80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới
Chương 2: Theo dấu vết tên trộm
Bảy ngày sau ngày lên đường của ông Fogg, viên giám đốc Sở cảnh sát nhận được bức điện tín sau đây, đánh đi từ Suez:
“Đang theo dõi tên trộm ngân hàng, Phileas Fogg. Hãy gởi ngay lệnh bắt tới Bombay.” Fix, Thám tử.
Bức điện tín có tác dụng ngay tức khắc. ảnh của ông Fogg đang lưu giữ tại Câu lạc bộ Cải cách giữa đám ảnh các đồng sự của ông được xem xét. Nó tương ứng với dấu hiệu nhận dạng do cuộc điều tra cung cấp. Người ta gợi lại những gì gọi là bí ẩn trong cuộc sống của con người đó và điều có vẻ hiển nhiên là chuyến đi này không ngoài mục đích đánh lạc hướng sự chú ý của các nhân viên Sở Cảnh sát Anh.
Đây là một trong những tình huống đã xảy ra khi bức điện tín đó được đánh đi. Ngày 9 tháng mười, tại Suez người ta đang chờ tàu khách.Mongolia, chuyến tàu nối liền Brindisi với Bom-bay qua kinh Suez cập bến. Hai người đàn ông dạo bước trên bến tàu giữa đám đông người bản xứ và người nước ngoài. Một người là viên chức tòa lãnh sự của nước Anh, người kia nhỏ thó, gầy gò, vẻ bồn chồn, con mắt lanh lợi lúc nào cũng nhấp nhổm không yên. Đó là Fix, một trong những viên thám tử mà Sở cảnh sát đã điều tới nhiều thành phố cảng sau vụ trộm tại Ngân hàng Anh quốc. Tay Fix này có nhiệm vụ theo dõi tất cả những hành khách quá cảnh qua Suez, và nếu thấy có người nào khả nghi thì bám sát trong khi chờ lệnh bắt giam.
– Tôi thật sự không biết, với những dấu hiệu nhận dạng ông đã nhận được, làm sao ông có thể nhận ra con người đó, – ông lãnh sự nói. -Tên trộm giống như một người rất mực hào hoa phong nhã.
– Thưa ông lãnh sự, – Fix đáp, – những tên trộm siêu đẳng luôn giống người lương thiện.
Trong đời tôi đã bắt không ít tên như vậy rồi.
Miễn là tên trộm của tôi có mặt trên tàu, tôi xin trả lời với ông rằng nó sẽ không thoát khỏi tay tôi.
Sau lời nói đó, ông lãnh sự trở về nhiệm sở.
Người ta thấy Fix không thiếu sự tự tin. Tuy nhiên bến tàu dần dần trở nên nhộn nhịp. Thủy thủ, người môi giới, người khuân vác và nông dân bản xứ đổ dồn về đây. Trong khi bước theo dòng người, theo thói quen nghề nghiệp, Fix nhìn chăm chăm vào người đi đường bằng một cái nhìn lướt nhanh.
Chà, Fix tự nhủ sau phút im lặng, nếu người chúng ta truy tìm theo đường này và trên chiếc tàu này, hắn ta phải lên bờ tại cảng Suez để tới những nước châu á thuộc địa của Hà Lan hoặc Pháp bằng một con đường khác.
Fix không phải nghĩ ngợi lâu. Ngay sau đó người ta trông thấy cái vỏ khổng lồ của tàu Mon-golia giữa hai bờ Kinh và đồng hồ điểm mười một giờ khi tàu buông neo tại bến.
Hành khách khá đông. Vài người còn nán lại trên boong để ngắm nhìn toàn cảnh ngoạn mục của thành phố, nhưng hầu hết đều lên bờ.
Trong khi Fix đang xem xét kỹ tất cả những người đặt chân lên đất liền, một người trong số đó đến bên ông, lễ phép hỏi ông có thể chỉ giùm anh ta văn phòng Tòa Lãnh sự Anh ở đâu hay không. Cùng lúc, người hành khách chìa ra một.tờ hộ chiếu trên đó dĩ nhiên anh muốn nhờ đóng dấu thị thực của Anh.
Theo bản năng, Fix chộp lấy nó và mở ra.
Nhưng nó suýt rơi khỏi tay ông: dấu hiệu nhận dạng ghi trên tờ hộ chiếu tương ứng với dấu hiệu nhận dạng được cảnh sát thông báo.
– Tờ hộ chiếu này không phải của anh chứ?
– ông hỏi.
– Dạ không, – người này trả lời. – Đây là hộ chiếu của ông chủ tôi hãy còn ở trên tàu.
– Nhưng điều cần thiết là đích thân ông ấy phải đến trình diện với ông lãnh sự, ở chỗ kia, góc quảng trường.
– Vậy thì tôi sẽ đi tìm ông chủ của tôi.
Fix đi nhanh về phía Tòa Lãnh sự và yêu cầu được tiếp kiến.
– Thưa ông lãnh sự, – ông nói không cần mào đầu, – tôi có những suy đoán vững chắc để tin rằng mình đã nhận ra kẻ chúng ta đang tìm kiếm.
– Hay đấy, ông Fix. – ông lãnh sự đáp. -Tôi sẽ không hối tiếc khi trông thấy bản mặt tên vô lại đó.
– Tôi nghĩ có thể khẳng định được rằng hộ chiếu của hắn sẽ hợp lệ, nhưng tôi mong sao ông đừng cấp thị thực…
– Tại sao vậy? Tôi không có quyền từ chối.
– Nhưng tôi phải giữ người đó tại đây cho tới khi nào tôi nhận được lệnh bắt giữ từ Luân Đôn.
– à! Đó là việc của ông, ông Fix à, không phải việc của tôi…
Ông lãnh sự không thể kết thúc câu nói. Quả nhiên người ta gõ cửa văn phòng ông, và một người giúp việc đưa vào hai người lạ. Đúng đó là ông chủ và người làm. Phileas Fogg xuất trình hộ chiếu nói ngắn gọn yêu cầu ông lãnh sự vui lòng đóng dấu thị thực vào đó.
Ông Lãnh sự cầm tờ hộ chiếu và chăm chú đọc.
– ông là Phileas Fogg? – ông Lãnh sự hỏi.
– Dạ đúng, thưa ông. – Con người hào hoa phong nhã đáp.
– Còn người này?
– Đây là gia nhân của tôi. Một người Pháp tên là Passepartout.
– ông từ Luân Đôn tới?.- Dạ.
– Và ông đi đâu?
– Bombay.
– Được rồi, thưa ông. Tuy nhiên ông biết rằng thủ tục thị thực này đã trở nên vô ích…
– Tôi biết điều đó, thưa ông. – Phileas Fogg đáp. – Nhưng tôi muốn được chứng nhận bằng con dấu thị thực của ông rằng tôi đã đi qua Suez.
Ông Lãnh sự đóng dấu vào tờ hộ chiếu sau khi đã ký tên và đề ngày lên đó. ông Fogg nộp lệ phí thị thực, và sau một cái chào lạnh lùng, ông bước ra với người giúp việc theo sau.
– Này, – ông Lãnh sự kêu lên, – ông ta có vẻ một con người phong nhã tuyệt vời đó chứ!
– Nhưng ông có đồng ý là con người hào hoa phong nhã điềm tĩnh đó giống hệt tên trộm mà tôi nhận được qua dấu hiệu nhận dạng không.
– Viên thám tử đáp lại.
– Tôi nhìn nhận điều đó, nhưng mà…
– Tôi sẽ biết chính xác ngay thôi. Tôi thấy anh người làm có vẻ ít bí hiểm hơn ông chủ, tôi sẽ cạy họng anh ta.
Dứt lời, Fix bước ra và bắt đầu đi tìm Passepartout.
Khi rời tòa Lãnh sự, ông Fogg sai bảo người làm mấy việc và trở lại tàu Mongolia. Về buồng mình, ông lấy ra quyển sổ ghi chép trong đó ghi:
“Rời Luân Đôn, thứ tư, 2 tháng mười, 8g 45 chiều.
Tới Paris, thứ năm, 7g sáng.
Rời Paris, thứ năm 8g 40 sáng.
Tới Turin qua ngả Mont – Cenis, thứ 6, 4 tháng mười, 6g 45 sáng.
Rời Turin, thứ sáu, 7g 20 sáng.
Tới Brindisi, thứ bảy, 5 tháng mười, 4g chiều.” ông Fogg đã ghi những ngày tháng đó trên một bảng hành trình sắp xếp thành nhiều cột chỉ rõ – từ ngày 2 tháng mười tới ngày 21 tháng chạp – ngày và tháng của tất cả những giai đoạn đã tính trước, đến nỗi ông luôn biết mình tới sớm hơn hoặc chậm trễ.
Vậy là ngày hôm đó, ông ghi giờ tới Suez khớp với giờ đến theo quy định, không chậm cũng không sớm.
– Này, anh bạn, – Fix vừa nói vừa đuổi theo Passepartout trên bến tàu, – anh ngắm cảnh đấy à?.- Đúng, nhưng chúng tôi đi nhanh đến nỗi tôi cứ tưởng mình đang du lịch trong mơ. Chúng tôi đang có mặt tại Suez, ở châu Phi. Châu Phi, – Passepartout lập lại. – Tôi không thể nào tin được.
– Vậy anh đi gấp lắm à?
– Tôi thì không, nhưng ông chủ của tôi thì gấp. Nhân dây, tôi phải mua vớ và áo sơ mi.
Chúng tôi lên đường không có hòm rương gì cả.
– Tôi sẽ đưa anh tới một cửa hàng bách hóa nơi anh sẽ tìm ra tất cả những gì anh cần.
– ông tử tế quá. – Passepartout nói, và anh lấy ra chiếc đồng hồ quả quít. – Cần nhất tôi phải tránh lỡ tàu. – Anh tiếp lời.
– Anh có đủ thì giờ mà. – Fix bảo. – Chỉ mới trưa thôi.
Passepartout cau mày.
– Vậy chúng ta hãy đi đi nào. Đã chín giờ năm mươi hai phút rồi.
– Đồng hồ anh chạy chậm.
– Đồng hồ tôi chạy chậm à? Một chiếc đồng hồ gia truyền từ đời ông cố tôi đấy. Nó không xê dịch tới năm phút mỗi năm.
– Tôi biết chuyện gì rồi. Anh đã giữ giờ Luân Đôn, vốn chậm hơn giờ Suez khoảng hai tiếng.
Anh phải lo chỉnh đồng hồ anh vào buổi trưa ở từng nước đi qua.
– Tôi, động chạm vào chiếc đồng hồ của mình à, – Passepartout kêu lên. – Không đời nào!
Chập sau, Fix lại gợi chuyện và nói:
– Vậy là anh và ông chủ của anh đã vội vã rời Luân Đôn phải không?
– Đúng vậy! Ngày thứ tư vừa qua, vào lúc tám giờ tối, trái với mọi thói quen của mình, ông Fogg từ Câu lạc bộ trở về, và bốn mươi lăm phút sau, chúng tôi lên đường.
– Nhưng ông chủ của anh đi đâu?
– ông ấy đi vòng quanh thế giới.
– Vòng quanh thế giới à?
– Đúng, trong tám mươi ngày! Một trò cá cược.
– Đây là một con người độc đáo, đương nhiên rồi. ông ấy giàu có chứ?
– Tất nhiên. ông ấy mang theo một món tiền lớn bằng giấy bạc mới cáu cạnh. Và ông không hề tiết kiệm tiền ở dọc đường. Này, ông ấy đã hứa một món tiền thưởng cho anh thợ máy.của tàu Mongolia nếu chúng tôi tới Bombay trước giờ đấy.
– Và anh biết ông ấy từ lâu rồi chớ, ông chủ của anh ấy?
– Tôi, – Passepartout đáp, – tôi vào làm cho ông ấy ngay ngày chúng tôi lên đường.
Người ta dễ dàng tưởng tượng ra những câu trả lời đó đã gây ra hiệu quả gì trong đầu óc viên thanh tra cảnh sát. Tất cả làm cho ông vững tin hơn trong những suy đoán của mình.
Giữa lúc đó, hai người đã tới cửa hàng bách hóa. Fix để cho anh bạn lo mua hàng tại đây và hối hả trở lại tòa Lãnh sự.
– Thưa ông, – ông nói với ông Lãnh sự, -điều tôi tin chắc quả không sai, tôi phải bắt tên tội phạm này. Hắn làm ra vẻ một con người kỳ quặc muốn đi vòng quanh thế giới trong tám mươi ngày.
– ông không lầm đó chứ? Tại sao tên trộm đó cố tình cho người ta thấy, bằng một con dấu thị thực, việc hắn đi ngang qua Suez?
– Tôi không biết. – Fix đáp. – Đó cũng là một chi tiết. Tôi sẽ đánh điện về Luân Đôn yêu cầu gởi một lệnh bắt tới Bombay, rồi đáp tàu Mongolia, và tại đó, trên đất ấn Độ, tôi sẽ đến bắt chuyện với hắn một cách lễ độ với lệnh bắt trong tay.
Dứt lời, viên thám tử chào từ biệt và tới bàn điện thoại. Một khắc đồng hồ sau đó, tay xách một túi hành lý gọn nhẹ, ông bước lên tàu Mon-golia và sau đó con tàu xả hết tốc lực trên sóng nước biển Đỏ.
Trên tàu Mongolia ai nấy đều thoải mái.
Vào bữa ăn sáng, bữa ăn trưa, bữa ăn tối và bữa ăn đêm, những chiếc bàn nặng trĩu xuống bởi những món ăn ngon lành nhất. Người ta chơi nhạc, người ta còn khiêu vũ nữa.
Trong thời gian đó, Phileas làm gì? Người ta ít khi thấy ông xuất hiện trên boong. ông không lo ngại gì về biển Đỏ và những bờ bãi của nó cho lắm.
Về phần Passepartout thì chuyến đi này làm anh bực mình nhất. Được ăn uống phả phê, ở nơi sang trọng, anh ngắm cảnh lạ và tin chắc rằng tất cả sự ngông cuồng này rồi sẽ phải kết thúc tại Bombay thôi.
Anh không khỏi vui mừng khi gặp Fix trên boong vào hôm sau ngày rời Suez.
– Rất vui gặp lại ông, thưa ông. ông đi Bom-bay đó chứ? – Anh hỏi..- Thì cũng như anh thôi. Tôi là nhân viên của công ty Bán đảo.
– Xứ ấn Độ này lạ thật, ông không thấy sao?
– Lạ lắm chứ. ở đây có nhiều nhà thờ Hồi giáo, miếu mạo, thầy tu khổ hạnh, cọp beo…
Mong anh có thì giờ tham quan đất nước này.
– Tôi cũng mong vậy, ông Fix à.
– Còn ông Fogg, ông ấy khỏe chứ? Fix hỏi bằng một giọng rất tự nhiên.
– Rất khỏe, thưa ông. Tôi cũng vậy. Tôi ăn uống như chằn tinh. Nhờ không khí ở biển đấy.
– Còn ông chủ của anh, tôi không bao giờ thấy ông ấy…
– Không đời nào. ông ấy không có tính tò mò.
– Anh biết không, anh Passepartout, chuyến đi giả định là vòng quanh thế giới trong tám mươi ngày rất có thể che giấu một điều bí mật nào đó.
– Quả thật tôi chẳng biết gì cả và tôi xin thú thật với ông là tôi chẳng thèm phí tới nửa đồng curon để biết điều ấy.
Kể từ lần gặp gỡ đó, viên Thanh tra cảnh sát thường mời chàng trai một ly uýt ki hoặc một ly bia và chàng trai trung hậu luôn mời đáp lại để khỏi mang nợ. Anh chàng thấy kể ra ông Fix này cũng là một tay hào hoa phong nhã rất đứng đắn.
Trong khi đó, con tàu vẫn tiếp tục cuộc hành trình. Ngày 14, sớm hơn mười lăm tiếng đồng hồ, tàu Mongolia ghé cảng Aden để lấy thêm nhiên liệu.
Sáu giờ, chân vịt tàu Mongolia bắt đầu quay.
Biển ấn Độ rất thuận lợi. Gió từ hướng tây bắc thổi tới và buồm giương lên để tiếp sức cho hơi nước.
Ngày chủ nhật, 20 tháng mười, vào khoảng trưa, người ta đã thấy bờ biển ấn Độ. Hai tiếng đồng hồ sau, người hoa tiêu lên tàu Mongolia và sau đó con tàu chạy vào vũng tàu hình thành từ năm hòn đảo. Lúc bốn giờ rưỡi tàu cặp vào cảng Bombay.
Lẽ ra tàu Mongolia phải tới Bombay vào ngày 22 tháng mười, nhưng nó đã tới vào ngày 20.
Như vậy là Phileas Fogg đã có thể ghi một cách có phương pháp vào phần cột có lợi là hai ngày..
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.