Phi Lý Trí

CHƯƠNG 10. SỨC MẠNH CỦA GIÁ CẢ



Tại sao một viên aspirin 50 xu có thể làm được điều mà một viên aspirin 1 xu không làm được?

Nếu bạn đang sống ở năm 1950 và bị đau ngực, rất có thể bác sỹ tim mạch sẽ gợi ý bạn làm một thủ thuật thắt động mạch trong lồng ngực. Khi phẫu thuật, bệnh nhân được gây mê, ngực được mở ở vị trí xương ức và động mạch trong lồng ngực được thắt lại. Áp suất đẩy tới các động mạch thuộc màng ngoài tim được nâng cao, lưu lượng máu tới cơ tim được cải thiện. Mọi chuyện được giải quyết.

Đây đã từng là một phẫu thuật thành công khá phổ biến 20 năm trước. Nhưng vào năm 1955, bác sỹ chuyên khoa tim tại Seattle là Leonard Cobb và một số đồng sự bắt đầu nghi ngờ. Đó có phải là một thủ thuật hiệu quả không? Nó thật sự có tác dụng không? Cobb quyết định chứng minh hiệu quả của thủ thuật này theo một phương pháp táo bạo: ông sẽ thực hiện phẫu thuật đối với một nửa số bệnh nhân và giả phẫu thuật với nửa còn lại. Sau đó, ông sẽ kiểm tra xem nhóm nào cảm thấy tốt hơn và sức khỏe của nhóm nào thật sự được cải thiện.

Trong thủ thuật giả phẫu thuật, bác sỹ chỉ dùng dao mổ cắt vào thịt bệnh nhân, để lại hai vết rạch và không làm gì khác.

Kết quả khiến mọi người ngạc nhiên. Cả bệnh nhân được thắt và không được thắt ngay lập tức cho thấy số lượng các cơn đau ngực giảm xuống. Ở cả hai nhóm, cơn đau giảm trong khoảng ba tháng – nhưng sau đó lại tái phát. Trong khi đó, điện tâm đồ cho thấy không có sự khác biệt giữa những người đã trải qua cuộc phẫu thuật thật sự và những người chỉ được phẫu thuật giả. Nói cách khác, thủ thuật truyền thống chỉ giúp giảm đau trong một thời gian ngắn – nhưng cuộc phẫu thuật giả cũng làm được điều tương tự. Cuối cùng, không thủ thuật nào có thể trực tiếp làm giảm những cơn đau về lâu dài.

Gần đây hơn, một thí nghiệm tương tự cho kết quả giống đến mức đáng kinh ngạc. Ngay từ năm 1993, J. B. Moseley, một bác sỹ phẫu thuật chỉnh hình, ngày càng nghi ngờ về việc phẫu thuật khớp cho những người bị viêm khớp đầu gối. Thủ thuật đó có thật sự phát huy tác dụng không? Sau khi chọn 180 bệnh nhân viêm khớp mãn tính từ bệnh viện dành cho cựu chiến binh tại Houston, Texas, bác sỹ Moseley và các đồng nghiệp chia họ thành ba nhóm.

Nhóm thứ nhất nhận được cách điều trị: gây mê, rạch ba vết, chèn ống, lấy sụn, chỉnh sửa các vấn đề của mô mềm, và dùng 10 lít nước muối rửa đầu gối. Nhóm thứ hai được gây mê, rạch ba vết, chèn ống và dùng 10 lít nước muối nhưng không lấy đi sụn. Nhóm thứ ba – nhóm giả – cũng giống hai cách điều trị kia (gây mê, rạch, v.v…) với cùng số thời gian nhưng không có dụng cụ nào được chèn vào đầu gối. Nói cách khác, đây chỉ là một phẫu thuật mô phỏng.

Hai năm sau phẫu thuật, tất cả ba nhóm được kiểm tra mức độ giảm cơn đau và lượng thời gian họ cần để có thể đi lại và leo cầu thang. Kết quả, nhóm được phẫu thuật hoàn chỉnh và được rửa khớp rất vui mừng. Nhưng kỳ lạ thay – đây cũng chính là điều gây xôn xao dư luận – nhóm giả phẫu thuật cũng thấy giảm đau và cải thiện trong việc đi lại. Trước kết luận gây sửng sốt này, bác sỹ Nelda Wray, một tác giả trong nghiên cứu của Moseley, ghi nhận: “Thực tế về tính hiệu quả của thủ thuật mở và rửa khớp đối với bệnh nhân viêm khớp đầu gối mãn tính không có tác dụng gì hơn so với giả phẫu thuật khiến chúng ta đặt câu hỏi liệu 1 tỷ đô-la dùng cho các thủ thuật này có thể được sử dụng tốt hơn không”.

Khi nghiên cứu này xuất hiện vào ngày 11 tháng 7 năm 2002 trên trang nhất của tạp chí y khoa New England Journal of Medicine, một số bác sỹ đã phản ứng dữ dội và chất vấn về phương pháp và kết quả nghiên cứu. Bác sỹ Moseley tranh luận rằng nghiên cứu của mình đã được thiết kế và tiến hành cẩn thận. “Các bác sỹ ngoại khoa… thường thực hiện thủ thuật soi khớp sẽ cảm thấy xấu hổ trước viễn cảnh cho thấy tác dụng trấn an – chứ không phải kỹ năng phẫu thuật – là nguyên nhân của những tiến triển ở bệnh nhân sau phẫu thuật. Như bạn có thể tưởng tượng, các bác sỹ ngoại khoa sẽ tìm mọi cách để làm giảm uy tín của nghiên cứu này.”

Chúng ta nên có cái nhìn thấu đáo hơn về phẫu thuật soi khớp, đồng thời đòi hỏi nhiều bằng chứng hơn cho các thủ thuật y khoa nói chung.

Kỳ vọng làm thay đổi cách chúng ta nhận thức và cảm nhận trải nghiệm. Khám phá tác dụng của giả dược, chúng ta sẽ thấy không chỉ niềm tin và sự kỳ vọng ảnh hưởng tới việc chúng ta nhận thức, diễn giải hình ảnh, vị, và các hiện tượng cảm giác khác như thế nào mà các mong đợi cũng có thể tác động rất lớn đến chúng ta bằng cách thay đổi các trải nghiệm chủ quan và khách quan.

Quan trọng nhất, tôi muốn tìm hiểu một khía cạnh của giả dược: đó là vai trò của giá cả. Liệu một loại thuốc đắt tiền sẽ làm chúng ta cảm thấy khỏe hơn so với loại thuốc rẻ tiền hơn? Nó có làm chúng ta cảm thấy khá hơn về mặt thể chất không? Và cả về các thủ thuật đắt tiền, các thiết bị mới, ví dụ: máy đo nhịp tim kỹ thuật số và các thanh dẫn công nghệ cao? Giá cả có ảnh hưởng tới tác dụng của chúng không? Và nếu có, thì có nghĩa là hoá đơn chăm sóc sức khỏe tại Mỹ sẽ tiếp tục tăng cao?

Giả dược – trong tiếng Anh là PLACEBO, bắt nguồn từ tiếng La tinh, có nghĩa là “Tôi sẽ làm hài lòng”. Thuật ngữ này được sử dụng vào thế kỷ XIV để chỉ những người khóc thuê tại các đám tang. Đến năm 1785, thuật ngữ này xuất hiện trong Tân Từ điển Y khoa, gắn liền với các hoạt động y nhỏ lẻ.

Ví dụ được ghi nhận sớm nhất về tác dụng của giả dược trong lịch sử y khoa có từ năm 1794. Gerbi, một bác sỹ người Ý, đã thực hiện một khám phá kỳ cục: khi ông xoa chất bài tiết của một loại sâu lên chiếc răng, vết đau biến mất trong một năm. Gerbi điều trị cho hàng trăm bệnh nhân bằng phân sâu, rồi lưu hồ sơ tỉ mỉ về các phản ứng của họ. Trong số các bệnh nhân của ông, 68% cho biết trong vòng một năm họ đã không còn đau răng nữa. Chúng tôi không biết toàn bộ câu chuyện của Gerbi và phân sâu, nhưng chúng tôi có một ý niệm khá rõ ràng là phân sâu không liên quan tới việc chữa đau răng. Vấn đề là Gerbi tin rằng chúng có tác dụng – và đa số các bệnh nhân của ông cũng tin như vậy.

Tất nhiên, phân sâu mà Gerbi dùng không phải là thứ giả dược duy nhất trên thị trường. Trước đây, phần lớn các loại thuốc đều là giả dược. Mắt cóc, cánh dơi, phổi cáo khô, thủy ngân, nước khoáng, cocain, dòng điện,… tất cả từng được rêu rao là phương thuốc chữa cho nhiều loại bệnh khác nhau. Người ta nói rằng khi Lincoln nằm hấp hối trên con phố đối diện Nhà hát Ford, bác sỹ của ông đã bôi một ít “sơn xác ướp” vào các vết thương. Xác ướp Ai Cập xay thành bột được tin là phương thuốc chữa bệnh động kinh, áp-xe, phát ban, gãy xương, liệt, đau nửa đầu, loét và nhiều thứ bệnh khác nữa. Cho tới năm 1908, “xác ướp Ai Cập đích thực” có thể được đặt hàng qua catalog E. Merck – và rất có thể ngày nay nó vẫn đang được sử dụng ở đâu đó.

Nhưng bột xác ướp không phải là loại thuốc rùng rợn nhất. Ở thế kỷ XVII, có một công thức về một loại thuốc “chữa bách bệnh”: “Lấy thi hài đàn ông, 24 tuổi, mới chết, có tóc màu đỏ, không bị thương, thanh danh không bị hoen ố, và bị giết không quá 1 ngày trước đó, tốt nhất là do treo cổ, bị xử tử hình hoặc bị đóng cọc xuyên qua người… Phơi một ngày một đêm dưới ánh sáng mặt trời và mặt trăng, sau đó cắt thành những miếng nhỏ hoặc mẩu dài. Rắc lên một ít bột nhựa thơm và lô hội, để nó không bị quá đắng”.

Giờ đây có thể chúng ta nghĩ mọi chuyện đã khác nhưng thực tế, giả dược vẫn phát huy tác dụng ma thuật. Ví dụ, các bác sỹ ngoại khoa vẫn cắt di tích mô sẹo khỏi vùng bụng, vì họ cho rằng thủ thuật này sẽ giúp chữa bệnh đau bụng mãn tính – cho tới khi các nhà nghiên cứu thử tiến hành thủ thuật đó và mức giảm đau ở các bệnh nhân là như nhau. Encainide, flecainide và mexiletine là các loại thuốc không nhãn được kê đơn rộng rãi để điều trị nhịp tim bất thường – và sau đó bị phát hiện đó là loại thuốc làm tim ngừng đập. Khi các nhà nghiên cứu kiểm tra tác động của sáu loại thuốc chống suy nhược hàng đầu, họ ghi nhận được kết quả là 75% tác dụng được tạo ra trong các kiểm soát dùng giả dược. Điều tương tự cũng đúng với phẫu thuật não cho bệnh Parkinson. Khi các bác sỹ khoan hố trong xương sọ của các bệnh nhân mà không thực hiện toàn bộ thủ thuật, các bệnh nhân được phẫu thuật giả có cùng kết quả với những bệnh nhân được phẫu thuật hoàn chỉnh.

Sự thật, giả dược hoạt động bằng sức mạnh của niềm tin. Chúng hiệu quả vì người ta tin tưởng chúng. Bạn đến gặp bác sỹ và sau đó cảm thấy khỏe hơn. Bạn uống một viên thuốc và cảm thấy khá hơn rất nhiều. Và nếu bác sỹ của bạn là một chuyên gia rất uy tín hoặc đơn thuốc của bạn có kê một loại thần dược mới, thì bạn còn cảm thấy ổn hơn rất nhiều. Nhưng niềm tin này ảnh hưởng tới chúng ta như thế nào?

Nói chung, có hai cơ chế hình thành sự mong đợi khiến giả dược có tác dụng. Một là niềm tin. Đôi khi việc bác sỹ hoặc y tá quan tâm, chăm sóc, động viên chúng ta không chỉ làm chúng ta cảm thấy khỏe hơn mà còn giúp chữa lành bệnh trong người chúng ta. Thậm chí, sự nhiệt tình của một bác sỹ cho một thủ thuật hoặc cách điều trị nào đó có thể dẫn dắt chúng ta tới một kết quả tích cực.

Cơ chế thứ hai là điều kiện hóa. Giống như những chú chó trong thí nghiệm nổi tiếng của Pavlov (tiết nước bọt khi có tiếng chuông), cơ thể hình thành sự mong đợi sau các trải nghiệm lặp lại và giải phóng các hóa chất khác nhau để chuẩn bị cho lần tiếp theo. Giả sử bạn đặt mua pizza đã rất nhiều ngày nay. Khi người giao bánh nhấn chuông, dịch tiêu hoá trong dạ dày bắt đầu chảy, thậm chí trước khi bạn có thể ngửi thấy mùi bánh.

Trong trường hợp bị đau, sự trông đợi có thể giải phóng các hooc-môn và chất dẫn truyền thần kinh, ví dụ: endorphin và opiate, không chỉ phong tỏa cơn đau mà còn sản sinh ra nhiều cao điểm (endorphin khởi động các thụ cảm tương tự morphine). Tôi nhớ rất rõ những ngày nằm ở khoa bỏng trong cơn đau đớn khủng khiếp. Ngay khi nhìn thấy y tá tiến đến với ống tiêm chứa thuốc giảm đau, tôi đã cảm thấy thật nhẹ nhõm! Não của tôi bắt đầu tiết ra các opioid xoa dịu cơn đau, thậm chí trước khi kim tiêm chạm vào da.

Do đó, sự quen thuộc chắc chắn tạo ra sự mong đợi. Nhãn mác, đóng gói và sự trấn an của người chăm sóc có thể khiến chúng ta khỏe hơn. Nhưng giá cả thì sao? Liệu giá thuốc có ảnh hưởng tới phản ứng của chúng ta không?

Nếu chỉ căn cứ vào giá cả, thì chúng ta dễ dàng nhận thấy một chiếc đi-văng 4.000 đô-la sẽ thoải mái hơn một chiếc 400 đô-la. Nhưng liệu sự khác biệt về chất lượng có ảnh hưởng tới trải nghiệm thật sự, và ảnh hưởng đó có áp dụng đối với các trải nghiệm khách quan như các phản ứng của chúng ta đối với dược phẩm hay không?

Ví dụ, liệu một loại thuốc giảm đau ít tiền sẽ không tác dụng bằng loại đắt tiền hơn không? Bệnh cảm lạnh mùa đông có tệ hơn khi bạn dùng thuốc giảm giá thay vì loại đắt tiền không? Nói cách khác, thuốc có giống đồ ăn Trung Quốc, ghế bành và dụng cụ làm việc không? Chúng ta có thể thừa nhận rằng giá cao đồng nghĩa với chất lượng cao hơn không và sự mong đợi của chúng ta có biến thành hiệu quả khách quan của sản phẩm không?

Đây là một câu hỏi đặc biệt quan trọng. Thực tế, bạn có thể xoay sở được với đồ ăn Trung Quốc ít tiền hơn. Nhưng liệu bạn có muốn mặc cả khi nó liên quan tới vấn đề sức khỏe của mình không? Liệu có nhiều người trong chúng ta sẽ chắt bóp từng xu khi mạng sống đang gặp nguy hiểm không? Không – chúng ta luôn muốn cái tốt nhất cho bản thân, gia đình và những người ta yêu thương.

Nếu chúng ta muốn cái tốt nhất cho bản thân, thì liệu một loại thuốc đắt tiền có làm chúng ta cảm thấy khá hơn một loại thuốc ít tiền hơn không? Liệu chi phí có tạo nên sự khác biệt về cảm giác của chúng ta không? Đó chính là điều Rebecca Waber (sinh viên tốt nghiệp MIT), Baba Shiv (Giáo sư tại Standford), Ziv Carmon và tôi quyết định tìm ra trong hàng loạt các thí nghiệm vài năm trước.

Hãy tưởng tượng bạn đang tham gia một thí nghiệm để kiểm tra tính hiệu quả của loại thuốc giảm đau mới tên là Veldone-Rx. (Trên thực tế, thí nghiệm này có sự tham gia của 100 cư dân Boston, nhưng lúc này, chúng tôi muốn bạn thế vào chỗ của họ).

Khi bạn tới MIT Media Laboratory (Cơ quan Nghiên cứu Truyền thông, thuộc Học viện Công nghệ Massachusetts), Taya Leary, một phụ nữ trẻ, ăn mặc diêm dúa, đại diện của Công ty dược Vel Pharmaceuticals sẽ nồng nhiệt chào đón bạn. Cô sẽ mời bạn dành một chút thời gian để đọc quyển giới thiệu về Veladone-Rx. Nhìn xung quanh, bạn thấy căn phòng trông giống một phòng thuốc: bản copy cũ các tờ Time và Newsweek được đặt rải rác khắp nơi; các quyển giới thiệu Veladone-Rx được trải ra trên mặt bàn; và gần đó là một chiếc cốc đựng bút, trên đó có hình logo đẹp mắt của loại thuốc này. Bạn đọc được dòng chữ: “Veladone là một loại dược phẩm mới trong dòng thuốc oipioid. Các nghiên cứu lâm sàng cho thấy trên 92% bệnh nhân dùng Veladone có kiểm soát giảm đáng kể cơn đau chỉ trong 10 phút, và việc giảm đau kéo dài 8 giờ đồng hồ.” Giá của nó là bao nhiêu? Theo tờ quảng cáo, 2,50 đô-la cho một liều duy nhất.

Ngay khi bạn đọc quyển giới thiệu, Rebecca Waber vào trong phòng và hỏi bạn một số câu hỏi về tình trạng y tế và tiền sử bệnh của gia đình. Cô nghe nhịp tim và đo huyết áp cho bạn. Sau đó, cô ấy nối bạn với một cái máy trông có vẻ phức tạp. Các điện cực chạy từ chiếc máy đó, được bôi trơn bằng một thứ gel màu xanh lá cây, quấn vòng quanh cổ tay bạn. Cô giải thích đây là máy tạo sốc điện giúp kiểm tra sự cảm nhận và sức chịu đau của bạn.

Đặt tay lên công tắc, Rebecca truyền một loạt các sốc điện qua đường dây vào các điện cực. Cơn sốc ban đầu chỉ gây khó chịu, sau đó là gây đau đớn và cuối cùng là đau đến nỗi mắt bạn mở trừng trừng và tim bạn bắt đầu đập gấp gáp. Rebecca ghi lại các phản ứng này. Sau đó, cô gây một loạt các sốc điện mới. Lần này, cô cho một bộ sốc điện dao động ngẫu nhiên về cường độ: một số thì rất đau và một số chỉ gây khó chịu. Sau mỗi lần, bạn được yêu cầu ghi lại mức độ đau đớn mà bạn cảm nhận được bằng cách sử dụng máy tính trước mặt. Bạn dùng chuột nhấn vào các mức độ từ “không đau chút nào” cho tới “cơn đau kinh khủng nhất có thể tưởng tượng được” (cái này được gọi là thang đo mức độ cơn đau “visual pain analog”).

Tiếp theo, Rebecca đưa cho bạn viên Veladone, một cốc nước và nói: “Sẽ mất khoảng 15 phút để thuốc đạt hiệu quả cao nhất.” Bạn uống thuốc, đi tới một cái ghế ở góc phòng và chờ cho đến khi thuốc phát huy tác dụng.

Mười lăm phút sau, bạn được nối với cái máy, và các cú sốc bắt đầu. Như lần trước, bạn ghi lại cường độ cơn đau sau mỗi lần sốc. Nhưng lần này thì khác. Đó hẳn là do tác dụng của Veladone-Rx! Cơn đau có vẻ đã giảm đi rất nhiều. Bạn rời phòng thí nghiệm với một đánh giá khá cao dành cho Veladone.

Đó là điều mọi người tham gia cảm thấy. Hầu như tất cả đều cho biết nhờ thuốc Veladone, họ thấy ít đau hơn khi trải qua các cơn sốc điện. Và điều thú vị là Veladone chỉ là một viên vitamin C.

Từ thí nghiệm này, chúng tôi nhận thấy viên thuốc của mình thật sự đã có tác dụng trấn an. Nhưng giả sử chúng tôi giảm giá một viên Veladone-Rx từ 2,50 đô-la xuống chỉ còn 10 xu, liệu những người tham gia có phản ứng khác không?

Trong thí nghiệm tiếp theo, chúng tôi thay đổi quyển giới thiệu, xóa đi giá ban đầu (2,50 đô-la/viên) và đưa vào mức giá mới, giảm xuống còn 10 xu. Điều này đã làm thay đổi phản ứng của những người tham gia. Với giá 2,50 đô-la, hầu hết những người tham gia đều cảm thấy cơn đau giảm đi nhờ thuốc. Nhưng khi mức giá giảm xuống còn 10 xu, chỉ một nửa số họ cảm thấy như vậy.

Ngoài ra, kết quả còn cho thấy mối quan hệ giữa giá và tác dụng trấn an không giống nhau ở tất cả mọi người. Với những người đã trải qua nhiều đau đớn trước đó hơn, nghĩa là phụ thuộc nhiều vào các loại thuốc giảm đau hơn, thì mối quan hệ được thể hiện rõ hơn: họ nhận được ít lợi ích hơn khi giá được khấu trừ.

Vô tình, chúng tôi có được các kết quả làm vững thêm kết luận của mình trong một nghiên cứu thực hiện vào mùa đông tại Đại học Iowa. Chúng tôi yêu cầu một nhóm sinh viên theo dõi xem họ dùng loại thuốc nguyên giá hay giảm giá cho những lần cảm lạnh theo mùa của mình, và theo đó, các loại thuốc phát huy tác dụng như thế nào. Vào cuối kỳ, 13 người tham gia nói rằng họ trả theo giá niêm yết và 16 người mua loại được giảm giá. Vì thế, với loại thuốc chữa cảm lạnh bán công khai, những gì bạn trả thường là những gì bạn nhận được.

Từ những thí nghiệm của về “các loại thuốc”, chúng ta đã thấy giá cả điều khiển hiệu quả trấn an như thế nào. Nhưng giá cả có ảnh hưởng tới các sản phẩm tiêu dùng hàng ngày không? Chúng tôi tìm được đối tượng hoàn hảo là SoBe Adrenaline Rush, một loại nước giải khát hứa hẹn sẽ “cải thiện trận đấu” và mang tới “khả năng cao hơn”.

Trong thí nghiệm đầu tiên, chúng tôi bán nước SoBe tại lối vào phòng thể dục của trường đại học. Nhóm sinh viên đầu tiên trả mức giá thông thường cho loại đồ uống này. Nhóm thứ hai, mức giá được giảm xuống chỉ bằng 1/3 mức giá thông thường. Sau khi các sinh viên tập thể dục, chúng tôi quan sát họ cảm thấy mệt hơn hay đỡ mệt hơn so với những buổi luyện tập thông thường. Cả hai nhóm uống SoBe đều nói rằng họ thấy đỡ mệt hơn bình thường đôi chút. Điều đó có vẻ hợp lý, đặc biệt khi xét tới lượng lớn cafein trong mỗi chai SoBe.

Nhưng điều mà chúng tôi theo đuổi là tác dụng của giá cả chứ không phải tác dụng của cafein. Liệu loại SoBe giá cao hơn có giảm mệt mỏi tốt hơn loại SoBe được giảm giá không? Câu trả lời là có. Những sinh viên uống loại có giá cao hơn cho biết mình thấy ít mệt mỏi hơn so với những sinh viên dùng loại được giảm giá.

Kết quả này thật đáng ngạc nhiên, nhưng chúng chỉ dựa vào ấn tượng của người tham gia về tình trạng của chính mình. Vậy làm sao chúng tôi có thể kiểm tra SoBe trực tiếp và khách quan hơn? Chúng tôi tìm ra một cách: SoBe tuyên bố cung cấp “năng lượng cho trí não của bạn”. Và chúng tôi quyết định kiểm tra tuyên bố đó bằng cách sử dụng một loạt các phép đảo.

Một nửa số sinh viên sẽ mua SoBe với giá niêm yết và nửa còn lại sẽ mua với giá giảm. Sau khi mua đồ uống, các sinh viên này được yêu cầu xem một bộ phim trong vòng 10 phút (chúng tôi giải thích là để nước phát huy tác dụng). Sau đó, chúng tôi đưa cho mỗi người một câu đố 15 từ và họ có 30 phút để giải càng nhiều càng tốt. (Ví dụ, khi nhận được nhóm chữ cái TUPPL, những người tham gia phải sắp xếp chúng lại thành PULPIT (linh mục) – hoặc họ sẽ phải sắp xếp lại FRIVEY, RANCOR và SVALIE…).

Chúng tôi cũng đưa bài kiểm tra từ vựng đó cho một nhóm sinh viên không uống SoBe. Nhóm này có mức trả lời đúng trung bình là 9/15.

Điều gì xảy ra khi chúng tôi đưa các câu đố cho những sinh viên có uống SoBe? Những sinh viên mua với giá niêm yết cũng có kết quả đúng trung bình là 9/15. Nhưng ngạc nhiên hơn là câu trả lời từ nhóm uống SoBe giảm giá: trung bình có 6.5/15. Chúng ta có thể rút ra được kết luận gì từ điều này? Giá cả thật sự làm nên sự khác biệt.

SoBe không làm ai thông minh hơn cả. Vậy có phải bản thân sản phẩm này chỉ như một anh chàng có vẻ bề ngoài đẹp đẽ (ít nhất là đối với việc giải câu đố từ vựng)? Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi đã thiết kế một bài kiểm tra khác. Trên bìa cuốn câu đố in dòng chữ: “Các loại đồ uống như SoBe đã cho thấy có thể cải thiện chức năng thần kinh, cải thiện thành tích trong những nhiệm vụ như giải câu đố”. Chúng tôi cũng đưa thêm vào một vài thông tin hư cấu nói rằng website của SoBe có đề cập tới hơn 50 nghiên cứu khoa học minh chứng cho các tuyên bố của mình.

Chuyện gì sẽ xảy ra? Nhóm mua giá niêm yết vẫn làm tốt hơn những người mua giá giảm. Nhưng thông điệp được in trên bìa cuốn câu đố cũng phát huy một số ảnh hưởng. Cả nhóm mua giá niêm yết và giá giảm, sau khi nhận thông điệp đã làm tốt hơn nhóm nhận được cuốn câu đố mà không có thông điệp trên bìa. Khi chúng tôi cường điệu về loại đồ uống này bằng cách nói rằng 50 nghiên cứu đã cho thấy, SoBe có thể cải thiện chức năng thần kinh, những người mua theo giá giảm đã nâng cao kết quả của mình (trong việc trả lời thêm các câu hỏi) thêm 0,6 câu, những người mua với giá niêm yết cải thiện thêm 3,3 câu hỏi. Nói cách khác, thông điệp trên vỏ chai (và bìa cuốn câu đố) cũng như giá, rõ ràng có sức mạnh hơn thứ nước đựng bên trong nó.

Vậy có phải chúng ta phải chịu số phận bi đát vì nhận được ít lợi ích hơn mỗi lần được giảm giá không? Khi nhìn một món hàng giảm giá, chúng ta sẽ cho rằng chất lượng của nó thấp hơn một món hàng đúng giá. Vậy đâu là giải pháp? Nếu chúng ta dừng lại và đối chiếu một cách lý trí giữa sản phẩm và giá cả, liệu chúng ta có thể phá bỏ định kiến cho rằng chất lượng bị khấu trừ theo mức giá được giảm không.

Chúng tôi đã kiểm chứng điều này trong hàng loạt các thí nghiệm và thấy rằng những người tiêu dùng suy nghĩ nghiêm túc về mối quan hệ giữa giá cả và chất lượng, thì ít có khả năng cho rằng một loại nước uống giảm giá có ít hiệu quả hơn.

Chúng ta vừa xem giá cả điều khiển tác dụng của giả dược, thuốc giảm đau và nước tăng lực như thế nào. Nhưng sau đây là một suy nghĩ khác. Nếu giả dược có thể làm chúng ta khỏe hơn, thì có nên chỉ việc ngồi lại và tận hưởng không? Hay giả dược rõ ràng là xấu – thứ giả mạo nên bị loại bỏ, cho dù chúng làm ta cảm thấy tốt hay không? Trước khi bạn trả lời câu hỏi này, hãy để tôi đưa ra sự đặt cược. Giả sử bạn tìm ra một loại giả dược hoặc một thủ thuật trấn an không chỉ làm bạn cảm thấy tốt hơn mà còn làm thể chất của bạn khỏe hơn. Bạn sẽ vẫn sử dụng nó chứ? Sẽ thế nào nếu bạn là bác sỹ? Bạn có kê đơn thuốc giả dược không?

Vào năm 800 sau công nguyên, Giáo hoàng Leo III trao vương miện cho Hoàng đế La Mã Charlemagne, do đó tạo ra một mối liên hệ trực tiếp giữa nhà thờ và nhà nước. Kể từ đó, các Hoàng đế La Mã thần thánh, theo sau là các quốc vương châu Âu, được thấm nhuần vòng hào quang thần thánh. Cũng từ đó xuất hiện thuật ngữ “cái chạm của nhà vua” – một cách chữa bệnh cho mọi người. Theo ghi chép của các nhà sử học, trong suốt thời kỳ trung cổ, các vị vua vĩ đại thường đi xuyên qua đám đông, ban phát sự động chạm đó. Ví dụ, Vua Charles II của Anh (1630-1685) đã chạm vào khoảng 100.000 người trong thời gian trị vì của mình.

Được nhà vua chạm vào người có tác dụng thật sự không? Trong lịch sử, người ta nói nó đã cứu chữa được cho hàng nghìn người. Bệnh tràng nhạc (có khả năng là một dạng lao), loại bệnh gây biến dạng, bị xã hội xa lánh và thường bị nhầm với bệnh phong, được cho là có thể chữa khỏi nhờ sự đụng chạm của nhà vua. Shakespeare viết trong tác phẩm Macbeth: “Những người mắc phải những căn bệnh lạ lùng, tất cả đều đáng ghét và lở loét, đáng thương trong mắt mọi người… Khoác vào những lời cầu nguyện thần thánh và thế là nó được thực hiện, kinh tạ ơn chữa lành”. Điều này tiếp tục cho đến thập kỷ 1820, thời điểm vua chúa không còn được coi là thiên tử nữa và các tiến bộ “mới, cải tiến” về loại thuốc mỡ làm từ xác ướp Ai Cập khiến cho cái chạm của nhà vua trở nên lỗi thời.

Khi nghĩ tới tác dụng của giả dược, mọi người thường cho đó “chỉ là tâm lý”. Nhưng trong thực tế, sức mạnh của giả dược thật đáng kinh ngạc. Nó có tác dụng làm giảm mức độ căng thẳng, thay đổi số lần tiết hooc-môn, thay đổi hệ miễn dịch, v.v…

Trong thực tế, các bác sỹ luôn cung cấp giả dược. Ví dụ, một nghiên cứu được tiến hành năm 2003 phát hiện ra rằng hơn 1/3 số bệnh nhân nhận thuốc kháng sinh điều trị viêm họng sau này được phát hiện ra là nhiễm virus và một liều kháng sinh là không tốt (có thể góp phần làm tăng số nhiễm khuẩn kháng thuốc đe dọa toàn bộ chúng ta). Nhưng bạn có nghĩ rằng các bác sỹ sẽ ngừng việc kê cho chúng ta thuốc kháng sinh khi chúng ta bị cảm do virut không? Ngay cả khi các bác sỹ biết rằng cảm lạnh là do virut chứ không phải vi khuẩn gây ra và người bệnh muốn thứ gì đó để giảm bệnh hay mong đợi sẽ bước ra khỏi phòng khám với một đơn thuốc. Liệu có đúng không khi bác sỹ đáp ứng nhu cầu tinh thần này?

Thực tế, các bác sỹ luôn kê các loại giả dược nhưng không có nghĩa là họ muốn làm điều này. Họ đã được đào tạo để trở thành người của khoa học, những người phải hướng tới các công nghệ y học hiện đại nhất để tìm câu trả lời. Họ muốn nghĩ mình là những người cứu chữa thật sự, không phải những kẻ hành nghề bằng tà thuật. Vì vậy, có thể vô cùng khó khăn để họ thừa nhận với chính bản thân rằng công việc của họ có thể bao gồm cả việc cải thiện sức khỏe nhờ tác dụng trấn an.

Và đây là một câu hỏi khác về cam kết quốc gia của Mỹ với vấn đề chăm sóc sức khoẻ. Mỹ đã chi dùng mức GDP bình quân đầu người cho chăm sóc y tế cao hơn bất kỳ quốc gia phương Tây nào khác. Làm sao chúng ta giải quyết được thực tế, loại thuốc đắt tiền (aspirin giá 50 xu) có thể làm mọi người cảm thấy khỏe hơn loại thuốc rẻ tiền hơn (aspirin giá 1 xu)? Chúng ta có chiều theo sự phi lý của mọi người, và do đó sẽ nâng các chi phí chăm sóc sức khoẻ không? Làm thế nào chúng ta có thể cung cấp các loại thuốc giảm giá cho các nhóm cư dân gặp khó khăn mà không khiến việc điều trị trở nên kém hiệu quả hơn? Đây là một vấn đề phức tạp.

Là một nhà khoa học, tôi đánh giá cao các thí nghiệm kiểm tra niềm tin và tính hiệu quả của các cách điều trị khác nhau. Các thí nghiệm, đặc biệt là các thí nghiệm có liên quan đến giả dược, đặt ra nhiều câu hỏi đạo đức quan trọng. Có sự phản đối kịch liệt đối với việc thực hiện các phẫu thuật giả trên người bệnh.

Người ta cho rằng việc phải hy sinh tình trạng khỏe mạnh và thậm chí, cả mạng sống của một vài cá nhân để biết liệu một thủ thuật nào đó có nên được dùng trên người khác trong tương lai không là điều khó chấp nhận.

Mặt khác, việc tiến hành thí nghiệm giả có thể khiến hàng trăm hoặc hàng nghìn người trải qua những cuộc phẫu thuật vô ích (nhưng mạo hiểm). Ở Mỹ, rất ít các thủ thuật mổ được kiểm tra chặt chẽ. Vì lý do đó, chúng ta không biết nhiều phẫu thuật có thật sự hiệu quả không hay chúng chỉ có tác dụng trấn an.

Khi tôi nằm viện được hai tháng thì bác sỹ trị liệu tới gặp tôi với tin hấp dẫn. Có một loại quần áo công nghệ có tên là Jobst chuyên dành cho những người như tôi. Nó mỏng như da, có tác dụng gia tăng áp suất vào lớp da ít ỏi còn lại của tôi, giúp da lành lặn nhanh hơn. Cô ấy nói rằng nó được làm tại nhà máy ở Mỹ và Ireland. Tại đây tôi sẽ nhận được một bộ vừa khít với mình gồm: quần, áo sơ mi, găng tay và mặt nạ đeo trên mặt. Nó sẽ ép sát vào da tôi và khi di chuyển, bộ Jobst sẽ nhẹ nhàng mát-xa làn da, làm những vết đỏ và sự phát triển của các vết sẹo giảm xuống.

Tôi thấy vô cùng hứng khởi. Shula, bác sỹ vật lý trị liệu, thường nói cho tôi nghe về Jobst tuyệt vời thế nào. Có nhiều màu sắc ra sao. Tôi tưởng tượng ra hình ảnh của mình được bao phủ từ đầu tới chân trong một lớp da căng, màu xanh da trời giống như Người nhện vậy. Nhưng Shula cảnh báo tôi là chỉ có màu nâu cho người da trắng, màu đen cho người da đen. Người ta đã từng gọi cho cảnh sát khi có một người dùng mặt nạ Jobst bước vào ngân hàng vì nghĩ đó là kẻ cướp. Vì vậy, khi nhận được mặt nạ từ nhà máy, tôi phải đeo một tấm biển trên ngực để giải thích tình trạng của mình.

Khi tưởng tượng ra lớp bao phủ này, tôi cảm thấy mình có thể chịu đựng bất kỳ sự đau đớn nào. Cuối cùng thì nó cũng tới. Shula giúp tôi mặc bắt đầu với chiếc quần. Cảm giác không giống như những gì tôi tưởng tượng mà giống tấm vải bạt sắp xé toạc các vết sẹo thì đúng hơn. Tôi vẫn không vì thế mà tan vỡ ảo tưởng. Tôi muốn biết cảm giác khi hoàn toàn nằm trong bộ trang phục đó.

Vì tôi đã lên cân một chút kể từ khi người ta đo kích thước của tôi (họ cho tôi ăn 7.000 calo và 30 quả trứng mỗi ngày để giúp cơ thể tôi mau lành lại) nên bộ Jobst khá chật. Chiếc áo sơ mi dài tay gây ra một áp lực rất lớn lên ngực, vai và cánh tay. Chiếc mặt nạ lúc nào cũng ép mạnh. Chiếc quần dài kéo từ ngón chân lên tới rốn. Có cả găng tay nữa. Phần duy nhất có thể nhìn thấy ở tôi là các đầu ngón chân, mắt, tai và miệng.

Áp lực ngày càng tăng sau mỗi phút. Hơi nóng bên trong thì thật ngột ngạt. Lượng máu tới đây thường ít, nhưng hơi nóng làm máu chạy tới các vết sẹo, khiến chúng đỏ và còn ngứa hơn. Ngay cả tấm biển cảnh báo mọi người rằng tôi không phải là một tên cướp ngân hàng được viết bằng tiếng Anh (không phải tiếng Hebrew) cũng không hề có tác dụng. Tôi thất vọng tràn trề và cố thoát ra khỏi bộ đồ đó. Người ta đo lại số đo và gửi tới Ireland để đặt một bộ Jobst vừa vặn hơn cho tôi.

Tuy nhiên, bộ mới cũng không khá hơn. Tôi phải chịu đựng cách điều trị này hàng tháng trời – ngứa ngáy, đau đớn, vật lộn để mặc được nó vào. Khi cố gắng mặc, làn da non mỏng manh của tôi bị xé toạc, lại phải mất một thời gian dài để chúng lành lại. Tôi nhận ra là bộ quần áo này không đem lại lợi ích gì cả. Sự chịu đựng là tất cả những gì nó đem lại cho tôi.

Bạn thấy đấy, việc bắt bệnh nhân khoa bỏng tham gia vào một thí nghiệm để kiểm tra hiệu quả của những bộ quần áo kiểu như vậy là rất vô lý. Thậm chí, sẽ nhẫn tâm hơn nếu bắt nhiều bệnh nhân phải chịu đựng những cách điều trị đau đớn trong nhiều năm, mà không có một lý do chính đáng nào.

Chúng ta có nên kiểm tra tất cả các thủ thuật và tiến hành các thí nghiệm giả dược không? Sự khó xử về mặt đạo đức liên quan tới các thí nghiệm y khoa và giả dược là có thực. Các lợi ích của những thí nghiệm này nên được cân nhắc cẩn thận để không gây những hậu quả nghiêm trọng.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.