng, tôi sẽ lên tôi lấy.
– Trời ơi! Bây giờ qua có sẵn tiền, qua trả, em không chịu lấy, qua biết làm sao?
– Tôi nói không hại gì mà, anh đừng e ngại. Chừng nào anh giàu rồi anh sẽ trả.
Thị Tố thấy thằng Cu thiệt tình thì chị ta cũng tiếp với nó khuyên chồng thôi để cất 20 đồng bạc đó giùm nó, chừng nào nó cần dùng nó hỏi rồi sẽ trả.
Thằng Cu không nói chuyện chi lạ, nhưng mà nó chà lết ở chơi cho đến trống nhà việc canh ba rồi nó mới chịu về.
Qua ngày sau, Cai tuần Bưởi đi cùng xóm mà hỏi, song không có một người nào chịu mua nhà của anh hết. Anh ta tới nhà nào coi ý người ta cũng thương mến, nhưng chẳng hề có người nào dám mở miệng trách bà Cai hoặc vợ chồng cậu Hai Nghĩa. Anh ta buồn thảm, về than với vợ rồi mướn xe bò thủng thẳng chở đồ đạc cây lá mà đem hết lên làng Bình Phú Tây.
Thị Tố dắt sắp nhỏ với mẹ con con Lựu đã đi trước rồi, Cai tuần Bưởi đợi xe chở hết đồ đạc sẽ đi sau. Cái xe chuyến chót, Cai tuần Bưởi đi theo. Khi ra khỏi xóm anh ta gặp thằng Cu thì nói rằng:
– Thôi, em ở dưới này mạnh giỏi, nhé.
– Tôi nghe nói bữa nay anh đi, nên tôi xin phép chủ tôi đặng đưa anh lên trển cho biết chỗ anh ở, sau có nhớ thì lên thăm anh chơi.
Cai tuần Bưởi cảm động quá, song anh ta không nói chi hết cứ ngó xuống đất mà đi. Thằng Cu đi theo nó cũng lặng thinh không biết chuyện chi mà nói. Cai tuần Bưởi đi một khúc xa rồi, anh ta đứng lại ngó về xóm Đập Ông Canh, hai hàng nước mắt rưng rưng mà nói: “Sinh đẻ tại đó, từ nhỏ chí lớn tại đó, mồ mả cha mẹ cũng còn ở tại đó; thế mà phải thắt ruột bỏ đi như vầy thì thiệt đứt ruột bầm gan”.
Thằng Cu nghe lời than như vậy thì xúc động trong lòng, song nó không biết lấy tiếng chi mà khuyên giải, nên lặng thinh một hồi rồi lại nói: “Phận mình nghèo hèn thì phải chịu vậy, chớ biết làm sao bây giờ! Anh đi mà có vợ con em út, tôi ở nhà trơ trọi một mình, nghĩ thiệt buồn chớ anh!”
Cai tuần Bưởi không muốn ở chung chạ, nên chở đồ về Bình Phú Tây rồi mướn người làm phụ mà cất nhà liền.Trong mười bữa đã thấy một căn nhà lá ba gian ở phía sau nhà của Ba Rạng, day cửa ra ruộng.
Ba Rạng muốn kiếm mướn dùm vài dây ruộng cho anh rể làm, ngặt vì hỏi trễ, ruộng chỗ nào người ta cũng cho mướn rồi hết, nên anh ta mướn không được. Anh ta sợ anh rể buồn, mới tính nhín để bớt một dây ruộng của mình làm xưa nay đó cho anh rể làm. Cai tuần Bưởi không muốn em út vì mình mà phải thiệt hại trong sự làm ăn, nên anh ta không chịu, nói rằng như lỡ mùa rồi thì đi đâu làm mướn đỡ một năm, chờ mùa tới rồi sẽ tính.
Cai tuần Bưởi dọn dẹp nhà cửa cho vợ con ở yên rồi, mới tuốt vô chợ Giồng Ông Huê kiếm chỗ ở mướn chèo ghe lúa. Ông Ba Thơ là người chuyên nghề mua lúa xay ra gạo rồi chở lên Chợ Lớn mà bán. Nhà ông có hai ghe cui để chở lúa gạo. Vì Cai tuần Bưởi đã đi ghe cho lái ở Ụ Giữa, bởi vậy tài công của Ba Thơ biết mặt, nên anh ta vô xin ở đi ghe thì người ta mướn liền.
Cai tuần Bưởi đi ghe lãnh tiền từng chuyến, chớ không phải lãnh tháng. Mỗi chuyến chừng bốn bữa, lãnh được một đồng hai cắc. Chuyến nào cũng vậy, hễ ghe về tới lãnh tiền rồi thì tuốt về Bình Phú Tây mà thăm nhà và đưa tiền cho vợ.
Anh ta đi được bốn năm chuyến rồi. Có một lần nọ, lối giữa tháng ba, ghe gạo lên tới xóm củi mới ba giờ chiều, chủ ghe đi chịu giá xong rồi, song tào khậu biểu sáng bữa sau mới cân gạo. Buổi chiều ấy bạn ở không, nên ăn cơm rồi Cai tuần Bưởi mới đi với hai người bạn qua Chợ Lớn chơi.
Qua cầu Chà Và rồi dắt nhau lại coi xe lửa. Nhà quê ra chợ thấy cái gì cũng ngó hết thảy, ngó xe kéo, ngó xe mui, ngó chệt gánh hàng, ngó đủ thứ. Coi xe lửa đã rồi, ba người mới đi lần lên đường Quảng Tống Cái.
Lúc ấy trong Nam chưa có xe hơi nhiều như bây giờ, mà có cái nào thì chỉ chạy Sài Gòn – Chợ Lớn chớ dưới mấy tỉnh không có đường, nên không chạy được. Cai tuần Bưởi với hai người bạn kia thuở nay chưa thấy xe hơi làm sao, mà cũng chưa ai nghe nói tới vật ấy. Ba người đi trên đường Quãng Tống Cái, thình lình thấy cái xe hơi đậu dựa lề, trên có người trai đương hút thuốc. Ba người chưa biết xe gì mà hình dáng coi kỳ cục quá nên xúm lại đứng chung quanh mà coi, rồi cãi lẫy với nhau, người thì nói chừng muốn chạy thì người ta sẽ bắt kế ngựa vô, kẻ lại nói có lẽ người ta chạy bằng máy, chớ có chỗ nào đâu bắt ngựa cho được.
Ba người trầm trồ cải cộ với nhau một hồi rồi Cai tuần Bưởi bước lại hỏi người trên xe rằng:
– Chú nè, không biết xe gì mà kỳ cục vậy chú hả? Làm sao mà chạy?
Người ngồi trên xe day lại ngó trân trân, rồi mở cửa xe hơi leo xuống vừa nói rằng:
– Ủa! Anh Hai! Anh đi đâu trên này?
Cai tuần Bưởi chưng hửng đứng nhìn người ấy rồi cũng nói:
– Ủa! Cam! Cha chả! Mấy năm nay mầy làm giống gì ở đâu? Mà biệt tăm biệt tích vậy hử?
Thiệt người này là Ba Cam, em ruột của Cai tuần Bưởi. Ba Cam mặc bộ đồ tây kaki, đầu đội kết đen, chân đi giày cao su trắng. Anh ta lấy kết cầm trong tay cười ngỏn nghẻn mà đáp:
– Mấy năm nay tôi ở trên này chớ đâu.Tôi cầm bánh xe hơi cho ông thầy kiện Tô Lê ngoài Sài Gòn. Anh đi đâu lên trên này?
– Ờ, tao đi ghe gạo.
– Ghe gạo của ai?
– Của Ba Thơ trong chợ Giồng.
– Anh chèo ghe mướn hay sao? Sao anh không làm ruộng nữa?
– Ôi! Thôi, đừng có hỏi. Ruộng đâu mà làm! Bà Cai bả giận tao, bả lấy ruộng lại rồi bả còn đuổi không cho ở trong đất. Tao giở nhà về trên Bình Phú Tây từ hôm tháng giêng tới nay.
– Anh về theo bên chị Hai phải không?
– Ừ, tao cất nhà ở chỗ nhà thằng Ba Rạng.
– Ngang ngã ba ra chợ Dinh đó phải không?
– Phải đa.
– Năm nay anh được mấy đứa con vậy anh Hai?
– Năm đứa.
– Dữ không! Hồi tôi trốn đi thì anh có một đứa, với chị Hai đương có chửa, mà bây giờ anh tới năm đứa lận. Còn con Lựu năm nay chắc nó lớn đại, anh gã nó lấy chồng hay chưa?
Cai tuần Bưởi nghe hỏi tới câu đó thì ú ớ không biết sao mà trả lời, nên nói bướng một tiếng “chưa” nhỏ nhỏ, rồi day lại ngó hai người bạn đi theo đó mà nói rằng:
– Thằng này em ruột tôi.
Ba Cam thò trong túi móc ra một gói thuốc lá, rồi đưa cho mỗi người một điếu và hỏi rằng:
– Anh năm nay khá không anh Hai?
– Khá giống gì! Phải khá thì tao khỏi đi ghe. Mùa rồi dư được một thiên mấy lúa, kế bị dời nhà dời cửa tốn hao lung quá, còn khá giống gì được. Mấy năm nay mầy đi vậy mà có kiếm vợ con gì hay chưa?
– Chưa.Tôi không thèm cưới vợ. Có vợ có con cực lắm. Ở một mình làm có nhiều ăn nhiều, có ít ăn ít cho sướng thân.
– Sao mầy lọt lên trên nầy vậy, tao cứ tưởng đâu mầy còn ở dưới Gò Công chớ.
– Hồi tôi mới đi thì tôi xuống Gò Công.Tôi ở được chừng một tháng rồi tôi tuốt lên Chợ Lớn. Ban đầu tôi ở giữ ngựa cho họ. Sao tôi nghe ông thầy kiện, là ông chủ tôi làm bây giờ đó, ông nuôi ngựa đua ông cần mướn một đứa săn sóc ngựa. Tôi xin ở, hồi năm ngoái ổng muốn sắm xe hơi, ổng cho tôi xuống hãng xe cầm bánh. Tôi học ba thánh thành thuộc rồi, ổng mới mua xe đặng tôi đi cho ổng.
– Té ra cái này kêu là xe hơi hay sao?
– Phải. Xe hơi.
– Bất nhân dữ hôn! Không có ngựa, không có gì hết, rồi làm sao mà chạy được?
– Có máy chứ. Cái đầu máy nè.
– Ba Cam vừa nói vừa mở ca- bô lên đặng bày dàn máy cho anh coi. Cai tuần Bưởi ngoắc hai người kia lại mà nói rằng:
– Đó thấy chưa? Hồi nãy tôi nói có máy mà hai người cứ cãi hoài… Ủa! Mà cũng kỳ chứ! Máy ở phía sau nó đẩy xe chạy mới phải, chớ để trước đầu rồi làm sao há?
Ba Cam cười mà nói:
– Để đâu chạy lại không được, ăn thua tại ạp- la- cam, với đíp- răn- xên, làm cho rút mấy bánh phải lăn, chớ phải là đẩy đâu.
– Đâu mày cắt nghĩa tao nghe thử coi.
– Anh không thạo máy móc, cắt nghĩa anh hiểu sao nổi.
– Ậy, mày nói tao nghe thử coi.
– Đây nè, hễ mình quay một cái thì điền khí trong ma- nhê- tô đây đó xẹt qua bu- ri. Dầu xăng bên này phà qua, gặp điển khí nó nổ, làm cho bốn bít tông ở trong phải trồi lên sụt xuống. Hễ mình đạp ga cho xăng nhiều thì xe chạy mau còn mình thôi đạp, thì tắt máy. Mấy anh hiểu chưa?
– Hiểu, hiểu rồi, mà điều không biết tại làm sao cái máy ở phía trước mà cai xe chạy được.
– Trời ơi, vậy mà anh nói biết chớ. Thôi chỉ cho anh coi chơi một chút vậy thôi. Việc máy móc khó lắm, anh hiểu không nổi đâu. Anh lên đây rồi chừng nào về? Tôi muốn dắt anh ra ngoài chỗ tôi quá.
– Thôi, để khi khác. Tao đi chơi một lát rồi xuống ghe nghĩ đặng sáng mai cất gạo lên cho sớm. Tối tao phải canh ghe với người ta., bỏ đi chơi sao được. Hễ mai cất gạo lên rồi thì lui ghe liền.
Ba Cam bỏ cái ca- bô xuống mà gài lại. Lúc ấy có một người Tây và một người khách trú ở trong tiệm bước ra. Ba Cam nói:
– “Ông chủ tôi ra kìa”.
Bưởi với hai người kia lật đật dang ra. Ba Cam móc túi lấy hai đồng bạc mà đưa cho Bưởi và nói rằng: “Thôi anh về mạnh giỏi anh Hai. Đây, anh lấy vài đồng bạc đây mà mua bánh đem về cho sắp nhỏ. Không biết chừng ít ngày nữa tôi xin phép về thăm. Anh nói giùm tôi gởi lời thăm chị Hai và con Lựu nhớ nha anh”.
Ông thầy kiện nắm cánh cửa muốn bước lên xe, kế ổng thấy Ba Cam nói lăng líu với Bưởi thì, ổng ngừng lại ổng ngó rồi ổng nói tiếng tây giống gì đó với Ba Cam không biết. Ba Cam cũng nói tiếng tây với ổng, rồi ổng ngó Bưởi ổng cười và lên xe mà ngồi với người khách trú. Ba Cam quay vài cái, máy kêu rồ rồ, rồi cái xe rút chạy, bóp kèn nghe te te, người đi đường bèn vẹt ra hai bên lề để tránh. Cai tuần Bưởi với hai người trân trân ngó sững, coi bộ như người trên cung trăng rớt xuống?
Cai tuần Bưởi đi chuyến ghe đó về thuật chuyện gặp Ba Cam cho vợ nghe và khoe mình được thấy chiếc xe hơi là một thứ xe lạ lùng thuở nay ở miệt Nam chưa có, Thị Tố hỏi:
– Mình gặp nó mà mình có hỏi thăm coi năm nay nó làm ăn có khá hay không?
– Cha chả! Tôi quên hỏi. Gặp nhau mắc nói chuyện này chuyện kia lăng xăng, ai nhớ cho hết được. Mà coi bộ nó khá lắm. Có đi giày, bận đồ Tây, coi tử tế lắm. Nó nói tiếng Tây cũng sõi nữa.
– Chà! Biết nói tiếng Tây nữa?
– Nó trâm với ông thầy Kiện nghe khoái quá. Nó nói bữa nào nó về thăm. Không biết nó nói thật hay nói dóc.
– Trời ơi! Nó tưởng mình còn ở dưới Đập Ông Canh, nó về đó rồi biết đâu mà kiếm.
– Tôi có nói mà. Tôi có chỉ chỗ mình ở. Nó nói biết.Bây giờ nó hẳn hòi lắm, chớ không phải như hồi nó còn nhỏ vậy đâu. Để nó về đây rồi mình coi… Nó có hỏi thăm con Lựu nữa. Nó hỏi tôi vậy chớ gã con Lựu lấy chồng hay chưa, tôi ngẩn ngơ không biết sao mà nói.
Con Lựu lúc này đã thiệt mạnh, da mặt ửng đỏ, gò má vun vun, chớ không phải mét mét như hồi sinh dậy nữa. Nó nghe anh Hai nó nói anh ba nó hỏi thăm nó có chồng hay chưa, thì nó buồn tủi phận nó, nên nó hỏi rằng:
– Anh có thuật chuyện nhà cho anh Ba nghe hay không?
– Không. Gặp nó có một chút mà nói giống gì được. Đã vậy lại mắc có hai người bạn đi chơi với tao họ đứng bên đó, làm sao mà nói.
– Hồi tôi còn nhỏ ảnh thương tôi lung lắm. Nếu ảnh về ảnh thấy tôi có con đố khỏi ảnh rầy tôi chết. Anh thấy bộ ảnh còn hung hăng, ham gây gỗ như hồi trước hay không anh Hai.
– Không mà. Bây giờ nó tề chỉnh ăn nói êm ả, dễ thương lắm mà.
– Nếu vậy thì bỏ xứ mà đi cũng có chỗ hữu ích chớ!
– Ích giống gì. Ở dưới này nó ở đợ, lên trển nó cũng ở đợ vậy chớ gì đó mà hữu ích.
– Mà lên trển ảnh sung sướng hơn.
– Phải. Ở trển coi bộ ảnh sung sướng hơn ở dưới này, mà xét cho kỹ thì cũng là ở đợ hết.
Con Lựu cười rồi bồng con đi dỗ ngủ, không cải nữa.
Một buổi chiều, ăn cơm rồi, Thị Tố thấy trời thanh bạch mới đem năm đứa con, đứa bồng đứa dắt, đi ra lộ mà chơi để mẹ con con Lựu ở nhà coi nhà. Chị ta đương ngồi mé lộ mà ngó mông, thấy một chiếc xe hai bánh ở dưới Gò Công bỗng chạy lên, trên xe có một người bận đồ trắng ngồi với thằng đánh xe. Chừng xe chạy gần tới chị ta coi rõ mới biết người mặc đồ trắng đó là đồ Tây. Chị ta lật đật kéo sắp nhỏ leo lên lề. Lúc ấy xe chạy tới, người ngồi trên xe la lớn rằng:
– Chị Hai. Ngừng lại, ngừng lại. Nhà đâu chị Hai?
Thị Tố chưng hửng nhìn lại kỹ càng mới biết người ấy là Ba Cam. Chị ta mừng quýnh vừa muốn kêu tên tộc mà xưng hô như hồi trước, rồi sực nhớ lại chồng nói Ba Cam bây giờ hẳn hòi lắm, lại thấy cách ăn mặc hẳn hòi, nên trở giọng mà la rằng:
– Ủa! Chú Ba! Nhà tôi đây nè. Chú mới về phải không?
Ba Cam nhảy xuống xe, chị em mừng rỡ lăng líu một hồi rồ Ba Cam trả tiền xe, ôm gói đồ mà đi vô nhà. Đi tới cửa Ba Rạng, Thị Tố kêu em ruột mà cho hay có em chồng về.Ba Rạng chạy ra chào mừng rồi dắt nhau đi xuống hết nhà Cai tuần Bưởi.
Con Lựu đương lui hui trong nhà, nghe tiếng nói chộn rộn lật đật bồng con bước ra, ngó thấy Ba Cam thì mừng hơn thẹn nên la lên hai tiếng “anh Ba”rồi đứng chần ngần, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng. Ba Cam thấy Lựu bồng con, mà tưởng là con của Bưởi nên không để ý mà hỏi. Anh ta bước vô nhà, không thấy Bưởi bèn hỏi rằng:
– Anh Hai đi đâu?
Thị Tố đáp ngay:
– Đi ghe mấy tháng nay, có ở nhà đâu.
– Tháng này mà ảnh còn đi ghe hay sao? Vậy mà tôi tưởng ảnh có ở nhà nên tôi xin phép về chơi.
– Ghe lui hôm kia. Mai mốt thì về a. Chú xin phép về chơi mấy bữa?
– Ông chủ tôi đi Cấp hứng gió. Ổng đi tàu, để xe ở nhà nên tôi xin phép về chơi.
– Ờ được mà. Nếu chú ở chơi lâu thì chắc là cha bầy trẻ về kịp. Dữ quá! Chú đi năm năm hay sáu năm mới về đa.
– Sáu năm.
– Ờ! Hồi đó chú đi tôi mới có mình con Sen phải không?
– Phải. Con Sen năm nay được bao lớn đâu? Chị kêu hết mấy cháu ra đây cho tôi coi thử.
Thị Tố liền kêu con Sen, thằng Chà, con Nữ, thằng Mùi ra đứng sắp hàng, còn thằng Thân thì chị bồng trên cánh tay. Ba Cam bước lại vỗ đầu Sen mà nói rằng:
– Con Sen đây phải không? Năm nay nó trộng đến. Hồi tôi trốn thì nó mới biết đi lẩm bẩm.
Anh ta thò tay vô túi móc bạc cắc ra mà phát cho mỗi đứa một cắc. Con Sen, thằng Chà, con Mùi cứ xoè bàn tay ra mà lấy, duy con Nữ nó thấy lạ nó sợ, nên đứng nép bên mình mẹ nó, nó thụt tay hoài. Thằng Thân cũng sợ, nên nó ôm chặt lấy mẹ nó mà day mặt chỗ khác.
Ba Cam cười và hỏi:
– Chị có năm đứa đây còn con Lựu bồng con ai kia nữa?
Con Lựu cúi mặt xuống. Thị Tố rước mà đáp rằng:
– Con của nó chứ con ai.
– Hứ! Nó có con rồi hay sao? Vậy mà hôm trước anh Hai nói chưa có chồng?
– Chồng nó là chồng mồng, chớ chồng gì.
– Sao vậy?
– Ối, chuyện dài lắm, để thủng thẳng rồi tôi kể vắn tắt cho chú nghe. Ở trển về tới dưới này chắc là chú đói bụng, để tôi nấu cơm cho chú ăn.
– Đừng, chị Hai.Tôi ăn rồi. Tàu về tới Gò Công tôi đói, tôi ghé tiệm Cao Lầu ních no rồi mới mướn xe về đây. Tôi có mua hai gói bánh đây nữa, để tôi lấy cho mấy cháu ăn.
– Mấy năm nay chú đi lên trển làm ăn, vậy mà khá không chú Ba?
– Cũng không khá gì. Tôi làm thì có tiền nhiều. Mà ở đất Sài Gòn là chỗ ăn xài, nên làm ra bao nhiêu cũng tuốt lơ hết.
– Nghe anh Hai nói chú coi máy thứ xe gì đó lạ lùng lắm, phải không?
– Phải, tôi làm xốp phơ xe hơi.
– À, xe hơi.Tôi thuở nay chưa thấy xe đó.
– Chú coi máy rồi chú ăn tiền làm sao?
– Chủ tôi cho tôi một tháng bốn chục.
– Bốn chục gì?
– Bốn chục đồng chứ bốn chục gì.
– Dữ không! Chú làm một tháng bằng người dưới này làm một năm lận sao!
– Ông thầy Kiện chủ tôi đó tử tế lắm. Áo quần, giày nón ổng mua cho tôi hết thảy. Ông hứa đầu năm Tây ổng cho tôi ăn lương mỗi tháng năm đồng. Tôi xin phép về nhà đây ổng cho tôi 20 chục bạc.
Thị Tố nghe nói thì trố mắt nhìn, la lên rằng:
– Trời ơi! Chú sướng quá chừng. Đi ra mà được như vậy thì đòi giống gì nữa. Vậy mà hôm trước đây cha sắp nhỏ nó khinh khi chú chớ.
Ba Cam cười mà vội hỏi:
– Anh khinh khi cái gì?
– Hôm trước ảnh về thuật chuyện gặp chú. Anh nói chú coi xe hơi, ăn mặc coi tử tế. Con Lựu nó mừng, nó nói chú bỏ xứ mà đi, may được sung sướng như vậy, thì đi có ích hơn là ở nhà. Cha sắp nhỏ nó rầy, hỏi có ích gì đâu, ở dưới này chú cũng ở đợ chớ giỏi gì.
– Ối! Anh đó hơi nào mà nói với ảnh. Năm tối cứ lục đục ở xứ Gò Công, mà rồi chê thiên hạ hết thẩy. Hễ nghe nói ai hơn ảnh thì ảnh ghét, rồi kiếm chuyện hại người ta. Anh giỏi có cái tài đó hoài, đến năm nay mà chưa chịu bỏ chớ.
Thị Tố với Ba Rạng cười rồi bỏ nói qua chuyện khác. Mắc nói chuyện rộn ràng, trời tối mà không hay. Con Lựu đốt đèn đem để trên ghế, còn Ba Cam thì thay đồ tây ra, rồi bận quần lãnh đen, áo bà ba trắng nằm nghỉ. Sắp nhỏ đứa khóc đứa la om sòm làm con Lựu phải phụ với chị dâu mà dỗ chúng nó ngủ mới êm được.
Ba Cam nằm chơi với Ba Rạng trên ván, chừng thấy Thị Tố rảnh rỗi bước ra ăn trầu, anh ta mới hỏi:
– Hồi chiều chị nói chuyện chồng con Lựu sao đó, đâu chị nói coi thử coi, chị Hai.
Thị Tố ngồi dựa gốc ván rồi thì thầm kể lại đầu đuôi câu chuyện cậu Hai Nghĩa ỷ thế chủ điền hiếp dọa lấy con Lựu làm sao, chừng con Lựu đẻ cho cậu hay, cậu nói làm sao, con Lựu đau xin tiền cậu, cậu nạt nộ làm sao, giận nói với mợ, mợ ghen làm sao, bà Cai sợ xấu nên biểu làng bắt làm sao, chừng đóng lúa ruộng rồi vợ chồng cậu Hai xua đuổi làm sao, qua hỏi đất Thôn Tá mà ở, Bà Cai rầy Thôn Tá làm sao, chị ta thuật rõ ràng không sót một mẩy nào hết.
Ba Cam nghe rồi chau mày hỏi:
– Quân ăn ở mọi rợ như vậy đó, mà anh Hai không dám nói tiếng gì hết hay sao?
– Trời ơi! Bộ chú tưởng đâu dễ lắm hay sao? Tôi nóng giận tôi làm cho nó mang tiếng một chút thôi mà nó làm dữ quá. Tôi tưởng đâu nó làm tôi ở tù rồi chớ, cha sắp nhỏ lạy gần sói trán mà nó cũng không chịu tha. May nhờ Hương Quản năn nỉ xin dùm, nên nó tha giải Toà, mà nó bắt đóng trăng tôi hết bảy bữa.
– Tôi nghe nói sao tôi giận quá, tôi phải trừng trị nó mới được.
Ba Rạng xen vô nói:
– Tôi không hay việc gì hết.Chừng bà Cai đuổi phải dở nhà đi, ảnh lên thuật chuyện cho tôi nghe, thì tôi nổi xung. Giàu có rồi họ ỷ thế, họ hiếp đáp người ta quá. Hễ mình cự thì mình ngồi tù, túng thế phải chịu thua. Mà nín thì nó tức muốn chết. Khá, xưa rày về trên này ở, thì tụi nó không dám kiếm chuyện gì nữa. Chớ phải mà anh ở dưới, chắc nó hại anh rồi.
Ba Cam trợn mắt nói:
– Hại sao được! Nó giàu sang thây kệ nó chớ. Anh Hai tôi ảnh nhịn, chớ tôi nhịn không được rồi.
Thị Tố nói rằng:
– Chuyện này tôi hiểu hết. Cậu Hai Nghĩa thương con Lựu chớ không phải không. Ngặt vì mợ Hai ghen, mợ rầy quá, nên cậu Hai không dám nhìn con. Bà Cai sợ dâu con rầy rà xấu hổ nên bà lấy ruộng lại rồi đuổi vợ chồng tôi đi cho biệt tích. Chuyện vậy đó, chớ không có chi lạ.
Ba Rạng nói:
– Nếu sợ vợ thì ai biểu làm như vậy mà chi?
Ba Cam ngồi suy nghĩ một hồi rồi nói rằng:
– Thằng Nghĩa này, tôi phải dạy nó một bài học ở đời mới được. Chị nói bữa nào anh Hai về, chị Hai?
– Chắc là chiều mốt về tới.
– Để ảnh về tôi cự ảnh coi coi. Ảnh lôi thôi quá! Ở đời mình hiền quá, họ khinh mình chớ.
– Cha sắp nhỏ nó thiệt thà lắm. Chầu xưa tôi nói chơi; tôi nói tôi biểu con Lựu bồng con lên níu cậu Nghĩa coi cậu làm sao. Cha sắp nhỏ rầy la tôi dữ quá.
Ba Cam nằm vắt tay qua trán, mắt nhắm lim dim. Ba Rạng thấy canh đã khuya rồi nên đi về mà ngũ.
Sáng bữa sau, Thị Tố giao sắp nhỏ ở nhà cho con Lựu coi đặng chị ta đi chợ Giồng Ông Huê, trước là mua cá thịt đãi khách, sau nữa ghé nhắn cho chồng hay, đặng hễ ghe về tới bến thì xin phép về nhà liền.
Ba Cam đi đường mỏi mệt nên ngủ trưa một chút. Chừng anh ta thức dậy, thấy con Lựu lăng xăng với xấp nhỏ, anh ta ngồi ngó ra một hồi rồi kêu mà nói:
– Lựu, đâu mày bồng con mày lại đây coi. Con trai hay con gái đó? Được mấy tháng?
Con Lựu thủng thẳng bồng con đi lại chỗ Ba Cam ngồi, vừa đi vừa nói nhỏ nhỏ:
– Con trai, bữa nay gần sáu tháng.
Ba Cam sờ đầu thằng nhỏ rồi nắm chân nó mà nói rằng:
– Thằng nhỏ sổ sữa đến. Đặt tên gì?
– Thằng Hai.
Ba Cam chau mày lặng thinh một hồi rồi nói:
– Thôi con mày đẻ thì mày nuôi, cần gì phải cầu ai. Mày nuôi nó, không biết chừng ngày sau mày nhờ nó được. Hồi hôm tao nghe chị Hai nói chuyện thiệt tao buồn quá. Trong ba anh em có mình mày là gái, nên tao thương mày lung lắm. Ngày tao bước chân ra đi, tao tưởng anh Hai ở nhà nuôi mày khôn lớn rồi kiếm người thiệt thà mà định đôi bạn cho mày. Tao không dè ảnh để mày tàn tệ như vậy. Thiệt tao phiền ảnh quá, đã biết họ giàu họ có danh giá, mình nghèo mình cũng có danh giá vậy chớ. Để mất danh giá rồi ai coi mình ra gì nữa đâu. Một đêm hồi hôm tao tức quá ngủ không được. Tao chắc phải mà tao ở nhà hồi đó, thì thằng làm mất danh giá mày đó nó không khỏi tay tao…
Ba Cam nói tới đó thì ứa nước mắt, mặt lại lộ sắc giận dữ. Con Lựu đứng cúi mặt khóc nức nở không nói một tiếng gì hết. Cách một hồi lâu, Ba Cam thở dài và hỏi một cách rất dịu ngọt:
– Em còn thương thằng đó nữa không?
– Em có thương hồi nào đâu mà anh hỏi còn hay hết.
– Nếu em không thương mà sao có con?
– Nó ỷ quyền thế hảm hiếp em chị Hai với anh Hai còn sợ, em làm sao mà dám nói.
– Em biết nó thương em hay không?
– Quân đó mà thương ai.
– Không biết chừng nó thương em thiệt chớ, mà mắc vợ nó rầy rà, nó sợ nên nó không dám gần em nữa.
– Không có đâu. Dầu mà nó không có vợ đi nữa, nó lại đem em về làm vợ hay sao? Em biết nó chơi qua đường, chớ không tình nghĩa chi hết. Em biết trong làng có nhiều con gái cũng bị nó hãm hiếp như em vậy. May cho mấy đứa kia không có chửa nên thiên hạ không hay.
– Nói vậy nó là con quỷ, trời sanh ra đặng phá danh giá con gái hay sao?
– Vậy đa.
– Hứ! Đồ khốn nạn quá! Qua phải trừ nó mới được.
– Thôi anh Ba. Anh giận nó mà làm gì. Nó làm quấy thì có trời đất hại nó, mình thù oán thì mang tội thêm có ích gì. Tại phận em vô duyên bạc phước thì em đành chịu, em phiền em, chớ em không dám trách ai hết. Nằm đêm em cứ vái trời phật phù hộ cho thằng Hai mạnh giỏi, khiến cho nó thương yêu thân em, đặng chừng nó khôn lớn nó làm mà nuôi em là đủ rồi, em không mong ước việc chi khác.
– Hồi hôm chị Hai nói em đẻ em đau, tiền đâu em uống thuốc nên mạnh đó?
– Lúc đó anh Hai túng quá. Ông thầy Hoằng biểu đưa 20 mươi đồng bạc đặng ổng làm một tễ thuốc cho em uống.Anh Hai không có tiền, may nhờ có anh Cu ảnh cho mượn tiền nên em mới có thuốc mà uống.
– Anh Cu nào?
– Bạn của ông Cả Tri trên xóm trên ấy.
– Người ta cho mình mượn rồi tiền đâu em trả. Em trả hay chưa?
– Chưa, hôm dọn nhà về trên này, anh Hai muốn trả, mà anh Cu không chịu lấy, nên còn thiều đó.
– Thôi để qua cho tiền đặng trả cho người ta.
Ba Cam ở tại nhà Cai tuần Bưởi hai ngày, khi thì qua nhà Ba Rạng nói chuyện chơi, khi thì trửng giỡn với sắp cháu, coi bộ thì là vui mừng mà cái vui mừng ấy, có xen cái buồn rầu, nên sắc mặt không được tươi tắn như hồi mới về vậy.
Đến đêm thứ ba, Cai tuần Bưởi mới về, anh em gặp nhau mừng mừng rỡ rỡ hỏi việc này, nhắc việc nọ, tiếng nói nghe không dứt. Ba Rạng cũng hiệp lại đó nữa đặng đàm đạo chơi. Đến khuya anh ta kêu vợ bắt con gà mái ôm qua rồi phụ với Thị Tố và con Lựu làm gà nấu cháo ăn với nhau.
Trong lúc ăn cháo, Ba Cam giở chuyện con Lựu ra mà trách anh ở nhà sao không biết giữ danh giá cho em, người ta hãm hiếp em, sao không biết giận lại còn đi quỳ lạy người ta.Vợ chồng Ba Rạng với Thị Tố đều cho lời Cam trách đó là phải, bởi vậy Cai tuần Bưởi bối rối nói ấp úng:
– Mình ng… h… èo thì phải nhịn người ta chớ biết làm sao.Năm trước tao thấy thằng Cu thiệt thà mềm mỏng tao thương, tao muốn gã con Lựu cho nó. Ngặt vì nó nói nó cnò mắc nợ, nó chưa dám cưới vợ. Kế tao đi ghe, ở nhà cậu Hai cậu làm như vậy, tao có hay gì đâu. Chừng tao hay thì bụng đã thè lè rồi. Tao nghĩ làm dữ thì chúng lấy ruộng lại rồi cụt tay còn gì. Chuyện đã lỡ rồi, thôi thì chèo xuôi cho nó mát mái. Ai dè chị Hai mày nó lộn xộn nên mới sanh chuyện tùm lum đó chớ.
Ba Cam cười gằn mà đáp:
– Người ta làm nhục mình đến thế, mà anh nói nghe êm ru. Thiệt tôi tức lắm – anh ta móc bóp lấy ra 40 mươi đồng bạc mà đưa cho Cai tuần Bưởi và nói rằng:
– Đây, 40 mươi dồng bạc đây. Anh cầm lấy 20 mươi đồng trả tiền con Lựu uống thuốc, còn lại 20 thì tôi cho con Lựu 10 đồng, sắp nhỏ của anh 10 đồng đặng nó sắm quần áo nó bận. – anh ta day qua nói với con Lựu – Em Lựu, anh Hai dở lắm, ảnh không dám binh vực em. Tuy vậy mà em đừng lo. Từ nay trở đi có qua. Qua thề có mặt đèn làm chứng qua sẽ bảo vệ thân em đến cùng, qua quyết cách tìm cách rửa nhục cho em, rồi qua về trển qua liệu thế đem em lên Sài Gòn ở với qua.
Thị Tố, con Lựu với vợ chồng Ba Rạng nghe mấy lời cứng cỏi và nhân đạo ấy thảy đều cảm động. Cai tuần Bưởi biết mình không trọn đạo làm anh, nên ngồi nín thinh, không nói chi hết. Qua ngày sau, Ba Cam thức dậy sớm, thay đồ tây, rồi nói với Bưởi rằng mình đi chợ Giồng chơi, không biết chừng chiều mới về. Chừng đi qua cửa Ba Rạng.Rạng kêu hỏi đi đâu. Cam bước vô hỏi rằng:
– Tôi đi xuống nhà bà Cai Hiếu kiếm thằng Nghĩa, đặng xài cho nó biết chừng. Tôi giấu anh Hai tôi. Vậy anh đừng có cho ảnh hay nhé. Có nó ở nhà đâu mà đi. Tôi mới thấy nó cởi ngựa chạy trên lộ dây thép đây. Nó đi vô chợ Giồng chắc?
– Nó cưỡi ngựa gì?
– Ngựa kim. Đi đâu cũng thấy cưỡi con ngựa đó hoài.
– Bận áo gì?
– Hồi nãy tôi thấy bận quần trắng, áo dài đen, đội nón lông đen.
Ba Cam đứng ngẫm nghĩ một hồi rồi nói:
– Để tôi đi theo vô chợ Giồng tôi kiếm nó.
Rạng cản không cho đi, nói rồi vô đó rồi biết nó ở nhà nào mà kiếm, chi bằng ở nhà chơi một chút đợi trưa trưa rồi ra ngồi ở dựa lộ đón thì chắc gặp nó về. Cam nghe lời hữu lý, bèn vô nhà Rạng ngồi chơi đến gần chín giờ mới từ giả mà đi.
Khi Ba Cam ra gần tới lộ dây thép thì thấy phía chợ Giồng có một người bận quần trắng áo đen, đội nón đen, cỡi ngựa kim chạy ra. Anh ta chắc là cậu Hai Nghĩa, cho nên đứng chần ngần giữa lộ mà chờ. Lúc ấy là lúc thiên hạ đi chợ về, nên tốp năm người, tốp ba người gánh gánh đi xay xảy trên lộ. Còn dưới ruộng thì phía tay mặt người ta nhỗ mạ nói chuyện om sòm, phía tay trái một người đương đánh trục dọn đất cấy thả ví inh ỏi.
Con ngựa kim chạy gần tới. Ba Cam đứng giữa lộ giăng tay mà cản đường. Người ngồi trên lưng ngựa không biết có việc chi, lại thấy người cản đường bận đồ tây, nên lật đật gò ngựa đứng lại. Ba Cam nói:
– Cậu Hai, cậu mạnh giỏi cậu Hai? – Anh ta vừa nói vừa xốc lại nắm dây cương.
Cậu Hai Nghĩa không biết là ai nên chưng hửng, ngó Ba Cam trân trân. Ba Cam cười và hỏi:
– Cậu quên tôi hay sao? Mời cậu xuống ngựa cho tôi nói chuyện một chút.
– Chú là ai?
– Cậu quên tôi thiệt, hay là cậu làm bộ?
– Tôi quên thiệt chớ.
– Cậu leo xuống rồi tôi sẽ nói.
Cậu Hai Nghĩa leo xuống ngựa mà coi bô ái ngại lắm. Chừng cậu đứng xuống đất rồi, Ba Cam mới nói rằng:
– Tôi đi lâu quá nên cậu quên cũng phải. Rất đỗi mà người ta mới ăn nằm với cậu đó mà cậu còn quên thay, huống chi tôi đi hơn sáu năm, cậu nhớ sao được.
– Chú nói những gì vậy? Tôi quên thì tôi nói tôi quên chớ. Chú ở đâu chú nói tôi mới biết chớ.
– Tôi là thằng Cam… em Cai tuần Bưởi… anh Ba của con Lựu đây, cậu nhớ chưa?
Cậu Hai Nghĩa nghe mấy lời ấy thì biến sắc, cậu đứng nghẩn ngơ một chút rồi cậu hỏi rằng:
– Chú đón tôi nói chuyện gì vậy?
– Tôi muốn nói chuyện gì vậy thì cậu hiểu trước rồi mà? Cậu hỏi chi vậy?
– Thiệt chớ. Tôi có hiểu chuyện gì đâu.
– Tôi muốn mời cậu ghé nhà anh Hai tôi kia, đặng tôi nói chuyện riêng một chút.
– Chú muốn nói chuyện gì thì đi xuống nhà tôi mà nói, chớ trưa rồi, tôi phải về có việc gấp, ghé sao tiện.
– Chuyện tôi muốn nói với cậu đây, phải nói trước mặt con Lựu mới được, vì vậu nên tôi mới mời cậu ghé.
– Không được. Ghé đâu vậy cho được. Thôi chú để tôi về.
– Khoan! Về sao được.
Cậu Hai muốn lên ngựa, Ba Cam một tay nắm dây cương, một tay nắm cậu. Cậu bèn nói rằng:
– Chú muốn nói việc gì, thôi thì chú nói phứt đi, đặng tôi còn về chớ.
– Việc này mà tôi nói giữa đường sá, coi cũng kỳ.
– Có hại gì đâu?
– Cậu muốn như vậy cũng tạm được… Hai anh em tôi nghèo may có được một chút em gái nên thương nó lung lắm. Anh em tôi cũng biết xét bổn phận, nên có dám trèo leo bao giờ, vì cậu thấy con Lựu cậu thương, cậu quên đi cái phận hèn hạ của nó, thiệt anh em tôi cám ơn cậu lắm. Bởi vậy tôi ở xa chẳng nói làm chi, anh Hai chị Hai tôi ở nhà, thấy cậu tới lui với con Lựu, hay cậu chiếu cố đến nó, thì không dám nói chi hết, cậu ăn nằm với nó có một đứa con rồi. Vậy tôi xin cậu hãy xử nghĩa cho vuông tròn, cậu tính dùm coi phải làm sao, chớ cậu để như vầy con Lựu mang tiếng xấu còn thằng nhỏ không có cha, nghĩ cũng tôi nghiệp cho nó quá!
Cậu Hai Nghĩa bối rối, không biết trả lời thế nào cho xuôi. Cậu đứng ngẫm nghĩ một hồi rồi nói:
– Chú này nói nghe lạ quá… tôi đâu biết chuyện ấy?
– Hứ! Cậu lấy em tôi có chửa, rồi bây giờ cậu nói như vậy nghe sao được.
– Tôi lấy em chú hồi nào? Chú có bắt được hay không mà chú dám đặt điều ra như vậy?
– Đừng, cậu không nên nói như vậy. Cậu phải xét trong lương tâm của cậu. Cậu là con nhà sang trọng, cậu vì tình dục mà làm cho một đứa con gái phải mất trinh thất tiết, cậu không ăn năn chút nào hay sao? Mà thôi, ví dầu cậu không muốn trọng danh giá một đứa con gái hèn hạ, cậu vui chơi thỏa lòng rồi cậu bỏ nó cũng như quăng cái tàn thuốc đi nữa, còn đứa con nhỏ kia là máu thịt của cậu, cậu cũng không biết thương nữa sao? Đừng, tôi khuyên cậu chớ nói như vậy. Phải, cậu lấy em tôi, thiệt tôi không có bằng cớ gì hết.Tôi mắc đi làm ăn xa xứ, tôi có ở nhà đâu mà bắt cậu được. Anh Hai tôi ở nhà mà ảnh thiệt thà quá, ảnh sợ cái quyền thế của cậu, nên bây giờ cậu mới nói như vậy, chớ nếu tôi ở nhà thì khó cho cậu nói phách được, mà tôi e sợ cậu không còn hồn mà nói phách. Cậu phải tính làm sao, chớ đừng có chối như vậy, bậy lắm.
– Tính giống gì?
– Cậu là người sang trọng, cậu khôn ngoan hơn tôi, cậu tính thế nào cho phải là thôi, sao cậu trở lại cậu hỏi tôi?
– Chú muốn tôi cho em chú tiền phải không?
– Không có phải như vậy đâu cậu! Cậu quen cái thói nhà giàu, hễ làm việc chi bậy thì quăng tiền bạc ra mà trám miệng thiên hạ, nên cậu tưởng ai cũng ham đồng tiền của cậu hết hay sao? Cậu tưởng như vậy thì cậu lầm lắm. Anh em tôi nghèo, nhưng mà anh em tôi ham nhân nghĩa, trọng danh giá, chớ không phải mê đồng tiền dơ dáy như họ vậy đâu.
– Chớ chú muốn gì bây giờ?
– Tôi muốn cậu liệu rửa nhục cho em tôi và làm cho thằng con nó có cha như thiên hạ chớ không muốn chuyện chi hết.
– Tôi có làm nhục em chú đâu mà bây giờ chú bắt đền tôi, chú nói kỳ quá!
– Thiệt bây giờ cậu chối, cậu nói cậu không có lấy nó có con đó hay sao?
– Nó lấy thiên hạ cho có con rồi bây giờ chú biểu tôi chịu, chịu đâu mà kỳ vậy nà.
– Nghĩa! Nãy giờ ta lấy lời phải tao nói cho mày nghe. Mày đã không biết ăn năn về cái tội của mày mà mày lại còn kiếm chuyện mà nói nhục thêm cho em tao nữa. Nó lấy thiên hạ là ai đâu mày kể cho tao nghe thử coi. Mày thiệt là đứa khốn nạn, đã không có lương tâm mà cũng không biết nhân nghĩa chi hết. Tao phải trị mày một lần đặng mày chừa thói phá hư danh giá của con nhà nghèo…
Ba Cam vừa nói dứt lời liền rút con dao trong lưng ra rồi hất rớt cái nón lông và chém trên mặt cậu Hai Nghĩa hai dao, đá thêm một đá, cậu té nhào xuống ruộng.
Cậu Hai Nghĩa la làng chói lói… Mấy người nhổ mạ với người đánh trục, thấy hai đàng nói chuyện dan ca nãy giờ, không để ý đến, chừng nghe la làng mới áp nhau lại. Ba Rạng ngồi trước dắt nhau chạy ra.
Mấy người chạy tới, người thì ôm Ba Cam giựt dao, người thì đỡ cậu Hai Nghĩa mà đem lên lộ. Ba Cam thấy người ta sợ mình chém cậu Hai Nghĩa nữa nên lo đề phòng, thì anh ta đưa con dao vừa cười vừa nói:
– Tôi có thèm giết thằng này đâu mà mấy người sợ. Tôi muốn ghi trên mặt nó vài cái thẹo cho thiên hạ hễ ngó thấy thì nhớ nó là đứa chuyên đi phá danh giá của con nhà nghèo. Nếu tôi muốn giết nó thì nó chết nãy giờ rồi, mấy người tiếp cứu sao cho kịp.
Cậu Hai Nghĩa bị một vết trên trán chạy xéo qua mí con mắt bên tả, lác hết phân nữa chân mày và một vết tại chỗ gò má bên hữu làm chè hẻ một đường từ mép tai xuống tới miệng. Cậu đứng có hai người vịnh hai bên, mà cậu vẫn rung lập cập, quần áo ướt loi ngoi, đầu cổ dính bùn đất, mặt máu chảy đỏ lòm. Cậu nghe mấy lời Ba Cam nói nhục cậu trước mặt thiên hạ thì cậu lấy làm hổ thẹn song cậu không dám ngó Ba Cam, mà cũng không dám nói tiếng chi hết.
Lúc ấy Cai tuần Bưởi với Ba Rạng chạy tới, Cai tuần Bưởi thấy quang cảnh như vậy thì chắc lưởi lắc đầu nói với em rằng:
– Mày làm giống gì vậy Cam? Ở tù chết còn gì!
– Anh cứ sợ ở tù hoài! Đồ khốn nạn nó làm nhục em mình, anh nhát nên em không động đến nó. Nay tôi ra tay rửa nhục cho con Lựu, anh còn rầy tôi nữa hay sao?
– Sanh chuyện mà làm gì! Ai ăn ở bất nhân thì trời đất hại họ, mày làm dữ thì mày ở tù, chớ có ích gì đâu.
– Đợi trời đất hại, biết chừng nào mới có. Thà tôi làm phứt một cái cho nó tởn. Toà có đày đi nữa tôi cũng cam tâm.
– Mày nói hơi liều mạng hoài!
– Không phải liều mạng. Quân giàu có mà ăn ở mọi rợ quá, làm hiền với nó sao được kia.
Trong đám chạy lại tiếp cứu đó có một chức việc của làng là anh Phó lý Tạo, ảnh sai một tên dân chạy đi báo với Hương quản, rồi ảnh dắt cậu Hai Nghĩa với Ba Cam về nhà việc làng Bình Phú Tây ở gần đó, cậu Hai Nghĩa mướn một người cưởi ngựa của cậu xuống nhà cậu mà cho bà Cai với mợ Hai hay.
Bà Cai với mợ Hai Hưởng nghe tin cậu Hai bị người ta chém nặng lắm thì kinh khủng lật đật hối thằng Phùng thắng xe đặng lên Bình Phú Tây, không kịp hỏi cho rỏ ràng coi người chém đó tên gì và tại làm sao mà chém.
Khi ba với mợ bước vô nhà việc thì Hương quản đương ngồi chồm hổm tại bộ ván phía tay trái mà tra hỏi Ba Cam. Bà Thấy cậu Hai Nghĩa nằm co trên bộ ván phía mặt, quần áo ướt bàu nhàu, mặt mày máu đỏ lòm thì bà chạy a lại mà la rằng:
– Cha chả chết con tôi rồi, còn gì đâu!
Mợ Hai cũng chạy lại, rồi leo lên ván ôm cậu Hai, mà đỡ xốc ngồi dậy. Bà với mợ thấy mặt cậu có mấy vết dao chém chè hẻ, thì la khóc om sòm làm cho Hương Quản không hỏi Ba Cam được. Còn Cai tuần Bưởi, Ba Rạng với những người đến coi chơi ai cũng day lại mà ngó.
Bà Cai hỏi rằng:
– Thằng nào cả gan dám chém con tao đây! Vậy chớ làng xã ở đâu, có bắt nó chưa, hử?
Hương quản đứng dậy đáp:
– Thưa bà, làng người ta đã bắt nó rồi đây. Xin bà đừng rầy rà để cho tôi tra hỏi nó.
Bà Cai ngó Ba Cam và hỏi rằng:
– Thằng đó phải không?
– Thưa phải.
– Chú làm chức gì?
– Tôi làm Hương quản.
– Sao chú bắt phạm nhân chú không đóng gông nó lại, chú để nó đứng thong thả đó vậy hử?
– Làng tôi có gông đâu mà đóng.Thuở nay tội gì cũng đóng trăng, chớ đâu có tới đóng gông. Mà tôi đương tra hỏi, đóng trăng sao được.
Bà Cai xốc xốc đi lại rồi xỉa vào mặt Ba Cam mà hỏi:
– Mày là quân ở đâu mà mày dám chém con tao hả?
– Bà không được phép xỉ tôi.
– Tao xỉ rồi mày làm sao? Tao đánh dù trên đầu mày bây giờ.
– Bà đánh thử coi. Có chứng ông Hương quản đa nghe. Bà muốn sanh sự, chớ không phải tôi đa. Tôi có tội thì quan phạt tôi, chớ hễ bà Cai động đến tôi thì tôi không nhịn.
Hương quản sợ sinh chuyện thêm nữa, nên đứng trước mặt bà Cai và mời bà ngồi. Ba Cam nói:
– Bà đừng quen thói ăn hiếp tá điền, rồi bà tưởng ai cũng sợ bà hết. Tôi có mướn ruộng đất vay lúa vay tiền gì của bà đâu mà tôi sợ bà, nên bà ăn hiếp tôi.
Bà Cai không biết Ba Cam, lại thấy bộ cứng cỏi quá, chớ không phải như đám dân ngu trong làng, bởi vậy bà giận mà bà không dám làm dữ nữa, riu ríu đi lại bộ ván giữa mà ngồi. Mợ Hai ngồi ôm chồng, mợ nghe Ba Cam nói trả treo với bà Cai thì mợ tức giận nên mợ la lớn:
– Bây giờ Hương quản để cho quân khốn nạn đó sỉ nhục má tôi hay sao nè!
Bà Cai khoát tay nói rằng:
– Thây kệ nó. Để tao thí ít ngàn bạc, rồi coi nó có sợ tao hay không mà.
Hương quản đưa tay khuyên đừng cãi cọ nữa để bình tĩnh cho anh ta lấy lời khai đặng giải cho kịp giờ. Anh ta ngồi lại và hỏi Ba Cam:
– Hồi nãy chú khai rồi kể lộn xộn nên tôi quên hết. Đâu, chuyện sao đâu chú khai thiệt cho tôi nghe đặng tôi đặt tờ bẩm cho rành rẽ.
– Chuyện như vậy đó, chớ có chi nữa đâu. Cậu Hai Nghĩa ỷ giàu có, ỷ quyền thế cậu hãm hiếp em gái tôi là con Lựu cho tới con nọ có chửa. Chừng nó đẻ, anh Hai với chị Hai tôi là vợ chồng Cai tuần Bưởi lên cho cậu hay. Cậu làm lơ mà cậu còn sợ vợ, nên bắt chị Hai tôi đóng trăng, nói sao chị Hai tôi dám nói xấu cậu. Cậu còn lấy ruộng lại không cho anh Hai tôi mướn nữa và đuổi phải dỡ nhà mà đi. Anh Hai tôi hỏi đất chỗ khác mà ở, cậu kêu người ta mà hăm dọa, làm cho không ai dám chứa, anh Hai tôi dám bỏ làng mà đi? Tôi về nghe sự độc ác, sự dã man tôi bất bình, nên hồi sớm mai này tôi đón cậu mà nói phải trái cho cậu nghe. Cậu là con nhà quan, con nhà giàu có, tôi tưởng cậu biết điều, té ra tôi coi cậu là một thằng không có một chút lương tâm gì ráo, cậu làm quấy mà không biết ăn năn, cậu sinh ra là để phá danh giá của con gái nhà nghèo, chớ không tình nghĩa chi hết. Tôi thâý vậy nên tôi phải trừng trị cậu một lần cho cậu chừa thói hèn mạt, khốn nạn của cậu đi, đặng con gái nhà nghèo khỏi bị hư danh thất tiết nữa. Tôi ghi lên mặt cậu vài vết thương để cậu nhớ mà bỏ tật xấu, và cho thiên hạ biết mà tránh xa cậu.
– Chú có ý muốn chém cho cậu hai chết hay không?
– Không.
– Chú không có ý ấy, vậy tại sao chú ra chận đường người ta, và chú có đem dao theo nữa?
– Chém chết làm chi cho uổng. Hãy để cho cậu sống đặng cậu làm gương cho con trai nhà giàu khác nếu họ có tánh như cậu thì họ thấy vậy mà họ sợ mà chừa thói xấu đó cho con nhà nghèo nhờ chớ.
– Chú còn khai điều gì nữa hay không?
– Hết rồi.
Bà Cai với mợ Hai nghe Ba Cam khai như vậy thì ngó nhau chưng hửng. Mợ Hai buông cậu Hai ra rồi ngồi khoanh tay mà thở dài. Bà Cai nói rằng:
– Té ra thằng này là em Cai tuần Bưởi mà.
Hương quản đáp:
– Thưa phải, nó là em thằng Bưởi.
– Nếu vậy tôi đuổi thằng Bưởi, rồi anh em nó âm mưu với nhau mà chém con tôi đây chứ gì. Hương quản có bắt thằng Bưởi hay không?
– Thưa bà, thằng Bưởi có tội gì đâu mà bắt. Hồi chém cậu Hai thì có mình thằng Cam, chớ anh nó không có ở đấy. Mấy người chứng đều khai như vậy hết thảy, tôi bắt thằng Bưởi sao được.
– Dầu nó không chém, nó cũng xúi, vậy thì nó cũng đồng tội với em nó chớ.
– Xin lỗi bà, cái đó là bà nghi mà thôi, mà tình nghi thì không phải bằng cớ.
– Không biết. Hương quản làm sao công bình đó thì làm. Tôi nói trước cho mà biết, việc này tôi không nhịn đa. Tôi phải giết chết hết cả nhà cả lũ nó tôi mới nghe.
– Thưa bà, nếu bà thấy tôi làm chỗ nào không công bình thì bà cứ thưa tôi đi, chớ bà hăm tôi như vậy thì tội nghiệp tôi lắm!
– Chú nói chú làm công bình sao tôi biểu chú bắt thằng Bưởi mà chú không chịu bắt?
– Nó có tội gì đâu mà bắt?
– Tự ý chú. Nó có tội hay là không tội để lên quan rồi sẽ biết. Chú làm tới chức Hương quản tôi đâu dám cải lịnh chú.
– Thưa bà, bà nói gay gắt làm chi…
– Thôi tôi không cải với chú nữa mà.Bây giờ tôi xin chở bịnh đi nhà thương chú cho hay không?
– Phải để tôi lấy khai rồi mới giải đi một lượt chớ.
– Chờ chú giải, bịnh người ta chết còn gì?
– Thưa, tôi giải một buổi hầu chiều nay.Cậu Hai làm khai đi, đặng tôi coi tôi đặt tờ bẩm.
Bà Cai bước lại bàn tính nho nhỏ việc gì với cậu Hai đó không biết rồi bà xách dù ra xe mà về. Mợ mượn một người viết khai dùm cho cậu Hai.
Ba Cam kêu Ba Rạng mượn viết dùm một bức thư gởi ông thầy kiện Tô Lê là chủ anh, mà thuật mọi việc xảy ra cho ổng nghe. Anh ta đạn đề bao thơ như sau:
“Mông – xừ Tô Lê, trạng sư ở đường Kinh Lấp, số nhà 112 –Sài Gòn” Trong lúc cậu Hai Nghĩa làm khai, và Ba Rạng viết thơ, thì con Lựu một tay bồng con, một tay bưng một quản nhỏ đựng cơm cá đem ra cho Ba Cam ăn.
Ba Cam ngồi ăn cơm, con Lựu bồng con đứng một bên, mặt mày buồn xo. Cậu Hai Nghĩa day mặt chỗ khác, tuồng như không biết mẹ con con Lựu. Ba Cam thấy vậy bèn cười gằn và nói:
– Qua đã rửa nhục cho em được rồi. Từ rày sắp lên nó mang tiếng xấu chớ em hết xấu nữa. Dầu qua ở tù em cũng đừng buồn. Qua đã rửa nhục cho em mà qua ở tù thì qua vui lòng lắm, không hại chi đâu mà sợ.
Con Lựu lấy vạt áo mà lau nước mắt.
Mợ Hai Hưởng ngồi ngó mẹ con con Lựu lườm lườm, trong bụng mợ những muốn phanh thây xẻ thịt chúng nó hết, ngặt vì mợ nghĩ làng lạ nếu làm rầy thì mình có lỗi, mà lại thêm xấu cho chồng, chớ không có ích gì, bởi vậy mợ dằn lòng nhịn thua mà coi bộ mợ tức giận lung lắm.
Đến trưa, xe của cậu Hai trở lên, nhưng không có bà Cai.
Hương quản góp tờ khai và làm tờ bẩm xong rồi mới kêu xe mà đi giải. Cậu Hai và mợ Hai đi xe nhà. Hương quản còng Ba Cam lại rồi dắt ra đi chung xe với mình. Cai tuần Bưởi với Ba Rạng cũng mướn một xe mà đi theo coi việc hiền dữ thế nào?
Xuống tới chợ Gò Công đã 3 giờ chiều rồi. Cai tuần Bưởi với Ba Rạng ghé nhà dây thép mua cò gửi cái thư cho ông Thầy Kiện giùm cho Ba Cam, rồi mới dắt nhau qua Tòa Bố.
Bà Cai đi hồi nào mà hkông biết, mà vô tới cửa Tòa Bố tih` đã thấy bà đứng chực sẵn ở đó rồi. Bà bước lại nói nho nhỏ với cậu Hai chuyện chi không biết, mà bà chỉ trỏ Cai tuần Bưởi hoài. Ba Cam tuy bị còng, song sắc mặt như thường chẳng hề lộ một vẻ lo sợ chi hết.
Đến giờ quan Chánh Bố cho hầu, chú cai hầu mới ra cửa kêu lớn:
– Ai hầu quan lớn thì vô.
Hương quản Bình Phú Tây rút tờ bẩm trong tay rồi dắt Ba Cam với cậu Hai Nghĩa vô.
Thầy thông ngôn rước lấy tờ bẩm, mắt thì coi miệng thì dịch lại cho quan lớn nghe. Quan lớn bước ra xem thương tích cậu Hai Nghĩa, rồi trăm tiếng Tây với thầy thông ngôn và cầm con dao mà coi. Thầy thông ngôn hỏi cậu Hai Nghĩa vậy chớ ai chém cậu. Cậu chỉ Ba Cam. Thầy lại hỏi vậy cậu có nghe ai xúi Ba Cam chém cậu hay không. Cậu nói cậu nghe Cai tuần Bưởi xúi.
Thầy thông ngôn nói lại cho quan lớn một hồi rồi thầy day ra rầy Hương quản om sòm; thầy nói Hương quản làm việc không công bình, ăn tiền rồi binh vực bọn du côn, sao không chịu bắt tên Bưởi. Hương quản chưng hửng, rón rén bẩm rằng:
– Bẩm thầy, tên Bưởi có tội gì mà bắt?
– Nó xúi em nó chém người ta, sao chú lại nói không có tội?
– Bẩm, hồi trên làng cậu Hai Nghĩa không có khai như vậy: xin thầy đọc lá khai của cậu lại mà coi.
– Ê! Chú ngu lắm. Còn nói gì nữa mà! Chú muốn mất chức hay sao?
– Bẩm thầy, thầy mắng tôi oan quá. Tên Cam chém rồi tên Bưởi mới chạy ra, chứng đều khai như vậy mà tôi bắt nó sao được.
– Nín! Nghe nói có tên Bưởi đi theo đó phải không?
– Bẩm có nó đứng ngoài kia.
– Cai đòi tên Bưởi vô hầu quan lớn.
Cai hầu chạy ra kêu tên Bưởi mà dắt vô. Cai tuần Bưởi khoanh tay đứng trước mặt quan lớn, coi bộ sợ sệt lắm. Thầy thông ngôn nói với quan lớn một hồi rồi day ra nói với tên Bưởi rằng:
– Quan Lớn hỏi mày vậy chớ sao mày dám xúi em mày chém người tai?
– Bẩm quan Lớn, tôi đâu có xúi. Em tôi nó nói với tôi nó đi chợ chơi. Ra đường nó gặp cậu Hai Nghĩa, hai đàng cãi lẫy với nhau sao đó, rồi chém. Tôi có hay đâu. Chừng tôi hay, tôi chạy ra, thấy như vậy, tôi rầy nó dữ quá, quan Lớn đòi chứng hỏi mà coi.
– Quan Lớn nói anh em mày là du côn, quan Lớn bỏ tù hết thảy. Cai dắt hai thằng này đem xuống khám cho mau. Còn cậu Hai Nghĩa ra ngoài chờ một chút, đặgn tôi viết giấy cho quan Lớn ký tên rồi cầm qua nhà thương cho thầy khám bệnh.
Cai hầu dắt Ba Cam với Cai tuần Bưởi ra cửa đặng đi xuống khám. Ba Cam thấy Ba Rạng thì nói rằng:
– Nó lo tiền mà làm hại luôn anh Hai tôi nữa. Không có sao mà sợ. Anh làm ơn viết tiếp một bức thơ nữa rồi gởi liền cho Thầy Kiện chủ tôi hay. Bề nào cũng phải giải qua Tòa Mỹ Tho, ông chủ tôi không bỏ tôi đâu.
Ba Rạng đứng ngẩn ngơ chưa kịp hỏi chi hết, thì họ đã dẫn Bưởi với Cam vô khám.
Anh ta ra chợ mua một tờ giấy, rồi mượn viết mực mà viết một bức thơ nữa đặng nói cho ông Thầy kiện Tô Lê hay rằng Ba Cam đã bị giam và người ta vu cáo nên tên Bưởi là anh, cũng bị giam luôn nữa. Anh ta đề bao cũng như bức thư trước, mua cò mà gởi rồi mới lên xe trở về Bình Tây.
Lối đỏ đèn Ba Rạng mới về tới nhà. Anh ta đi thẳng lại nhà Cai tuần Bưởi mà thông tin cho chị hay trước. Khi anh ta bước vô, thì thấy thằng Cu đương ngồi nói chuyện với Thị Tố và con Lựu. Thị Tố vừa ngó thấy Ba Rạng thì hỏi rằng:
– Hương quản giải xuống quan Lớn xử sao đó? Còn anh Hai mày đâu?
Ba Rạng lắc đầu đáp rằng:
– Không xong. Quan Lớn giam chú Ba Cam, mà giam luôn anh Hai nữa.
Ai nấy nghe nói đều chưng hửng. Thị Tố vùng đứng dậy hỏi rằng:
– Anh Hai mày tội gì mà bị giam?
– Tôi có biết đâu. Hồi sớm mai tôi nghe bà Cai nói với Hương quản ngoài nhà việc, tôi nghi lắm.
– Nói giống gì?
– Bà nói để bả thí ít ngàn đồng bạc, bả giết chết hết thảy. Chắc tại như vậy nên anh Hai bị giam chứ gì.
– Trời ơi, quân độc ác như vậy đó, nó có tiền nó muốn hại ai cũng được hết thảy, trời có thấy hay không, hử trời!
– Chuyện gì cũng để thủng thẳng rồi sẽ tính, chớ chị la om sòm chi vậy?
– Ức người ta lắm, nín sao cho được.
– Chị đừng có nóng, để tôi nói cho chị nghe. Việc này bề nào cũng phải giải lên Tòa, chớ dưới này mà bỏ tù ai được. Không lẽ lên Tòa mà bà Cai còn hại anh Hai với chú Ba Cam được nữa. Thôi mình đừng chộn rộn, đợi giải lên Tòa coi Tòa xử làm sao rồi sẽ hay. Chú Ba Cam có nói ông chủ của chú làm Thầy kiện, ông thương chú lắm, chú chắc ổng không bỏ chú đâu. Tôi đã có gởi cho ổng hai bức thơ rồi. Nếu ổng binh chú Ba thì mười bà Cai mình cũng không lo, chẳng luận là một mình bả.
Ai nấy nghe Ba Rạng nói thì vững bụng được một chút, duy có con Lựu vừa khóc vừa nói rằng:
– Vì cái thân tôi, mà hai anh tôi đều phải bị hại, tôi nghĩ thiệt tôi muốn chết phứt cho rồi.
Thằng Cu chau mày nói rằng:
– Tôi chắc anh Hai với anh Ba vì cô mà bị hại đó, hai ảnh không có buồn đâu. Nếu tôi mà được bị hại chung với hai ảnh, tôi chắc cũng không buồn. Tôi nói thiệt a, ý cô Tư muốn sao cứ nói đi, tôi làm liền cho cô coi. Tánh tôi hiền lắm, thuở nay không khi nào tôi biết gây gổ với ai. Mà nãy giờ tôi nghe nói chuyện sao tôi nổi đóa quá.
Con Lựu khóc thút thít và đáp:
– Anh Ba tôi nghe nói anh cho mượn hai mươi đồng bạc đặng tôi uống thuốc. Ảnh có cho tôi số bạc ấy đặng trả cho anh. Bây giờ anh Hai với anh Ba tôi bị chuyện, vậy anh làm ơn để cho tôi mượn số tiền ấy đặng lo cho anh Hai tôi, rồi thủng thẳng sau tôi sẽ trả được không?
– Được, được mà. Cô không trả cũng được, tôi không đòi đâu. Mà bây giờ lo làm sao đây?
– Chuyện đó tôi cậy anh Ba tính giùm, chớ tôi với chị Hai tôi có biết đâu.
Ba Rạng nói:
– Lo giống gì được mà lo. Người ta giàu có bạc muôn, mình có một hai chục đồng bạc, mình cự với người ta sao nổi. Mình đem tiền ra mà lo, chẳng khác nào như mình quẳng xuống sông, có ích gì. Để mai tôi xuống Gò Công tôi hỏi dọ coi chừng nào họ giải Tòa. Hễ họ giải thì tôi đi theo lên Mỹ Tho coi Tòa phân làm sao rồi tôi sẽ liệu. Tôi chắc anh Hai vô tội, nên không hại gì đâu, còn chú Ba Cam thì có ông Thầy Kiện, có lẽ ổng cũng đỡ vớt chú chớ.
Thằng Cu vụt nói:
– Bữa nào họ giải anh Hai đi Mỹ Tho tôi cũng đi nữa.
Thị Tố nói rằng:
– Mày mắc ở cho ông Cả, mày đi sao được?
– Tôi nói với chủ tôi cho tôi nghỉ ít bữa đặng tôi đi, sao lại đi không được. Sáng mai anh Ba đi hỏi thăm đi. Anh nghe chắc bữa nào giải, anh cho tôi hay, rồi hai anh em mình đi.
– Hai anh em bây giờ ráng lo giùm một chút, chớ tao mắc sắp nhỏ, tao có nói đi đâu được. Bây liệu làm sao được đó bây làm, đừng có để nó bỏ tù luôn tới anh Hai bây thì tức lắm.
Ba Rạng trợn mắt:
– Cái thứ đó có tiền mà độc ác, hễ giận ai thì quăng tiền ra mà hại người ta có giỏi gì. Người như vậy dầu giàu sang cho mấy tôi cũng không phục. Như chú Ba Cam vậy đó đúng đa. Dám nói dám làm. Chú chém nó mà chú nói nghe sướng. Làm như vậy tụi nó mới ghê, hết dám ăn hiếp con nhà nghèo nữa. – Ba Rạng nói dứt lời bèn đi về nhà mà nghỉ.
Thình lình trời xán một đám mưa thiệt lớn. Thằng Cu nghe tin Ba Cam chém cậu Hai Nghĩa, tính lên thăm một chút rồi về, tá ra trời mưa. Thị Tố cầm ở lại ngủ rồi khuya sẽ về. Nó nằm tại bộ ván giữa nói chuyện chơi với Thị Tố, còn con Lựu thì dỗ con dưới võng. Nó nói chuyện này rồi bắt qua chuyện nọ, mà chuyện nào nói cũng thiệt thà, lời nào nghe cũng trung hậu. Thị Tố than cái thân của con Lựu với nó. Nó lóng tai nghe rồi thở ra mà nói:
– Lỗi tại tôi. Chớ chi tôi nghe lời anh Hai, tôi cưới phứt cô Tư hồi năm kia, thì cô khỏi có chuyện gì hết.
Con Lựu nghe nói như vậy thì gác tay qua trán day mặt vô vách, nằm nín khe.
Đến khuya Ba Rạng thức dậy sửa soạn đi Gò Công, thấy Thị Tố có đốt đèn, bèn xuống nói cho chị hay rồi sẽ đi. Thằng Cu cũng đương sửa soạn đi về Đập Ông Canh nên hiệp với Ba Rạng đi cho vui. Thị Tố lấy 20 đồng bạc đud*a cho em. Ba Rạng không chịu lấy, nói rằng để đi dọ hỏi coi chuyện trở ra sao rồi sẽ tính. Thị Tố biểu lấy ít đồng bạc mà đi xe. Anh ta cũng lắc đầu mà đáp rằng:
– Thôi, đi bộ được mà. Đi xe làm chi cho tốn kém.
Chiều lại Ba Rạng trở về ghé Đập Ông Canh mà cho thằng Cu hay rằng mình nghe đến mốt sẽ giải Cai tuần Bưởi với Ba Cam lên Tòa. Thằng Cu nói:
– Chiều mai tôi sẽ lên rồi đi Mỹ Tho với anh.
Thiệt quả chiều bữa sau thằng Cu lên, mình mặc một cái áo vải trắng mới với một chiếc quần vải đen cũng mới, nên coi bộ sạch sẽ hơn ngày thường. Nó ở ngủ tại nhà Ba Rạng. Đến canh ba vợ Ba Rạng dậy đặng nấu cơm cho hai người ăn rồi dắt nhau đi bộ lên Chợ Gạo, tính qua đó rồi sẽ mướn xe đi Mỹ Tho cho rẻ tiền.
Việc Cai tuần Bưởi với Ba Cam giải lên Tòa, quan Biện lý xét Cai tuần Bưởi nên thả về; còn Ba Cam chém cậu Hai Nghĩa, có giấy quan thầy thuốc chứng rằng người bịnh phải nằm nhà thương ít nữa 15 ngày mới lành mấy vếy thương ấy được, nên quan Biện lý làm giấy giam phạm nhân, đợi chừng nào cậu Hai Nghĩa lành mạnh rồi sẽ đòi mà xử.
Vì khi vô Tòa, Ba Rạng với thằng Cu đã có gặp và có nói chuyện với hai anh em Cai tuần Bưởi rồi, nên khi Tòa dạy giam Ba Cam, thì Ba Rạng viết một bức thơ nữa mà gởi cho ông Thầy kiện Tô Lê rồi mới dắt nhau trở về Bình Phú Tây.
Thị Tố với con Lựi nghe Cai tuần Bưởi được Tòa tha thì mừng, song nghe nói Ba Cam còn bị giam thì trong lòng chưa yên. Cai tuần Bưởi nói rằng:
– Không sao mà sợ, thằng Cam nó biểu đừng lo, ông Thầy Kiện cần dùng nó lắm. Nếu nó ở tù thì ai cầm bánh xe hơi cho ổNg đi. Nó nói bề nào ổng cũng phải binh nó. Nó chắc hễ ổng đi hứng gió về thì ổng xuống Mỹ Tho ổng xin cho nó ra.
Thằng Cu ở chơi với Cai tuần Bưởi một đêm rồi sáng bữa sau nó mới về. Cách chừng 10 bữa, Cai tuần Bưởi tiếp được một bức thơ của Ba Cam gởi mà nói rằng anh ta bị Tòa giam hết 3 ngày rồi có ông Thầy Kiện xuống lãnh, nên Tòa thả ra, song Tòa dặn hễ chừng nào có trát đòi thì phải đi hầu. Cách vài mươi ngày nữa, Cai tuần Bưởi lại tiếp được một phong thơ thứ hai của Ba Cam nói rằng Tòa xử rồi, Tòa phạt anh ta một tháng tù treo và 25 quan tiền vạ. Tuy anh ta bị án, song án treo nên khỏi ở tù; lại bữa xử có ông Thầy Kiện xuống cãi lẽ, ổng cãi mà ông bày hết cử chỉ đê tiện của cậu Hai Nghĩa ra Tòa nghe làm cho thiên hạ cười cậu Hai Nghĩa với bà Cai hiếu gục mặt hổ thẹn hết sức.
Trong thơ Ba Cam lại có gạch mà nói riêng với con Lựu mấy câu: “Còn em Lựu, bữa qua về thăm em, qua có hứa với em hai điều: một là rửa nhục cho em, hai là sẽ bảo bọc em. Điều thứ nhứt qua đã làm rồi; tuy qua bị án, nhưng thằng Nghĩa nó mang mấy vét nhục trên mặt nó trọn đời, không thể nào nó chùi cho tiêu được. Còn điều thứ nhì, để thủng thẳng qua tính, chừng nào qua tính xong rồi qua sẽ cho em hay”.
Mấy lời của Ba Cam nói thiệt là trúng. Cậu Hai Nghĩa tuy đã lành mạnh rồi, bà Cai Hiếu tốn hao không biết bao nhiêu, song trên mặt của cậu hết khôi ngô nữa, và trong lòng cậu hổ thầm hoài, bởi vậy từ rầy cậu cứ lục thục ở trong nhà, không muốn đi đâu nữa hết.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.