Sức Mạnh Của Hiện Tại
CHƯƠNG 9 SỰ AN LẠC THANH THẢN VƯỢT LÊN TRÊN HẠNH PHÚC VÀ BẤT HẠNH
Điều tốt lành cao cả vượt lên trên tốt và xấu
Có sự khác biệt giữa hạnh phúc và sự an lạc thanh thản nội tại không?
Có. Hạnh phúc lệ thuộc vào các điều kiện được xem là tích cực; còn sự an lạc thanh thản nội tại thì không.
Phải chăng không thể lôi cuốn được chỉ các điều kiện tích cực vào cuộc sống của chúng ta? Nếu thái độ và suy nghĩ của chúng ta luôn luôn tích cực, thì chẳng phải chúng ta sẽ chỉ gặp phải những biến cố và huống tích cực thôi sao?
Bạn có thực sự biết tích cực là gì và tiêu cực là gì không? Bạn có hình dung được bức tranh toàn cảnh không? Đối với nhiều người thì sự hạn chế, thất bại, mất mát, bệnh tật, hay đau khổ dưới bất kỳ hình thức nào hóa ra cũng sẽ là người thầy vĩ đại nhất của họ. Các bất lợi đó dạy họ bỏ đi hình ảnh giả tạo về cái tôi cùng với những mục tiêu và mong cầu hời hợt giả tạo về cái tôi cùng với những mục tiêu và mong cầu hời hợt do cái tự ngã hư ngụy ấy đòi hỏi. Chúng đem lại cho họ sự sâu sắc, tính khiêm cung, và lòng trắc ẩn. Chúng làm cho họ sống thực hơn.
Bất cứ khi nào có điều gì tiêu cực xảy ra cho bạn, bên trong nó luôn ẩn giấu một bài học sâu sắc, mặc dù lúc ấy ban có thể không nhìn ra được. Ngay một cơn bệnh nhẹ hay một tai nạn nhỏ cũng có thể chỉ cho bạn biết cái gì là thực và cái gì là phi thực trong cuộc sống của bạn, cái gì lá tuyệt đối quan trọng và cái gì là không.
Nhìn từ một góc độ cao hơn, các hoàn cảnh luôn luôn mang tính tích cực. Nói chính xác hơn, chúng không hề tích cực hay tiêu cực. Chúng là như thế. Và khi bạn sống với sự chấp nhận hoàn toàn cái đang là – vốn là cách sống lành mạnh duy nhất – sẽ chẳng có “tốt” hay “xấu” trong cuộc sống của bạn nữa. Chỉ có cái tốt ở mức độ cao hơn – nó bao hàm cả “cái xấu” nữa. Tuy nhiên, nếu nhìn từ góc độ tâm trí, sẽ có những cặp lưỡng phân đối đãi như tốt – xấu, thích – không thích, và yêu – ghét chẳng hạn. Vì thế, sách Sáng Thế Ký kể lại rằng Adam và Eva không còn được phép cư ngụ ở “thiên đàng” nữa khi họ “đã ăn trái cây hiểu biết thiện và ác”.
Đối với tôi điều này giống như sự phủ nhận và tự lừa dối vậy. Khi có điều gì đó chủng khiếp xảy ra cho tôi hay cho ai đó thân cận với tôi – như tại nạn, bệnh tật, đau khổ nào đó, hay cái chết – tôi có thể giả vờ rằng điều đ1o không có gì xấu cả, nhưng thục ra điều đó là xấu. Vậy tại sao tôi lại phủ nhận chứ?
Bạn không giả vờ gì cả. Bạn đang để cho nó hiện hữu như nó đang là, chỉ có thế thôi. Hành động “để cho nó hiện hữu” đưa bạn vượt qua tâm trí cùng với các khuôn mẫu phản kháng của nó vốn đã tạo ra các cặp lưỡng phân đối đã tích cực và tiêu cực. Đây là khía cạnh cốt yêu của lòng khoan dung. Và khoan dung với hiện tại thậm chí còn quan trọng hơn khoan dung với quá khứ. Nếu bạn biết khoan dung từng khoảnh khắc – tức là để cho nó hiện hữu như nó đang là – sẽ không có sự tích lũy oán giận để sau này lại phải khoan thứ.
Nên nhớ rằng ở đây chúng ta không đề cập đến hạnh phúc. Chẳng hạn, khi một người thân yêu vừa qua đời, hay bạn cảm thấy cái chết của chính mình đang đến gần, bạn không thể hạnh phúc được. Điều này là bất khả. Nhưng bạn vẫn có thể thanh thản. Có thể có nỗi buồn và nước mắt, nhưng nếu bạn giũ bỏ dược sự phản kháng, thì bên dưới nỗi buồn ấy bạn sẽ cảm nhận được sự thanh thản sâu xa, sự tĩnh lặng, và sự hiện trú thiêng liêng. Đây chính là sự lan tỏa của Bản thể hiện tiền, đây chính là sự an bình nội tại, là điều tốt không có đối cực.
Điểu gì sẽ xảy ra nếu cái đang hiện hữu là tình huống tôi có thể làm điều gì đó cho nó? Làm sao tôi có thể để cho nó hiện hữu mà đồng thời có thể thay đổi nó được?
Hãy làm những gì bạn phải làm. Trong lúc đó, hãy chấp nhận cái đang là. Với vỉ tâm trí và sự phản kháng vốn đồng nghĩa, cho nên chấp nhận sẽ tức thời giải thoát bạn khỏi ách thống trị của tâm trí, và do đó tái kết nối bạn với Bản thể hiện tiền. Hậu quả là các động cơ để “hành động” thường lệ của tự ngã hư ngụy – tức là sợ hãi, tham lam, háo thắng, tự biên minh hay tìm cách nuôi dưỡng cảm thức tải tạo về cái tôi – sẽ ngừng tác động. Cái linh giác vĩ đại hơn tâm trí này giờ đây đã nhập cuộc,và vì thế một phẩm chất ý thức khác biệt hẳn sẽ tuôn chảy vào hành động của bạn.
“Hãy chấp nhận bất cứ việc gì xảy đến vốn đã được an bài trong khouôn mẫu số mệnh của bạn, bởi vì điều gì còn có thể đáp ứng thích đáng hơn cho các nhu cầu của bạn?”. Đây là danh ngôn đã được viết ra khoảng hai ngàn năm trước bởi Marcus Aurelius, một trong những nhân vật cực kỳ hiếm hoi đã từng sở hữu mọi quyền lực cũng như minh triết của thế gian.
Dường như hầu hết mọi người đều cần phải trải nghiệm vô vàn khổ đau, thì họ mới buông bỏ được sự phản kháng để chấp nhận cái đang là – lúc ấy họ mới có lòng khoan dung. Ngay khi làm như thế, một trong các điều kỳ diệu vĩ đại nhất sẽ xảy ra: đó là sự thức tỉnh của ý thức về Bản thể hiện tiền thông qua những việc tưởng chừng như là tệ hại, đó là sự chuyển hóa đau khổ thành sự thanh thản nội tại. Tác dụng tối hậu của tất cả mọi xấu xa và đau khổ trên thế gian này sẽ thúc đẩy mọi người phải nhận diện cho được con người đích thực vượt ra ngoài danh xưng và hình tướng của họ. Do đó, điều chúng ta nhận định là xấu xa từ góc độ hạn chế của mình thực ra là một phần của cái tốt cao cả hơn, của cái tốt không có đối cực. Tuy nhiên, tình hình này sẽ không thành hiện thực đối vối bạn nếu như bạn không có lòng khoan thứ. Cho đến lúc ấy, điều xấu xa vẫn chưa được cứu chuộc, và do đó vẫn cứ là xấu xa.
Thông qua lòng khoan dung, tức là nhận ra được tính phi thực của quá khứ và để cho khoảnh khắc hiện tại được hiện hữu như nó đang là, phép lạ chuyển hóa sẽ xảy ra không chỉ ở bên trong bạn mà còn cả ở thế giới bên ngoài nữa. Khoảng không gian tĩnh lặng của hiện trú toàn triệt dấy khởi bên trong bạn và bao bọc chung quanh bạn. Bất cứ ai hay bất cứ điều gì tiến vào trường ý thức đó đểu sẽ bị nó ảnh hưởng, đôi khi rõ ràng và tức thời, đôi khi ở bình diện sâu thẳm mà sự thay đổi thấy được sẽ xảy ra về sau này. Bạn xóa tan nỗi bất hòa, chữa lành đau khổ, xua đi vô minh – không cần phải làm gì cả – chỉ cần lưu trú ở hiện tiền và thường xuyên giữ được trạng thái hiện trú toàn triệt đó.
Chấm dứt bi kịch cuộc đời của bạn
Trong trạng thái chấp nhận và thanh thản nội tại đó, mặc dù ông không thể gọi là “xấu”, còn có điều gì có thể xảy ra cho cuộc đời ông được gọi là “xấu” từ góc độ ý thức bình thường không?
Hầu hết những điều gọi là tệ hại hay xấu xa trong đời người đều do vô minh cả. Chúng tự tạo ra, hay đúng hơn đều do tự ngã hư ngụy tạo ra. Đôi khi tôi gọi những thứ đó là bi kịch. Khi bạn tỉnh thức trọn vẹn, bi kịch không còn xảy đến cho cuộc đời bạn nữa. Xin nhắc lại sơ qua về cách thức vận hành của tự ngã hư ngụy và cách nó tạo ra bi kịch như thế nào.
Tự ngã hay cái tôi hư ngụy chính là tâm trí vô hình điều động cuộc sống của bạn khi bạn khi không hiện trú như chủ thể quan sát có ý thức đang chứng kiến mọi việc. Cái tôi này nhận thức chính nó là một mảnh tách biệt trong vũ trụ đầy thù địch, không có mối liên kết nội tại thực sự nào với người khác, lại bị vây quanh bởi những cái tôi khác mà nó hoặc xem là mối đe dọa tiềm ẩn, hoặc là thứ mà nó sẽ ra sức lợi dụng để đạt được các mục tiêu của riêng nó. Các khuôn mẫu căn bản của tự ngã được vạch ra nhằm chiến đấu với nỗi sợ hãi sâu kín của nó và với cảm thức thiếu thốn cùng trống vắng của nó. Các khuôn mẫu này là phản kháng, háo thắng, ham quyền lực, tham lam, phòng thủ, và công kích. Một số chiến lược của tự ngã cực kỳ khéo léo, vậy mà chúng không bao giờ thực sự giải quyết được các vấn đề của nó, đơn giản vì tự bản thân nó – cái tôi – lại chính là vấn đề cần được giải quyết.
Khi các tự ngã hư ngụy đến với nhau, dù trong quan hệ cá nhân, trong các tổ chức, hay trong các định chế xã hội, thì sớm muộn gì các “điều xấu” cũng xảy ra: bi kịch, loại này hay loại kia cũng sẽ xuất hiện dưới hình thức xung đột, rắc rối, tranh giành quyền lực, bạo hành về tình cảm hay thể xác, và vân vân. Tình hình này bao gồm cả các điều xấu xa có tính tập thể như chiến tranh, diệt chủng, và bóc lột chẳng hạn – tất cả đều do vô minh tập thể mà ra. Hơn nữa, nhiều loại bệnh tật phát sinh cũng đều do sự phản kháng liên tục của tự ngã, gây ra sư hạn chế và tắc nghẽn dòng năng lượng luân lưu suốt cơ thể. Khi bạn tái kết nối với Bản thể hiện tiền và không còn bị chi phối bởi tâm trí, bạn sẽ ngưng tạo ra những thứ đó. Bạn không còn tạo ra hay tham dự vào vở bi kịch này nữa.
Bất cứ khi nào hai hay nhiều cái tôi giả tạo đến với nhau, thì bi kịch loại này hay loại khác nhất định sẽ xuất hiện. Nhưng ngay cả khi hoàn toàn ở một mình, bạn vẫn cứ tạo ra bi kịch cho chính mình. Khi bạn thấy thương xót cho bản thân, đó chính là bi kịch. Khi bạn cảm thấy tội lỗi hay lo âu ray rứt, đó chính là bi kịch. Khi bạn để cho quá khứ hay tương lai che khuất hiện tại, bạn đang tạo ra thời gian tâm lý – chính là chất liệu tạo ra bi kịch, khi nào bạn còn chưa tôn vinh khoảnh khắc hiện tại bằng cách để cho nó diễn ra, bạn đang tạo ra bi kịch.
Hầu hết, mọi người đều yêu thương cái bi kịch cuộc đời của riêng họ. Diễn biến trong quá khứ của họ được xem là chính bản thân họ, hình thánh cái tự ngã hư ngụy điều động cuộc sống của họ. Toàn bộ cảm nhận về cái tôi của họ đều được đầu tư vào cái bi kịch đó. Ngay cả nỗ lực – thường không thành công – tìm kiếm một lời đáp, một giải pháp, hay tìm cách chữa lành mọi đau khổ cũng trở thành một phần của bi kịch đó. Điều mà họ sợ hãi và phản kháng nhiều nhất chính là hồi kết thúc tấn bi kịch của họ. Bao lâu họ vẫn còn là tâm trí của họ, thì điều mà họ sợ hãi và phản kháng nhiều nhất chính là sự tỉnh thức của riêng họ.
Khi bạn sống trong sự chấp nhận hoàn toàn cái đang là, đó là lúc kết thúc toàn bộ bi kịch trong cuộc đời bạn. Thậm chí chẳng có ai có thể tranh cải được với một người hoàn toàn tỏ ngộ. Tranh cãi hàm ngụ đồng hóa với tâm trí và với một quan điểm nào đó, cũng như sự phản kháng và phản ứng chống lại quan điểm của người khác. Hậu quả là các đối cực cung cấp năng lượng lẫn cho nhau. Đây là cơ chế của vô minh, của sự mê muội. bạn vẫn có thể đưa ra ý kiến một cách minh bạch và kiên quyết, nhưng sẽ không có năng lượng phản ứng ở đằng sau nó, không có phòng thủ hay tấn công. Vì vậy, nó sẽ không biến thành bi kịch. Tác phẩm A Course in Miracles khẳng định rằng: “Không ai là một với chính mình lại có thể nghĩ đến xung đột”. Câu này đề cập không chỉ đến xung đột với người khác, mà căn bản còn đề cập đến sự xung đột bên trong bạn nữa. Sự xung đột này ngưng dứt khi không còn bất cứ va chạm vào giữa các đòi hỏi cùng kỳ vọng của tâm trí bạn với cái đang là.
Tính vô thường và các chu kỳ trong cuộc sống
Tuy nhiên, bao lâu bạn còn ở trong chiều kích vật chất và nối kết với linh hồn tập thể của nhân loại, thì đau đớn về thể xác – mặc dù hiếm hoi – vẫn có thể xảy ra. Không nên nhầm lẫn loại đau đớn này với đau khổ, với đau khổ về mặt tâm trí và về tình cảm. Tất cả mọi đau khổ đều do tự ngã hư ngụy tạo ra và do phản kháng gây nên. Cũng vậy, bao lâu bạn còn ở trong chiều kích này, bạn vẫn còn lệ thuộc vào bản chất chu kỳ của nó và vào qui luật vô thường của tất cả mọi sự vật, nhưng bạn không còn nhận định sự kiện này là tệ hại hay “xấu xa” nữa – nó chỉ đơn thuần đang hiện hữu.
Thông qua sự chấp nhận “tình trạng hiện hữu” của tất cả mọi sự vật, chiều kích sâu thẳm hơn bên dưới sự tác động của các đối cực tự hiển lộ ra cho bạn dưới dạng sự hiện trú lâu dài, sự tĩnh lặng sâu sắc và ổn định, niềm vui không nguyên cớ tự phát vượt lên trên cái tốt và cái xấu. Đây là niềm vui của Bản thể hiện tiền, niềm vui của Thượng đế.
Ở bình diện hình tướng, có sinh ra và chết đi, có sáng tạo và hủy hoại. Có sự tăng trưởng và tan vỡ của các hình tướng tưởng chừng như tách biệt nhau. Tình hình này được phản ảnh ở khắp mọi nơi: Trong chu kỳ đời sống của một ngôi sao hay hành tinh, một thân xác, một cội cây, một đóa hoa; trong sự thăng trầm của các quốc gia, các hệ thống chính trị, các nền văn minh; và trong các chu kỳ không thể tránh được của đắc và thất trong cuộc đời của một cá nhân.
Có các chu kỳ thành công, khi mọi việc xảy đến cho bạn rồi phát triển lên; và các chu kỳ thất bại, khi chúng héo tàn hay tan rã, và bạn phải buông bỏ chúng nhằm mục đích tạo ra khoảng trống cho các sự việc mới phát sinh, hay để cho sự chuyển hóa xảy ra. Nếu bạn cố chấp phản kháng sự thật đó, tức là bạn từ chối xuôi theo dòng đời, và bạn sẽ gánh chịu đau khổ.
Không chắc rằng chu kỳ thăng tiến là tốt và chu kỳ suy thoái là xấu, ngoại trừ theo sự phán xét của tâm trí. Tăng trưởng thường được xem là tích cực, nhưng không thứ gì có thể tăng trưởng mãi mãi. Nếu tăng trưởng, dù thuộc bất kỳ chủng loại nào, có phải tiếp diễn không ngừng, thì sau cùng nó cũng sẽ trở nên kỳ quái và có tính phá hoại. Sự tan hoại là cần thiết để cho sự tăng trưởng mới mẻ xảy ra. Sự kiện này không thể tồn tại nếu không có sự kiện kia.
Chu kỳ suy thoái tuyệt đối cần thiết cho sự hiện thực tâm linh. Bạn hẳn đã thất bại nặng nề ở bình diện nào đó hay đã kinh qua tổn thất hay đau khổ sâu sắc mới đạt được chiều kích tâm linh. Hoặc có lẽ chính thành công của bạn trở nên trống rỗng và vô nghĩa, và do đó hóa ra thất bại. Thất bại tiềm phục trong mỗi thành công, và thành công nằm ẩn trong mỗi thất bại. Trong thế gian này, tức là ở bình diện hình tướng, dĩ nhiên mọi người sớm muộn gì cũng “thất bại”, và mọi thành tựu cuối cùng cũng biến thành số không. Tất cả mọi hình tướng đều vô thường.
Bạn vẫn có thể chủ động và thấy vui thích khi xuất trình cũng như sáng tạo ra các hình tướng và tình huống mới mẻ, nhưng bạn sẽ không bị đồng hóa với chúng. Bạn không cần đến chúng đem lại cho bạn cảm nhận về cái tôi của mình. Chúng không phải là sự sống của bạn – chúng chỉ là hoàn cảnh sống của bạn thôi.
Năng lượng thể xác của bạn cũng lệ thuộc vào các chu kỳ. Nó không thể luôn luôn ở đỉnh cao. Sẽ có những lúc năng lượng ấy hạ thấp cũng như lên cao. Sẽ có những lúc năng lượng ấy hạ thấp cũng như lên cao. Sẽ có những thời kỳ mọi việc dường như đình trệ, dường như bạn chẳng tiến được đến đâu, chẳng thành tựu gì cả. Đối với bất cứ việc gì, một chu kỳ có thể kéo dài trong thời gian từ vài giờ đến vài năm. Có những chu kỳ lớn và các chu kỳ nhỏ bên trong các chu kỳ lớn. nhiều căn bệnh nảy sinh do sự chiến đấu chống lại các chu kỳ năng lượng hạ thấp, vốn tuyệt đối cần thiết cho việc phục hồi năng lượng. Sự cưỡng bách phải hành động, và khuynh hướng tìm kiếm cảm thức về giá trị bản thân và cái tôi của bạn từ các nhân tố bên ngoài như sự thành tựu chẳng hạn, đều là ảo tưởng không thể tránh được bao lâu bạn còn đồng hóa với tâm trí của mình. Tình hình này khiến cho bạn thấy khó lòng hay không thể chấp nhận được các chu kỳ năng lượng hạ thấp và cho phép chúng hiện hữu. Do đó, linh giác sinh vật mới có thể nắm quyền chi phối dưới dạng một biện pháp tự bảo vệ và gây ra một căn bệnh nhằm buộc bạn phải dừng lại, để cho sự phục hồi cần thiết có thể diễn ra.
Bản chất chu kỳ của vũ trụ liên quan mật thiết với tính vô thường của tất cả mọi sự vật và hoàn cảnh. Đức Phật xem bản chất này là điểm cốt tủy trong giáo lý của ngài. Tất cả mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện đều vô cùng bất ổn và không ngừng thay đổi, hay như Ngài nói, vô thường là điểm đặc trưng cho mỗi hoàn cảnh, mỗi tình huống bạn sẽ gặp phải trong đời mình. Nó sẽ thay đổi, biến mất đi, hay không còn làm cho bạn thấy hài lòng nữa. Tính vô thường cũng là giáo lý trọng tâm của Chúa Jesus: “Các ngươi chớ tích trữ cho mình kho tàng dưới đất, nơi mối mọt gặm nhấm làm hư nát được, nơi trộm cắp đào khoét phỗng mất được…”
Bao lâu một hoàn cảnh hay điều kiện được tâm trí bạn phán xét là “tốt”, cho dù nó là một mối quan hệ, một tài sản, một địa vị xã hội, một địa điểm, hay thân xác của bạn, thì bấy lâu tâm trí bạn vẫn còn bám lấy nó và đồng hóa với nó. Nó khiến cho bạn hạnh phúc, khiến cho bạn cảm thấy mình tài giỏi, và nó có thể trở thành một bộ phẫn trong con người bạn hay trong con người bạn cho là mình. Nhưng không có thứ gì lâu dài trong chiều kích này, nơi mà mối mọt đục khoét được. Mọi thứ đều sẽ mất đi, thay đổi, hay chuyển thành cái đối cực. Cùng một điều kiện mà hôm qua hay năm trước là tốt, thì nay đột nhiên hay dần dần biến thành xấu. Cùng một điều kiện làm cho bạn hạnh phúc, rồi sau đó khiến cho bạn thấy bất hạnh. Sự giàu sang hôm nay sẽ trở thành nghèo khó hôm sau. Lễ cưới và tuần trăng mật hạnh phúc sẽ trở thành cuộc ly hôn hay chung sống đầy nước mắt. Hoặc khi có một điều kiện mất đi, và sự thiếu vắng nó làm cho bạn thấy bất hạnh. Khi một hoàn cảnh hay tình huống mà tâm trí bám chặt vào để đồng hóa với nó bị thay đổi hay biến mất, tâm trí bám không thể chấp nhận được. Nó sẽ níu kéo hoàn cảnh đang mất đi, và phản kháng lại sự thay đổi. Tình hình này rất giống như một chi tiết bị rứt xé khỏi cơ thể bạn vậy.
Đôi khi chúng ta nghe nói đến những người bị mất hết tiền của hay danh tiếng bị suy sụp đến mức tự vẫn. Đó là những trường hợp cực đoan. Còn những người khác bị mất mát quá nhiều chỉ thấy bất hạnh sâu sắc hay ngã bệnh. Những người này không phân biệt được sự sống với hoàn cảnh sống của họ. Tôi vừa nghe tin một nữ diễn viên nổi tiếng qua đời ở độ tuổi bát thập. Khi nhan sắc bắt đầu phai tàn và hủy hoại do tuổi già, bà vô cùng bất hạnh đến mức phải sống ẩn dật. Bà ấy cũng đồng hóa với một điều kiện: đó là dung mạo bên ngoài. Trước hết, điều kiện đó đem lại cho bạn cảm giác hạnh phúc về cái tôi, sau đó là cảm giác bất hạnh. Nếu bà có thể kết nối sự sống vô tướng và phi thời gian ở bên trong, bà có thể quan sát và chấp nhận sự phai tàn hình tướng bên ngoài từ một góc độ thanh thản và an lạc. Hơn nữa, hình tướng bên ngoài của bà có lẽ sẽ trở nên ngày càng trong suốt hơn đối với ánh sáng soi rọi từ bản tính chân thật bất lão của bà, vì vậy nhan sắc của bà sẽ không thực sự tàn phai mà chỉ chuyển hóa thành vẻ đẹp tinh thần. Tuy nhiên, không ai bảo cho bà biết rằng điều này có thể xảy ra. Loại tri kiến trọng yếu nhất này vẫn chưa phổ cập rộng rãi.
-ooOoo-
Đức Phật dạy rằng ngay đến hạnh phúc của bạn cũng là dukkha – phạn ngữ Pali có nghĩa là “khổ” hay “không hài lòng”. Nó không thể tách biệt với đối cực với nó. Điều này có nghĩa là hạnh phúc và bất hạnh của bạn thực ra chỉ là một. chỉ có ảo tưởng về thời gian mới tách biệt chúng.
Sự thật này không có ý nghĩa tiêu cực. Nó chỉ đơn thuần thừa nhận bản chất của mọi sự vậy, để cho bạn không chạy theo ảo tưởng trong quãng đời còn lại của mình. Nó cũng không bảo rằng bạn không nên thưởng thức những sự vật hay hoàn cảnh vui tươi hay ngoạn mục. Nhưng tìm kiếm thứ gì đó không qua chúng mà chúng lại không thể đem lại – tức là tìm kiếm một thực thể, một cảm thức về sự vĩnh cửu và mãn túc chẳng hạn – là việc làm vô vọng và đau khổ. Toản bộ ngành quảng cáo và xã hội tiêu thụ sẽ sụp đổ nếu như mọi người đều tỏ ngộ và không còn tìm kiếm cái tôi của họ thông qua các sự vật nữa. Càng tìm kiếm theo lối này, hạnh phúc càng dễ vuột khỏi tầm tay bạn. Không có gì ngoài kia thỏa mãn bạn được, chúng chỉ xoa dịu một cách tạm thời và hời hợt thôi, nhưng có lẽ bạn cần phải trải nghiệm nhiều lần tan vỡ ảo tưởng mới nhận ra dược sự thật. Sự vật và hoàn cảnh có thể đem lại lạc thú cho bạn, nhưng chúng cũng đem lại khổ đau. Chúng có thể giúp bạn thấy khoái lạc, nhưng không thể đem lại niềm vui. Không thứ gì đem lại niềm vui cho bạn. Niềm vui không có nguyên cớ, nó nảy sinh từ bên trong như là niềm vui của Bản thể hiện tiền. Nó là một bộ phận cốt yếu trong trạng thái hanh thản nội tại, trong trạng thái gọi là an bình của Thượng đế. Nó là trạng thái tự nhiên của bạn, không phải là thứ bạn cần phải làm việc cật lực hay đấu tranh mới giành được.
Nhiều người không bao giờ nhận ra rằng không thể có “sự cứu rỗi” ở việc họ làm, ở tài sản họ sở hữu, hay ở quyền thế họ giành giật được. Những người thực sự nhận ra được thường trở nên chán đời và u uất: Nếu không gì có thể giúp bạn thực sự thỏa mãn, vậy còn có thứ gì để bạn gắng sức, đâu là ý nghĩa thiết yếu của sự vật? Nhà tiên tri soạn ra Cựu Ước Kinh hẳn đã đi đến nhận định này khi ông viết: “Ta đã chứng kiến mọi việc được thực hiện dưới bóng mặt trời này; chiêm ngưỡng chúng, ta thấy tất cả đều phù phiếm và giống như cố sức đuổi thoe một cơn gió vậy”. Tiến đến điểm này, bạn chỉ còn cách tuyệt vọng một bước thôi – và chỉ còn một bước là đi đến giác ngộ.
Một tu sĩ Phật Giáo có lần nói với tôi: “Mọi điều tôi học hỏi được trong 20 năm làm tu sĩ có thể tóm tắt trong một câu: “Tất cả mọi thứ sinh ra rồi mất đi”. Dĩ nhiên, điều ông ấy nói có nghĩa là: Tôi đã họ được cách để cho khoảnh khắc hiện tại diễn ra và chấp nhận bản chất vô thường của tất cả mọi sự vật và hoàn cảnh. Do đó, tôi đã tìm được sự thanh thản, tìm được sự an lạc”.
Không phản kháng cuộc sống là trạng thái ân sủng, dễ chịu, và nhẹ nhàng. Lưu trú trong trạng thái này, bạn không còn lệ thuộc vào các sự vật tốt hay xấu theo một cách đánh giá nhất định nữa. Mọi việc xảy ra dường như thật nghịch lý, khi nội tâm không còn lệ thuộc vào hình tướng, thì hoàn cảnh sống nói chung của bạn cũng như các điều kiện bên ngoài đều có khuynh hướng cải thiện đáng kể. Các sự việc, con người, hay điều kiện mà trước kia bạn từng cho là cần thiết để có hạnh phúc, giờ đây bạn chẳng cần phấn đấu hay gắng sức chút nào cũng có được, và bạn thoải mái thưởng thức chúng – trong thời gian chúng còn tồn tại. Dĩ nhiên, tất cả những thứ đó vẫn sẽ mất đi, các chu kỳ sẽ đến rồi đi, nhưng khi tâm lý lệ thuộc vắng bặt, bạn sẽ không còn sợ mất mát gì nữa. Cuộc sống trôi đi thật dễ chịu.
Hạnh phúc xuất phát từ những sự vật vô thường như thế luôn luôn hời hợt và phù du. Nó chỉ là một phản ảnh mờ nhạt của niềm vui lan tỏa ra từ Bản thể hiện tiền, của sự thanh thản sung mãn bạn tìm thấy bên trong mình khi bạn tiến vào trạng thái không phản kháng. Bản thể hiện tiền đưa bạn vượt lên trên các đối cực của tâm trí, và giải thoát bạn khỏi ách lệ thuộc vào hình tướng. Cho dù mọi thứ có thể sụp đổ và vỡ vụn đi xung quanh mình, bạn sẽ vẫn cảm nhận được sự an bình nội tại thật sâu sắc. Bạn có thể không hạnh phúc, nhưng nhất định bạn sẽ luôn luôn cảm thấy thanh thản.
Lợi dụng và buông bỏ tâm lý tiêu cực
Kinh nghiệm cho thấy tất cả mọi phản kháng nội tại đều tiêu cực dưới dạng này hay dạng khác. Và mọi tiêu cực đều là phản kháng. Trong tập sách này, hai thuật ngữ ấy gần như đồng nghĩa. Tiêu cực gồm nhiều dạng từ bứt rứt khó chịu hay sốt ruột cho đến giận dữ, từ tâm trạng u uất hay ngấm ngầm oán hận cho đến tuyệt vọng tự vẫn. Đôi khi sự phản kháng khởi động cái quầng tình cảm đau khổ, trong trường hợp đó ngay đến một tình huống không đáng kể cũng có thể gây ra tâm trạng cực kỳ tiêu cực như giận dữ, u uất hay sầu khổ sâu sắc.
Tự ngã hư ngụy tin rằng nhờ có tiêu cực nó có thể lèo lái thực tại để nắm lấy những thứ nó muốn. Nó tin rằng thông qua tiêu cực, nó có thể chiêu cảm một hoàn cảnh mong muốn hay giải trừ được một hoàn cảnh không mong muốn. Tác phẩm A Course of Miracles thật hợp lý khi vạch rõ rằng bất cứ lúc nào thấy bất hạnh, bạn đều tin tưởng một cách vô minh rằng bất hạnh ấy sẽ “bù đắp cho bạn” bằng cách đem đến cho bạn những thứ bạn muốn có. Nếu “bạn” – tức tâm trí – không tin rằng bất hạnh sẽ tác động có lợi, thì tại sao bạn lại tạo ra nó chứ? Dĩ nhiên, sự thật là tiêu cực chẳng có lợi gì cho bạn. Thay vì chiêu cảm hoàn cảnh mong ước, nó ngăn chận không cho hoàn cảnh ấy xảy ra. Thay vì giải trừ điều kiện không mong muốn, nó khiến cho điều kiện ấy cứ nảy sinh. Chức năng “hữu ích” duy nhất của tiêu cực là tăng cường tự ngã, và đó là lý do giải thích tại so tự ngã yêu thích tiêu cực.
Một khi đã đồng hóa với một dạng tiêu cực nào đó, bạn sẽ không muốn buông bỏ nó; và ở bình diện ý thức mê muội sâu sắc, bạn không muốn sự thay đổi tích cực. Nó sẽ đe dọa con người lòng đầy u uất, phẫn nộ, hay đang bị đối xử bất công của bạn. Rồi bạn sẽ không đếm xỉa đến, chối bỏ, hay ngấm ngầm phá hoại cái tích cực trong đời sống của bạn. Đây là hiện tượng thường thấy. Nó cũng thật là điên rồ.
Tiêu cực hoàn toàn trái tự nhiên. Nó là chất ô nhiễm tinh thần, và có một mối liên hệ sâu sắc giữa tình trạng gây độc và tàn phá thiên nhiên với khía cạnh tiêu cực vô cùng lớn lao đã tích lũy trong linh hồn tập thể của nhân loại. Không có dạng sinh vật nào khác trên hành tinh này biết đến tiêu cực, chỉ riêng con người mới biết, cũng như không có dạng sinh vật nào khác xâm hại và gây độc Trái Đất đã nuôi dưỡng chúng. Bạn có bao giờ thấy qua một đóa hoa bất hạnh hay một cây sồi bị stress chưa? Bạn có gặp qua một chú cá heo bị trầm cảm, một chú ếch có vấn đề về lòng tự trọng, một chú mèo không thể thư giãn, hay một chú chim mang nặng lòng căm hận và phẫn nộ không? Những đồng vật duy nhất đôi khi trải nghiệm một thứ gì đó giống như tiêu cực hay bày tỏ hành vi điên rồ chính là những động vật sống gần gũi với con người nên gắn kết với tâm trí con người cùng sự điên rồ của họ.
Hãy quan sát bất cứ loại thực vật hay động vật nào để học cách chấp nhận cái đang là, vâng phục đối với cái Bây giờ. Hãy để nó dạy bạn nhiều điều về Bản thể hiện tiền. Hãy để nó truyền dạy bạn về tính toàn vẹn – tức là tính nhất thể, là bản thân bạn, là lẽ sống chân thật. Hãy để nó truyền dạy bạn cách sống và biết cách chết đi như thế nào, về cách không làm cho sinh và tử trở thành vấn đề cần giải quyết.
Tôi đã từng sống chung với vài vị Thiền sư – tất cả đều là những chú mèo. Ngay những con vịt cũng dạy tôi những bài học tâm linh. Chỉ quan sát chúng thôi cũng là một cách thiền định. Chúng bơi thanh thản làm sao, thật thong dong tự tại, hiện trú toàn triệt trong cái Bây giờ, thật đường bệ và hoàn hảo mà chỉ một tạo vật vô niệm mới có thể như thế được. Tuy nhiên, thảng hoặc hai chú vịt có đánh nhau – không vì lý do gì rõ rệt, hay bởi vì một chú đi lạc vào không gian riêng tư của chú vịt kia. Cuộc chiến thường chỉ kéo dài vài giây, rồi chúng tách nhau, đập mạnh đôi cánh vài lần, và bơi đi hai hướng khác nhau. Sau đó, chúng tiếp tục thanh thản bơi như thể trận đánh chưa hề xảy ra vậy. Lần đầu tiên thấy như thế, tôi chợt nhận ra rằng bằng cách vỗ mạnh đôi cánh chúng phóng thích hết số năng lượng dư thừa, để khỏi bị tắc nghẽn trong cơ thể rồi biến thành tiêu cực. Đây là linh giác tự nhiên, và thật dễ dàng cho chúng bởi vì chúng không có tâm trí để lưu giữ quá khứ tồn tại một cách không cần thiết, rồi xây dựng một nhân dạng xung quanh nó.
Chẳng phải một tình cảm tiêu cực cũng chứa đựng một thông điệp quan trọng sao? Chẳng hạn, nếu tôi thường xuyên cảm thấy u uất thì đó có thể là một dấu hiện cho thấy có điều gì đó bất ổn trong cuộc sống của tôi, và nó có thể buộc tôi phải xem xét hoàn cảnh sống của mình để thay đổi chúng. Vì vậy tôi cần phải lắng nghe sự mách bảo của cảm xúc ấy và không chỉ đơn thuần gạt bỏ nó đi bởi vì nó là tình cảm tiêu cực.
Phải, những tình cảm tiêu cực tái xuất hiện nhiều lần đôi khi quả là có chứa đựng một thông điệp nào đó, giống như các căn bệnh thường là điềm báo cho tình trạng bất ổn chẳng hạn. Nhưng bất cứ thay đổi nào của bạn, dù liên quan đến công việc làm, đến các mối quan hệ, hay đến hoàn cảnh sống của bạn, nói cho cùng đều chỉ có tính chất tô điểm cho cuộc sống, nếu như chóng không phát sinh từ sự thay đổi ở bình diện ý thức tỏ ngộ của bạn. Gặp trường hợp như vậy, chỉ có một việc duy nhất bạn có thề làm được là hãy hiện trú hơn nữa. Khi đã tiến đến một mức hiện trú nhất định, bạn không còn cần đến các xúc cảm tiêu cực để mách bảo điều gì cần thiết cho cuộc sống của mình nữa. Nhưng bao lâu tiêu cực vẫn còn đó, khi ấy bạn hãy cứ lợi dụng nó. Lợi dụng nó như là một dấu hiệu nhắc nhở bạn phải hiện trú hơn.
Chúng ta phải làm cách nào để chặn đứng không cho tiêu cực nảy sinh, và làm sao để từ bỏ tiêu cực khi nó đã xuất hiện?
Như đã nói, bạn chặn đứng không cho tiêu cực nảy sinh bằng cách hiện trú toàn triệt. Nhưng bạn chớ nản lòng. Cho đến nay rất ít người trên hành tinh này có thể duy trí sự hiện trú thường xuyên, mặc dù một vài người đã tiến gần đến trạng thái ấy. Tôi tin rằng chẳng bao lâu nữa sẽ có thêm nhiều người như thế.
Bất cứ khi nào để ý thấy một dạng tiêu cực nào đó nảy sinh bên trong bạn, đừng xem nó là dấu hiệu thất bại của bạn, mà hãy xem nó là một dấu hiệu hữu ích mách bảo bạn rằng: “Hãy thức tỉnh.
Thoát ra khỏi tâm trí. Hãy hiện trú”.
Aldous Huxley sáng tác tập tiểu thuyết nhan đề Island vào những năm cuối đời khi ông quan tâm khá nhiều đến các giáo lý tâm linh. Tiểu thuyết này kể chuyện một người đàn ông gặp nạn đắm tàu trôi dạt đến một hòn đảo hoang cách xa thế giới hiện đại. Hòn đảo này chứa đựng một nền văn minh độc đáo. Điều không bình thường là cư dân của nó thực sự rất khỏe mạnh, không giống như chúng ta. Vật đầu tiên anh ta để ý thấy là những chú vẹt có bộ lông sặc sỡ đậu trên cành cây, dường như chúng luôn mồm kêu: “Chú ý! Bây giờ và Tại Đây. Chú ý. Bây giờ và Tại Đây ”. Sau này anh ta mới biết người dân trên đảo đã dạy chúng nói những câu ấy nhằm không ngừng nhắc nhở họ phải hiện trú.
Vì vậy bất cứ khi nào cảm thấy tiêu cực nảy sinh bên trong bạn, cho dù do một nhân tố bên ngoại, một ý nghĩ, hay thậm chí không có gì đặc biệt gây ra, hãy xem nó như là giọng nói mách bảo bạn: “Chú ý. Tại Đây và Bây giờ. Hãy thức tỉnh”. Ngay đến một cơn bực dọc nhẹ nhàng nhất cũng quan trọng, cần được nhận diện và xem xét kỹ; nếu không, nó sẽ tích lũy thành các phản ứng bạn không thể thấy được. Như tôi đã nói trước đây, bạn có thể chỉ cần buông bỏ nó một khi bạn nhận thấy mình không cần có trường năng lượng này bên trong bạn, và do nó không nhằm phục vụ cho mục đích nào cả. Nhưng lúc ấy hãy chắc rằng bạn buông bỏ nó hoàn toàn. Nếu không thể buông bỏ được, bạn chỉ cần chấp nhận rằng nó hiện diện ở đó và tập trung chú ý vào cảm giác của mình, như tôi đã nói rõ trước đây.
Biện pháp chọn dùng khác là buông bỏ phản ứng tiêu cực, bạn có thể làm cho nó biến mất đi bằng cách tưởng tượng bản thân trở nên trong suốt đối với nguyên nhân bên ngoài gây ra phản ứng ấy. Tôi đề nghị trước hết bạn nên thực hành đối với các sự việc không đáng kể hay thậm chí vụn vặt. Ví dụ như bạn đang ngồi yên lặng ở nhà. Đột nhiên bạn nghe thấy âm thanh chói tai của tiếng còi ô tô chạy ngang qua nhà. Cơn bực dọc trỗi dậy. Mục đích của cơn bực dọc này là gì? Nó chẳng nhằm mục đích gì cả? Vậy thì tại sao bạn nổi cơn? Bạn không làm. Chính tâm trí đã nổi cơn đó. Nó hoàn toàn tự động, hoàn toàn bất thức. Tại sao tâm trí lại nổi cơn bực dọc? Bởi vì nó cứ khăng khăng tin tưởng một cách vô minh rằng sự phản kháng của nó, sẽ phần nào giải trừ được tình hình không mong muốn. Dĩ nhiên, đây là một ảo tưởng. Sự phản kháng mà tâm trí tạo ra, trong trường hợp này là cơn bực dọc hay tức giận, còn đáng ngại hơn cả nguyên nhân ban đầu mà nó cố gắng giải trừ nữa.
Toàn bộ câu chuyện này có thể biến đổi thành phương pháp rèn luyện tâm linh. Hãy cảm nhận bản thân bạn trở nên trong suốt, có thể nói như vậy, không có tính rắn đặc của cơ thể vật chất. Giờ đây hãy để cho tiếng ồn, hay bất cứ thứ gì gây ra phản ứng tiêu cực xuyên thẳng qua bạn. Nó không còn đụng phải “bức tường” rắn chắc bên trong bạn nữa. Như tôi nói, trước tiên hãy thực hành đối với những sự việc không đáng kể, như tiếng còi ô tô, tiếng chó sủa, tiếng trẻ con gào thét, nạn ách tắc giao thông chẳng hạn. Thay vì dựng lên bức tường phản kháng bên trong vốn thường xuyên bị va đụng đau đớn bởi các sự việc “không nên xảy ra”, hãy để mọi thứ xuyên suốt qua bạn.
Nếu có ai đó nói điều gì thô lỗ với bạn hay cố tình gây tổn thương bạn, thì thay vì có phản ứng vô minh và có tâm trạng tiêu cực như công kích, phòng thủ, hay co rút lẩn tránh, hãy để cho nó xuyên thẳng qua bạn. Đừng phản ứng gì cả. Xem như chẳng có ai gây tổn thương gì cho bạn vậy. Đó là lòng khoan dung. Bằng cách này, bạn trở nên mạnh mẽ, khó bị tổn thương. Bạn lại còn có thể bình tĩnh bảo người đó rằng hành vi ấy không thể chấp nhận được, nếu như đó là chọn lựa của bạn. Nhưng người đó không còn sức mạnh chi phối trạng thái nội tại của bạn nữa. Lúc ấy bạn đang nắm quyền – chứ không phải ai khác, và bạn cũng không còn bị tâm trí điều động nữa. Bất kể là tiếng còi ô tô, người thô lỗ, nạn lụt, địa chấn, hay mất mát toàn bộ gia sản, thì cơ chế phản kháng cũng chẳng khác gì nhau.
Tôi đã thực hành thiền định, đã dự các buổi hội thảo, đã đọc nhiều tác phẩm về tâm linh, tôi cố gắng giữ tâm trạng không phản kháng – nhưng nếu ông hỏi liệu tôi đã tìm thấy sự thanh thản nội tại đích thực và kéo dài chưa, thì câu trả lời trung thực của tôi sẽ là “không”. Tại sao tôi chưa tìm được?
Tôi có thể làm gì khác?
Bạn vẫn đang tìm kiếm ở bên ngoài, và bạn không thể từ bỏ được thói tìm kiếm. Có lẽ buổi hội thảo kế tiếp sẽ có câu trả lời, có lẽ là loại kỹ thuật mới ấy. Đối với bạn, tôi sẽ nói rằng: Đừng tìm kiếm sự thanh thản. Đừng tìm kiếm trạng thái nào khác ngoài tình trạng hiện nay của bạn; nếu không, bạn sẽ tạo ra xung đột nội tại và phản kháng một cách vô minh. Hãy tha thứ cho chính mình vì đã không thanh thản. Ngay khoảnh khắc hoàn toàn chấp nhận rằng mình không thanh thản, tình trạng này của bạn sẽ chuyển hóa thành thanh thản. Bất cứ thứ gì bạn chấp nhận hoàn toàn sẽ đưa bạn đến đó, sẽ đưa bạn vào trạng thái thanh thản. Đây là phép lạ của sự vâng phục.
-ooOoo-
Có lẽ bạn đã từng nghe câu nói “đưa má bên kia ra” mà vị thầy vĩ đại đã dùng cách đây hơn hai ngàn năm. Bằng biểu tượng ngài đã cố gắng truyền đạt bí quyết không phản kháng và không phản ứng. Giống như trong tất cả các câu nói khác của Chúa Jesus, trong câu nói này ngài chỉ đề cập đến thực tại nội tâm của bạn, chứ không nói đến cách cư xử bề ngoài trong cuộc sống của bạn.
Bạn có biết câu chuyện về thiền sư Bảo Tích ở núi Bàn Sơn (Banzan baoji) không? Trước khi trở thành vị Thiền sư vĩ đại, ngài đã dành nhiều nam đi tìm giác ngộ, nhưng nó cứ vuột khỏi tầm tay ngài. Rồi một ngày kia trong khi đi kinh hành trong chợ, ngài nghe lõm bõm được một đoạn đối thoại giữa anh hàng thịt và khách hàng. Khách hàng nói: “Bán cho tôi miếng thịt ngon nhất của anh”. Và anh hàng thịt đáp: “Thịt của tôi miếng nào cũng ngon nhất. Ở đây không có miếng thịt nào là không ngon nhất”. Nghe được câu này, Bảo Tích thoát nhiên đại ngộ. Tôi thấy bạn đang chờ một lời giải thích. Khi bạn chấp nhận cái đang là, mọi miếng thịt – tức là mọi khoảnh khắc – đều ngon nhất. Đó là sự giác ngộ.
Bản chất của lòng trắc ẩn
Khi đã vượt ra khỏi các đối cực do tâm trí tạo tác, bạn sẽ giống như một hồ nước sâu thăm thẳm. Hoàn cảnh bên ngoài cuộc sống của bạn và bất cứ việc gì xảy ra đều giống như mặt hồ. Đôi khi êm đềm phẳng lặng, đôi khi thì ba đào sóng gió, tùy theo các chu kỳ và thời tiết bốn mùa. Tuy nhiên, phần sâu bên dưới hồ vẫn luôn luôn không bị quấy động. Bạn là toàn bộ cái hồ nước, không phải chỉ là mặt hồ, và bạn đang kết nối với phần sâu thẳm của chính mình, vốn vẫn tuyệt đối tĩnh lặng. Bạn không phản kháng sự thay đổi bằng cách bám chặt ở bình diện tâm trí vào bất cứ hoàn cảnh nào. Sự thanh thản nội tại của bạn không tùy thuộc vào nó. Bạn lưu trú ở Bản thể hiện tiền – vốn bất biến, phi thời gian, và bất diệt – và bạn không còn lệ thuộc vào thế giới các hình tướng không ngừng dao động bên ngoài để tìm kiếm thỏa mãn hay hạnh phúc nữa. Bạn có thể thưởng thức chúng, vui đùa với chúng, sáng tạo ra các hình tướng mới lạ, đánh giá vẻ đẹp của tất cả. Nhưng sẽ không cần ràng buộc chính mình vào bất cứ hình tướng nào của thế giới ấy.
Khi bạn trở nên vô tư như vậy, thì chẳng phải có nghĩa là bạn cũng trở nên lãnh đạm với những người khác sao?
Ngược lại mới đúng. Bao lâu bạn còn xa lạ với Bản thể hiện tiền, thì bấy lâu thực tại của những người khác sẽ còn vuột khỏi bạn, bởi vì bạn không tìm ra được thực tại của chính mình. Tâm trí của bạn sẽ ưa thích hay không ưa thích hình tướng của họ, và hình tướng này vốn không chỉ là thân xác của họ mà còn bao gồm tâm trí của họ nữa. mối quan hệ đích thực, có thể xảy ra khi nào người ta biết rõ Bản thể hiện tiền. Xuất phát từ Bản thể hiện tiền, bạn sẽ xem thân xác và tâm trí của người khác chỉ là một tấm màn che, có thể nói như vậy; đằng sau đó bạn có thể cảm nhận được thực tại chân chính của họ, giống như bạn cảm nhận thực tại của chính mình vậy. Vì vậy, khi gặp phải sự đau khổ hay hành vi vô minh của kẻ khác, bạn vẫn hiện trú và tiếp xúc với Bản thể hiện tiền, và nhờ đó có thể nhìn vượt qua hình tướng để cảm nhận Bản thể hiện tiền rực rỡ và thuần túy của người đó thông qua Bản thể của chính bạn. Ở bình diện Bản thể hiện tiền, tất cả mọi khổ đau đều được xem là ảo tưởng. Đau khổ là do đồng hóa với hình tướng. Các phép lạ chữa lành bệnh tật đôi khi xảy ra thông qua cái tri kiến này, bằng cách đánh thức ý thức tỏ ngộ Bản thể hiện tiền ở người khác – nếu như họ đã sẵn sàng.
Phải chăng đó là ý nghĩa của lòng trắc ẩn?
Đúng vậy. Lòng trắc ẩn chính là tri kiến về môi liên kết sâu xa giữa bản thân bạn với tất cả mọi tạo vật. Nhưng lòng trắc ẩn có hai phương diện, tức là mối liên kết này có hai mặt. Một mặt, bởi vì bạn vẫn còn sốn trong thân xác, bạn cũng chia sẻ tính mong manh và khả năng tử vong của hình tướng vật chất với mọi người khác và với mọi loài sinh vật. Lần sau khi bạn nói: “tôi chẳng có liên hệ gì với người này”, hãy nhớ rằng bạn có rất nhiều điểm chung với anh ta: Vài năm nữa – hai năm hay bảy mươi năm, không khác biệt gì cho lằm – cả hai đều sẽ trở thành tử thi mục rữa, rồi thành cát bụi, sau đó không còn gì cả. Đây là tri kiến có tính cảnh tỉnh và khiêm tốn, không còn gì để hãnh diện. Phải chăng là ý nghĩa tiêu cực? Không, đó là sự thật. Tại sao bạn không đếm xỉa gì đến nó? Theo ý nghĩa đó, có sự bình đẳng hoàn toàn giữa bạn và mọi tạo vật khác.
Một trong các lối rèn luyện tâm linh hiệu quả nhất là trầm tư sâu sắc vào tính tử vong của các hình tướng vật chất, bao gồm cả hình tướng của chính bạn. Lối thiền định này được gọi là: Hãy chết trước khi bạn trút hơi thở sau cùng. Hãy tiến sâu vào nó. Hình tướng vật chất của bạn đang tan ra, rồi không còn gì nữa. Sau đó đến lúc mọi hình tướng tâm trí hay các ý nghĩ cũng chết đi. Vậy mà bạn vẫn còn ở đó – bạn là sự hiện trú thiêng liêng. Thật sinh động, thật rực rỡ, và hoàn toàn tỉnh thức. Không có thứ gì chân thật chết đi cả, chỉ các danh xưng, hình tướng, và ảo tưởng mới mất đi.
-ooOoo-
Tri kiến về chiều kích bất tử này, tức bản tính đích thật của bạn, là phương diện kia của lòng trắc ẩn. ở bình diện tình cảm sâu sắc, giờ đây bạn nhận biết không chỉ tính bất diệt của riêng bạn, mà thông qua đó bạn cũng nhận biết được tính bất diệt của mọi tạo vật khác. Ở bình diện hình tướng, bạn chia sẻ tính tử vong, tính hoại diệt, và tính bất ởn của cuộc sống hiện hữu. Còn ở bình diện Bản thể hiện tiền, bạn chia xẻ sự sống linh động, rực rỡ và vĩnh hằng. Đây là hai phương diện của lòng trắc ẩn. Bên trong lòng trắc ẩn, những tình cảm tưởng như đối nghịch nhau, như sầu khổ và niềm vui chẳng hạn, hòa làm một và chuyển hóa thành sự thanh thản nội tại sâu sắc. Đây là sự an bình thanh thản của Thượng đế. Lòng trắc ẩn là một trong những tình cảm cao cả nhất con người có thể có được, nó có sức mạnh hàn gắn và chuyển hóa vĩ đại. Thế nhưng lòng trắc ẩn đích thực như tôi vừa miêu tả, cho đến nay vẫn còn hiếm hoi. Để đồng cảm sâu sắc với đau khổ của người khác chắc chắn phải cần đến ý thức tỏ ngộ cao độ; nhưng sự đồng cảm chỉ tượng trưng cho một phương diện duy nhất của lòng trắc ẩn mà thôi. Vẫn chưa trọn vẹn. Lòng trắc ẩn đích thật vượt lên trên sự đồng cảm hay thương hại. Nó không xảy ra cho đến khi nỗi buồn hòa làm một với niềm vui, niềm vui của Bản thể hiện tiền vượt lên trên hình tướng, niềm vui của sự sống vĩnh hằng.
Hướng đến một trật tự khác của thực tại
Tôi không đồng ý rằng thân xác cần phải chết đi. Tôi tin rằng chúng ta có thể đạt đến sự bất tử của thân xác. Chúng ta tin vào cái chết, và đó là lý do khiến cho thân xác phải chết đi.
Thân xác không chết đi bởi vì bạn tin vào cái chết. Thân xác tồn tại, hay có vẻ như thế, bời vì bạn tin vào cái chết. Thân xác và sự chết đều thuộc về cùng một ảo tưởng do kiểu ý thức vị ngã tạo ra. Kiểu ý thức này vốn không biết gì đến Cội Nguồn của sự sống, xem chính nó là một thực thể tách biệt và thường xuyên bị đe dọa. Vì vậy nó tạo ra ảo tưởng rằng bạn chính là thân xác, là phương diện vật chất nặng đục thường xuyên bị đe dọa.
Xem chính mình là một thân xác mong manh được sinh ra rồi sau đó ít lâu phải chết đi thì quả là ảo tưởng vậy. Thân xác và sự chết là hai phương diện của cùng một ảo tưởng. Bạn không thể có cái này mà không có cái kia. Bạn muốn giữ lại một mặt của ảo tưởng và vứt bỏ mặt kia, nhưng không thể được. Hoặc bạn giữ lại cả hai, hoặc bạn từ bỏ cả hai.
Tuy nhiên, bạn không thể thoát khỏi thân xác, và bạn cũng không bắt buộc phải làm như vậy. Thân xác là một ngộ nhận kỳ quặc về bản tính đích thực của bạn. Nhưng bản tính chân thật ấy bị che giấu ở đâu đó bên trong cái ảo tưởng kia, không phải bên ngoài nó, vì vậy thân xác vẫn là điểm duy nhất để tiếp cận bản tính ấy.
Nếu bạn nhìn thấy một thiên thần và nhầm lẫn vị ấy với một tượng đá, thì mọi việc phải làm là điều chỉnh thị giác của bạn và nhìn thật gần “tượng đá” ấy, chứ không nhìn bất cứ nơi nào khác. Lúc ấy bạn sẽ thấy rằng chưa hề có một tượng đá như thế.
Nếu như niềm tin vào sự chết tạo ra thân xác, thì tại sao con vật lại có thân xác? Con vật không có tự ngã hư ngụy, và nó cũng không tin vào sự chết…
Nhưng nó vẫn cứ chết, hay có vẻ như thế.
Nên nhờ rằng tri kiến về thế giới của bạn chính là hìh ảnh phản chiếu trạng thái ý thức của bạn. Bạn không tách biệt khỏi nó, và ngoài kia chẳng có một thế giới khách quan nào cả. Từng khoảnh khắc, ý thức của bạn kiến tạo ra cái thế giới mà bạn cư trú. Một trong những tư tưởng vĩ đại nhất xuất phát từ bộ môn vật lý học hiện đại là quan điểm về tính đồng nhất giữa chủ thể quan sát và đối tượng quan sát: Người tiến hành cuộc thí nghiệm – tức là ý thức đứng ra quan sát – không thể tách biệt khỏi các hiện tượng được quan sát, và một cách quan sát khác sẽ khiến cho các hiện tượng được quan sát hành xử khác hẳn đi. Ở bình diện sâu thẳm, nếu bạn tin tưởng vào sự phân biệt và đấu tranh sinh tồn, bạn sẽ thấy rằng niềm tin ấy được phản chiếu ra chung quanh bạn và các nhận định của bạn đều bị chi phối bởi sự sợ hãi. Bạn cư ngụ ở một thế giới đầy chết chóc, gồm những thân xác chiến đấu, giết hại, và ăn nuốt lẫn nhau.
Dường như không thứ gì là như vậy cả. Cái thế giới mà bạn tạo ra và nhìn thấy thông qua tâm trí vị ngã dường như là một nơi cực kỳ không hoàn hảo, thậm chí là một thung lũng đầy nước mắt. Nhưng cho dù bạn nhận định là gì đi nữa cũng chỉ là một loại biểu tượng, giống như một hình ảnh trong giấc mộng. Nó chính là cách mà ý thức của bạn lý giải và tương tác với vũ điệu năng lượng phân tử của vũ trụ này vậy. Năng lượng này chính là nguyên liệu của cái gọi là thực tại vật chất. Bạn thấy nó dưới dạng các thân xác (các cơ thể) cùng hiện tượng sinh và tử, hay như là một cuộc đấu tranh sinh tồn. Có thể có, và thực ra đang tồn tại vô số cách lý giải hoàn toàn khác biệt nhau, vô số thế giới hoàn toàn khác biệt nhau – tất cả đều tùy thuộc vào ý thức đứng ra nhận định. Mọi sinh vật đều là tâm điểm của ý thức, và mỗi tâm điểm như thể đều kiến tạo ra thế giới riêng của nó, mặc dù tất cả các thế giới này đều tương thông với nhau. Có một thế giới loài người, một thế giới loài kiến, một thế giới cá heo, và vân vân. Có vô vàn sinh vật mà tần số ý thức của chúng rất khác biệt với tần số ý thức của bạn, mà có lẽ bạn không hề biết đấn sự hiện hữu của chúng, giống như chúng không hề biết đến sự hiện hữu của bạn vậy. Những người tỏ ngộ cao độ biết rõ sự tương thông của họ với Cội Nguồn và sự tương thông lẫn nhau giữa họ đều cùng cư ngụ ở một thế giới mà đối với bạn có vẻ như là một lãnh địa thiên đàng – vậy mà tất cả các thế giới nói cho cùng chỉ là một thôi.
Thế giới của tập thể con người chúng ta đại để được kiến tạo thông qua mức độ ý thức mà chúng ta gọi là tâm trí. Ngay bên trong cái thế giới này cũng có những khác biệt lớn lao, nhiều “tiếu thế giới” khác biệt nhau, tùy thuộc vào các chủ thể nhận thức hay các chủ thể kiến tạo ra các thế giới tương ứng của họ. Bởi vì tất cả các thế giới đều tương thông với nhau, nên khi ý thức tập thể của loài người chuyển hóa, thì thiên nhiên và vương quốc các loài vật sẽ phản ảnh sự chuyến hóa ấy. Vì thế Kinh Thánh khẳng định rằng trong kỷ nguyên sắp tới “Sư tử sẽ nằm chung với đàn cừu”. Khẳng định này vạch rõ khả năng xuất hện một trật tự hoàn toàn khác của thực tại.
Đối với chúng ta, thế giới có vẻ là phản ảnh của tâm trí vị ngã. Sợ hãi là hậu quà không thể tránh được của ảo tưởng vị ngã, do đó thế giới này thường xuyên bị thống trị bởi sự sợ hãi. Giống như các hình ảnh trong giấc mộng là các dấu hiệu của các trạng thái và tâm tình nội tại, thực tại của tập thể con người chúng ta đại để là biểu hiện của sự sợ hãi và của các lớp tiêu cực nặng nề đã tích lũy trong linh hồn của tập thể nhân loại. Chúng ta không tách biệt với thế giới của mình, cho nên khi đại đa số con người thoát khỏi ảo tưởng vị ngã, thì sự chuyển biến nội tại này sẽ tác động đến tất cả mọi tạo vật. Lúc ấy bạn sẽ thực sự cư ngụ trong một thế giới mới. Đó là hậu quả của sự thay đổi trong ý thức của toàn hành tinh. Câu ngạn ngữ kỳ lạ của Phật giáo nói rằng từng cội cây và từng cọng cỏ sau cùng đều tỏ ngộ nhằm tuyên xưng cùng cái chân lý này vậy. Theo Thánh Paul, toàn thể mọi tạo vật đều chờ đợi loài người tỏ ngộ. Đó là cách tôi giải thích câu nói sau đây của ngài: “Vũ trụ được sáng tạo này đang nóng lòng mong đợi các con của Thiên Chúa hiện đến”. Thánh Paul tiếp tục nói rằng tất cả mọi tạo vật sẽ được cứu chuộc thông qua sự thị hiện này: “Cho đến nay toàn thể vũ trụ được sáng tạo này trong tất cả mọi bộ phận của nó đều rên xiết như thể đang vật vã trong cơn đau đẻ”.
Cái đang được sinh ra chính là ý thức mới, và như phản ảnh không thể tránh được của nó, chính là thế giới mới. Sự kiện này cũng được báo trước trong Sách Khải Huyền của Tân Ước Kinh: “Rồi tôi thấy trời mới và đất mới, bởi vì trời thứ nhất và đất thứ nhất đã biến đi mất”.
Nhưng đừng nhầm lẫn nguyên nhân với hậu quả. Nhiệm vụ chủ yếu của bạn không phải là tìm cầu sự cứu rỗi thông qua sự sáng tạo một thế giới tốt đẹp hơn, mà là thức tỉnh bước ra khỏi sự đồng hóa với hình tướng. Lúc ấy bạn sẽ không còn bị ràng buộc vào thế giới này, vào mức độ này của thực tại nữa. Bạn có thể cảm nhận được gốc rễ của mình trong cõi Bất thị hiện, và vì thế thoát khỏi sự ràng buộc vào thế giới Bất thị hiện này. Bạn vẫn có thể thưởng thức các lạc thú chóng tàn của thế giới này, nhưng tuyệt không cần phải bám chặt vào chúng nữa, cho nên bạn không cần phải bám chặt vào chúng nữa. Mặc dù bạn có thể thưởng thức các khoái lạc giác quan, nhưng nỗi khát khao kinh nghiệm giác quan không còn nữa; giống như vậy, sự không ngừng tìm cầu thỏa mạn thông qua thỏa mãn tâm lý, thông qua nuôi lớn tự ngã hư ngụy sẽ không còn ở con người bạn nữa. Bạn đang tiếp xúc với thứ gì đó cực kỳ tuyệt vời hơn bất cứ lạc thú nào, vĩ đại hơn bất kỳ sự vật hữu hình hữu tướng nào.
Trong chừng mực nào đó, lúc ấy bạn không cần đến thế giới này nữa. Bạn thậm chí không cần nó phải khác với cách nó đang là.
Chỉ tại điểm này bạn mới bắt đầu đóng góp đích thực để kiến tạo một thế giới tốt đẹp hơn để tạo ra một trật tự khác của thực tại. Chỉ tại điểm này bạn mới có thể cảm nhận lòng trắc ẩn đích thật và giúp đỡ người khác ở bình diện nguyên nhân. Chỉ những người đã siêu vượt lên trên thế giới này mới có thể kiến tạo được một thế giới mới tốt đẹp hơn.
Bạn có thể nhớ lại rằng chúng ta đã bàn về bản chất lưỡng diện của lòng trắc ẩn đích thực, vốn là tri kiến về mối liên hệ cộng thông về tính tử vong và tính bất diệt của mọi tạo vật. Ở bình diện sâu thẳm này, lòng trắc ẩn có khả năng hàn gắn theo ý nghĩa rộng rãi nhất. Trong trạng thái đó, ảnh hưởng hàn gắn của bạn chủ yếu căn cứ vào sự hiện trú chứ không vào hành động. Mọi người bạn gặp phải sẽ xúc động bởi sự hiện trú của bạn và bị ảnh hưởng bởi sự thanh thản, sự an bình toát ra từ con người bạn, bất kể họ có nhận biết hay không. Khi bạn hiện trú toàn triệt và những người chung quanh bạn biểu hiện hành vi vô minh, bạn sẽ cảm thấy không cần phải phản ứng lại, vậy là bạn không xem nó quan trọng chút nào. Sự thanh thản của bạn quá bao la và sâu sắc đến mức bất kỳ thứ gì không thanh thản đều tan biến vào trong nó như thể chưa từng hiện hữu vậy. Tình hình này phá vỡ cái vòng luẩn quẩn nghiệp chứng gồm hành động và phản ứng. Thú vật, cây cối, hoa cỏ đều sẽ cảm nhận được sự an bình thanh thản của bạn và đáp ứng lại nó. Bạn giáo hóa thông qua sự hiện hữu của chính mình, thông qua minh chứng sự bình an của Thượng đế. Bạn trở thành “ánh sáng chiếu soi thế giới”, bạn truyền bá ý thức thuần túy cho khắp mọi tạo vật, và thế là bạn loại trừ đau khổ ở bình diện nguyên nhân. Bạn loại trừ vô minh khỏi thế giới này.
-ooOoo-
Nói như vậy không có nghĩa là bạn cũng không thể giáo hóa thông qua hành động – ví dụ bằng việc xiển dương cách thức giải trừ sự đồng hóa với tâm trí, cách thức nhận biết các khuôn mẫu vô minh bên trong bản thân, và vân vân. Nhưng chính con người bạn mới luôn luôn là lời giáo huấn quan trọng hơn và là tác nhân chuyển hóa thế giới mạnh mẽ hơn lời lẽ của bạn, và thậm chí thiết yếu hơn cả hành động của bạn nữa.
Ngoài ra, nhận biết tính ưu việt của Bản thể hiện tiền, và do đó tác động ở bình diện nguyên nhân, cũng không ngoại trừ khả năng lòng trắc ẩn của bạn đồng thời biểu lộ ở bình diện hành động và bình diện hệ quả bằng cách xoa dịu đau khổ mỗi khi bạn có dịp. Gặp một người đang đói lòng và bạn đang có chút bánh, bạn sẵn lòng chia xẻ cho họ. Nhưng trong hành vi cho bánh, cho dù tương tác của bạn có lẽ chỉ thoáng chốc thôi, điều thực sự quan trọng chính là cái khoảnh khắc cộng thông Bản thể hiện tiền này vậy, cái khoảnh khắc mà miếng bánh chỉ là một biểu tượng. Sự hàn gắn sâu sắc diễn ra bên trong nó. Trong khoảnh khắc ấy không có người cho không có kẻ nhận.
Nhưng trước hết không nên để cho sự đói khát và nạn đói xảy ra. Làm thế nào chúng ta kiến tạo được một thế giới tốt đẹp hơn nếu trước tiên không giải quyết hết các tệ nạn xấu xa như đói khát và bạo lực chẳng hạn?
Tất cả mọi tệ nạn xấu xa đều là hệ quả của tình trạng vô minh. Bạn có thể giảm nhẹ các hậu quả của vô minh, nhưng bạn không thể loại trừ chúng được trừ phi bạn loại trừ nguyên nhân của chúng. Sự thay đổi đích thực xảy ra ở bên trong, chứ không ở bên ngoài.
Nếu bạn cảm thấy mình được ơn trên ban cho sứ mệnh xoa dịu đau khổ cho thế giới này, thì đây là việc làm vô cùng cao quý, nhưng hãy ghi nhớ là không nên chỉ chú trọng đến phần bên ngoài thôi; nếu không bạn sẽ phải nản lòng và thất vọng. Nếu không có sự chuyển biến sâu sắc trong ý thức nhân loại, thì đau khổ của thế gian này là hố thẳm không đáng. Cho nên, đừng để cho lòng trắc ẩn của bạn trở thành phiến diện. Sự đồng cảm với đau khổ hay thiếu thốn của người khác và ước muốn giúp đỡ họ cần phải được cân bằng với tri kiến sâu sắc về bản tính vĩnh hằng của tất cả mọi sự sống và về cái ảo tưởng tối hậu của tất cả mọi khổ đau. Sau đó mới để cho sự thanh thản an bình của bạn tuôn chảy vào bất cứ hành động nào của mình, và bạn sẽ tác động đồng thời trên các bình diện hệ quả và nguyên nhân.
Cũng nên hành động y như thế trong trường hợp bạn ủng hộ một phong trào nhằm ngăn chặn những con người mê muội sâu sắc để họ khỏi hủy hoại bản thân, hủy hoại lẫn nhau, và tàn phá hành tinh này; để cho họ không tiếp tục gây thêm nhiều khổ đau cho các loài hữu hình khác. Hãy ghi nhớ rằng: Bạn không thể chiếu đấu chống lại vô minh, cũng giống như bạn không thể chiến đấu chống lại bóng tối vậy. Nếu bạn ra sức làm như vậy, thì các đối cực sẽ trở nên mạnh mẽ hôn và càng bám chặt sâu hơn nữa. Lúc ấy bạn sẽ bị đồng hóa với một trong các đối cực ấy, bạn sẽ tạo ra một “kẻ thù”, và do đó chính bạn cũng bị lôi kéo sa vào lưới vô minh. Nâng cao sự hiểu biết cho mọi người bằng cách phổ biến thông tin, hoặc tối đa là tiến hành sự phản kháng thụ động cũng được. Nhưng hãy chắc rằng bạn không mang nặng gánh phản kháng trong lòng, không căm thù, không tiêu cực. Câu nói “Hãy yêu kẻ thù của ngươi” của Chúa Jesus dĩ nhiên có nghĩa là “không có kẻ thù”.
Một khi bị lôi cuốn phải tác động ở bình diện hệ quả, bạn rất dễ dàng đánh mất bản thân vào việc làm ấy. Hãy đề cao cảnh giác và hiện trú thật toàn triệt. Bình diện nguyên nhân phải luôn là trọng tâm chính của bạn, giáo lý giác ngộ phải luôn là mục tiêu chủ yếu của bạn, và sự an bình thanh thản phải luôn là món quà quí giá nhất bạn dành tặng cho thế gian.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.