Lịch Sử Văn Minh Ấn Độ
CHƯƠNG IX – ẤN ĐỘ VÀ KI TÔ GIÁO
I. BỌN GIẶC BIỂN ĐẮC THẾ
Người Âu tới Ấn – Anh chiếm Ấn – Cuộc khởi nghĩa Cipaye – Sự thống trị của Anh: lợi và hại.
Về nhiều phương diện, nền văn minh Ấn Độ có thể coi như chết rồi khi Clive và Warren Hastings thấy nguồn lợi phong phú của xứ đó. Triều đại rất dài của Aureng-Zeb đã làm cho tinh thần dân tộc suy nhược nhiều; kế đó, loạn lạc và chiến tranh xảy ra làm cho Ấn như một trái chín mùi khi có ngoại xâm. Vậy chỉ còn có vấn đề này là số phận của nó sẽ lệ thuộc vào cường quốc nào ở châu Âu đây. Người Pháp muốn lãnh vai trò đó, nhưng thất bại và mất Ấn Độ ở trận Rossbach và trận Waterloo[1]. Người Anh thử vận và thành công.
Năm 1498, Vasco de Gama, khởi hành từ Lisbonne, sau mười một tháng lênh đênh trên biển, thả neo ở Calicut, Rijah (vua) ở Malabar, giao cho ông ta một bức thư nhã nhặn để trình lên vua Bồ Đào Nha: “Ông Vasco de Gama, một vị quí tộc ở triều đình Đại vương, đã lại yết kiến quả nhân và quả nhân lấy làm vui lắm. Tệ quốc có nhiều quế, đinh hương, hồ tiêu và bảo ngọc. Quả nhân muốn đổi lấy vàng, bạc, san hô và dạ đỏ của đại quốc”. Vua Bồ Đào Nha hồi âm, buộc Ấn phải tự nhận là thuộc địa Bồ Đào Nha, viện ra những lí lẽ mà Rajah lạc hậu quá không hiểu nổi. Để phá tan mọi sự hiểu lầm, Bồ Đào Nha phái một hạm đội tới truyền bá Ki Tô giáo và gây chiến với Ấn. Thế kỉ XVII, người Hoà Lan tới đuổi Bồ Đào Nha đi; thế kỉ XVIII, Pháp và Anh tới, lại đuổi Hoà Lan đi. Họ giao chiến với nhau kịch liệt để xem Chúa cho bên nào được cái vinh dự khai hoá Ấn Độ… và bắt người Ấn nộp thuế.
Công ty Đông Ấn[2] thành lập ở Londres năm 1600 để mua rẻ tại chỗ những thổ sản của Ấn và các xứ lân cận đem về châu Âu bán thật đắt[3]. Từ năm 1868, công ty tuyên bố tính “lập ở Ấn một đế quốc Anh mênh mông, trường cửu trên những cơ sở vững vàng”. Họ tạo nhiều thương quán ở Madras, Calcutta, Bombay, xây đắp thành luỹ, đưa quân đội tới, gây chiến, hối lộ, tham nhũng, tóm lại là thi hành chức vụ của một chính quyền. Clive thản nhiên nhận của các tiểu vương Ấn những lễ vật tới ba triệu rưỡi quan, lại bắt họ nộp cống mỗi năm gần ba triệu quan nữa; bán cho Mir Jafar chức Nabab (tổng đốc Hồi giáo) xứ Bengale với giá một trăm hai chục triệu quan; xúi bẩy các thủ lãnh bản xứ kình địch lẫn nhau, lần lần chiếm đất đai của họ mà sáp nhập vào Công ty; ông ta hút thuốc phiện, bị đưa ra Quốc hội Anh xử [vì tội tham nhũng kinh khủng]; được trắng án [vì có nhiều công lao với triều đình], sau cùng tự tử. Warren Hastings can đảm, có học thức, khéo léo, buộc các tiểu vương Ấn nộp thuế hai chục triệu quan cho vào quỹ Công ty; ông bảo nộp đủ thì sẽ không đòi gì thêm nữa, nhưng rồi ông vẫn đòi thêm và những tiểu quốc không đủ sức nộp thì ông chiếm luôn; ông đem quân chiếm tỉnh Oudh rồi bán lại tỉnh đó cho một rajah lấy năm chục triệu quan; về cái thói tham tiền, vụ lợi thì kẻ thắng và kẻ bại chẳng ai thua ai. Trong những miền công ty đã chiếm được, họ đánh thuế điền thổ bằng nửa huê lợi, và vô số sắc thuế khác nữa, nặng è cổ ra, tới nổi hai phần ba dân chúng chịu không nổi phải bỏ nhà bỏ cửa, dắt díu nhau đi nơi khác, kẻ nào ở lại thì phải đợ con để có tiền nộp thuế. Macaulay viết: “Họ gây những sản nghiệp đồ sộ ở Calcutta trong khi ba chục triệu dân Ấn xác xơ, cùng khốn tột bực. Đành rằng dân Ấn đã quen sống dưới một chế độ bạo tàn, nhưng chưa bao giờ chịu một chế độ, một chế độ bạo tàn như vậy”.
Khoảng 1857, chính sách tàn nhẫn đó của Công ty làm cho miền Đông Bắc Ấn nghèo quá đổi, dân chúng không chịu nổi nửa, phất cờ khởi nghĩa [tức cuộc khởi nghĩa của lính Cipaye][4]. Chính quyền Anh can thiệp, dẹp được, mua lại đất đai của Công ty với một giá cao, rồi bắt Ấn phải trả như một món nợ của toàn thể dân Ấn; thế là đất đai của Công ty thành thuộc địa của Hoàng gia Anh. Đúng là một cuộc xâm chiếm không trá hình gì cả mà ta không nên phê phán theo những giới luật người ta tụng mỗi ngày ở phía Tây kinh Suez; phải phê phán theo những học thuyết của Darwin và Nietzche: một dân tộc đã mất khả năng tự cai trị lấy mình hoặc mất khả năng tự khai thác lấy những nguồn lợi thiên nhiên của mình thì nhất định phải làm mồi cho những quốc gia quá tham lam và quá mạnh.
Nhưng cuộc xâm lăng đó cũng có lợi đôi phần cho Ấn. Những người như Bentinck, Canning, Munro, Elphinstone và Macaulay đã cai trị Ấn theo tinh thần rộng rãi, tự do nảy nở ở Anh năm 1832. Nhờ các nhà cải cách bản xứ như Ram Mohun Roy giúp đỡ, có khi thúc đẩy nữa, Huân tước Bentinck bãi bỏ tục suttee (hoả thiêu quả phụ) và cấm thói giết người tế thần của giáo phái Thug. Sau một trăm mười một cuộc hành quân, hết thảy đều dùng lính Ấn, tiền bạc của Ấn, người Anh chiếm trọn bán đảo, lập được cảnh bình trị, xây đường xe lửa, dựng xưởng máy, trường học, mở các trường Đại học Calcutta, Madras, Bombay, Lahore, Allabahad, truyền bá khoa học và công nghệ học, tiêm lý tưởng dân chủ của phương Tây vào tinh thần phương Đông và giới thiệu cho thế giới biết nền văn hóa phong phú của Ấn Độ thời xưa. Nhưng những cái lợi đó, người Ấn đã phải trả bằng một chính sách độc đoán về tài chính làm cho các chủ nhân ông – tức người Anh – làm giàu trên xương máu người Ấn, vơ vét hết của cải của Ấn rồi xách vali về xứ để nghỉ dưỡng sức; bằng một chính sách độc đoán về kinh tế làm suy sụp nền kĩ nghệ bản xứ, tới nỗi mấy triệu thợ thủ công Ấn thành thất nghiệp, phải trở về đồng ruộng quá nghèo, cằn, không đủ nuôi họ; sau cùng, bằng một chính sách độc đoán về chính trị – gần như nối tiếp ngay chính sách hà khắc, hẹp hòi của Aureng-Zeb – làm cho tinh thần Ấn Độ tan rã trong một thế kỉ.
II. NHỮNG “VỊ THÁNH CỦA NGÀY CUỐI CÙNG”
Ki Tô giáo ở Ấn – Brahma Somaj – Hồi giáo – Ramakrishna – Vivekananda.
Trong hoàn cảnh đó, dĩ nhiên là Ấn Độ tìm nguồn an ủi trong tôn giáo. Mới đầu, trong một thời gian, họ tiếp đón Ki Tô giáo với một tinh thần thân thiện; họ thấy tôn giáo đó dạy nhiều qui tắc luân lí mà chính họ cũng đã tôn trọng từ mấy ngàn năm trước; và tu viện trưởng Dubois bảo: “Trước khi người Ấn biết tư cách cùng phong tục của người Âu thì đạo Ki Tô cơ hồ có thể truyền vô Ấn Độ được”. Suốt thế kỉ XIX, các nhà truyền giáo cố hò hét, gióng lên tiếng hô hào của Chúa Ki Tô mặc dầu bị tiếng đại bác lấn át; họ dựng trường học và nhà thương, phát chẩn, phát thuốc và không quên phát các sách giáo lí cương yếu, và lần đầu tiên họ làm cho một số người Ấn nhận rằng hạng “tiện dân” cũng là người như ai. Nhưng rồi người Ấn thấy lời dạy của Chúa Ki Tô với hành vi của tín đồ Ki Tô sao mà trái ngược nhau quá, họ đâm hoài nghi, có kẻ mỉa mai, châm biếm nữa. Họ bảo sự tái sinh của thánh Lazare có gì đáng kể đâu vì tôn giáo họ vẫn luôn luôn thực hiện được những phép màu lạ lùng hơn nhiều; chứng cớ là các yogi chân chính hiện nay vẫn làm được nhiều phép màu còn Ki Tô giáo thì có làm thêm được phép nào mới nữa đâu. Các người Bà La Môn hiên ngang giữ vững tín ngưỡng, đưa ra một hệ thống tư tưởng cũng tế nhị, thâm thuý và cũng khó chấp nhận, để chống lại các chính giáo phương Tây. Charles Eliot bảo: “Sự truyền bá Ki Tô giáo ở Ấn chẳng tiến bộ được bao nhiêu”.
Cứ xét tỉ số người Ấn theo Ki Tô giáo, trong ba trăm năm mà chỉ được 6%, ta tưởng Ki Tô giáo chẳng có ảnh hưởng gì lớn cả; nhưng sự thực cá tính của Chúa Ki Tô đã làm cho dân tộc Ấn phải mê. Cuốn Bhagavad-Gita đã ghi dấu hiệu của ảnh hưởng đó; rồi gần đây Gandhi và Rabidranath Tagore cũng có tinh thần Ki Tô giáo nữa. Nhưng hiển nhiên nhất là ảnh hưởng của Ki Tô giáo tới phong trào cải lương Brahma-Somaj[5] do Ram Mohun Roy phát động năm 1828. Không ai có đủ tư cách hơn Roy để nghiên cứu vấn đề tôn giáo. Ông học tiếng sanscrit để đọc các kinh Veda, tiếng pali để đọc Tripitaka [Kinh, Luật, Luận] của Phật giáo, tiếng Ba Tư và tiếng Ả Rập để hiểu Hồi giáo và kinh Coran, tiếng hébreu để hiểu Cựu Ước và tiếng Hi Lạp để hiểu Tân Ước. Sau cùng ông học tiếng Anh và viết tiếng Anh hay tới nỗi Jeremy Bentham mong sao James Mill[6] cũng có được một bút pháp thanh nhã, hoàn toàn như vậy. Năm 1820, Roy xuất bản cuốn Lời dạy của Chúa Ki Tô: Kim chỉ nam để đạt được hạnh phúc và sự an ổn tâm hồn. Ông bảo: “Tôi nhận rằng giáo lí của Chúa Ki Tô tạo được đạo đức và hợp với nhu cầu của những người có lí trí, hơn hết thảy các tôn giáo khác mà tôi biết được”. Vì vậy ông đề nghị với đồng bào một tôn giáo mới, bỏ đa thần giáo, chế độ đa thê, chế độ tập cấp, tục cưới gả trẻ con, tục hoả thiêu quả phụ, tục thờ các ngẫu tượng, mà chỉ nhận mỗi một Đấng Tối Cao là Brahman. Đồng bào ông ngạc nhiên, bất bình. Cũng như Akbar, ông mong ước dân tộc ông đoàn kết với nhau, chung quanh tôn giáo rất giản dị đó, và cũng như Akbar, ông coi thường sức mạnh của lòng mê tín. Sau một trăm năm gắng sức, phong trào Brahman-Somaj ngày nay gần như không có chút ảnh hưởng nào cả[7].
Các người Hồi giáo chỉ là một thiểu số tôn giáo, nhưng một thiểu số mạnh nhất, đáng kể nhất; chúng tôi sẽ nghiên cứu đạo đó trong một cuốn riêng. Chúng ta không ngạc nhiên rằng mặc dầu Aureng-Zeb đã gắng sức mà Hồi giáo không thu phục được dân tộc Ấn; trái lại, điều này mới ngạc nhiên là sao Hồi giáo không bị Ấn giáo đánh đổ. Nhất thần giáo đơn giản mà mạnh mẽ đó tồn tại được giữa khu rừng đa thần giáo, đủ tỏ tư cách của người Hồi hùng dũng ra sao, ta nên nhớ rằng đạo Phật đã bị đạo Bà La Môn thu hút, như vậy thấy sức kháng cự của đạo Hồi đáng phục thật. Chúa Allah [đạo Hồi] hiện nay được bảy chục triệu người thờ ở Ấn.
Tóm lại, Ấn Độ tìm được ít niềm an ủi trong các tôn giáo ngoại lai và những sứ đồ ở thế kỉ XIX đã ảnh hưởng mạnh nhất tới dân chúng chính là những vị đã dựa vào các giáo lí cổ và các tập quán, lễ nghi tôn giáo trong dân gian. Ramakrishna, một người Bà La Môn nghèo ở Bengale, đã có hồi theo đạo Ki Tô, mê Chúa Ki Tô[8], lại có hồi ông theo Hồi giáo, dự các lễ của tôn giáo nghiêm khắc đó, nhưng chẳng bao lâu ông trở về Ấn giáo, thờ cả nữ thần hung dữ Kali [vợ thần Shiva và là nữ chúa ở Âm Ti] mà ông biến thành một Thần Mẫu rất âu yếm, hiền từ. Ông bài xích thuyết chủ trí, chủ trương điều khiển và hợp nhất tình thương: Bhakti-yoga. Ông bảo: “Sự nhận thức Thượng Đế, khác với lòng yêu Thượng Đế, cũng như đàn ông khác với đàn bà. Tri thức chỉ vô được những đền thờ ở ngoài, chỉ lòng yêu mới đạt được những bí ẩn sâu kín nhất của Thượng Đế”. Trái với Ram Mohun Roy, Ramakrishna không chịu học thêm, ông không biết tiếng Sanscrit, không biết tiếng Anh; không viết lách gì cả và tránh các cuộc tranh luận. Một hôm một nhà luận-lí-học hỏi ông: “Tri thức là gì? Chủ thể biết là gì? Khách thể được biết là gì?”, ông đáp: “Ông ơi, tôi đâu có biết tất cả những tế vi kinh viện đó, tôi chỉ biết Thần Mẫu của tôi và chỉ biết rằng Ngài đã sinh ra tôi”. Ông dạy các tín đồ: Tôn giáo nào cũng có chỗ tốt: mỗi tôn giáo cho ta một phương tiện đạt được Thượng Đế hoặc ít nhất cũng là một giai đoạn trên con đường đựa tới Thượng Đế, và hợp với trí tuệ và tấm lòng của người đi tìm chân lí. Cải giáo là chuyện điên khùng, cứ theo con đường của mình và tìm hiểu cái tinh tuý của tôn giáo mình. “Dòng sông nào cũng đổ ra biển. Cứ theo dòng sông của mình, mặc người khác theo phía họ”. Ông chấp nhận đa thần giáo trong dân chúng, có chút cảm tình với tín ngưỡng đó nữa, mà cũng cung kính chấp nhận cả thuyết nhất thần của các triết gia; nhưng riêng ông thì ông tin rằng Thượng Đế ở trong mọi người và cách chân chính để thờ phụng Ngài là yêu toàn thể nhân loại.
Nhiều người có tâm hồn cao thượng, trong giới giàu có cũng như trong giới nghèo khổ, Bà La Môn có, hạng “ti tiện” có, coi ông là Guru (tôn sư) và lập một hiệp hội dưới danh nghĩa của ông. Tín đồ xuất sắc nhất là một Kshatriya trẻ tuổi, tự đắc tên là Narendranath Dutt, làu thông học thuyết của Darwin và Spencer, xin được gặp ông. Lúc đó, chàng là một người bất mãn vì chủ trương vô thần, thắc mắc, đau khổ, nhưng lại khinh tôn giáo mà chàng cho là chỉ gồm toàn những thần thoại, những mê tín dị đoan. Chàng phục lòng nhân từ kiên nhẫn của Ramakrishna, và thành đệ tử nhiệt thành của “thầy”; chàng bảo Thượng Đế là “tổng số mọi linh hồn” và khuyên các đạo hữu muốn tu thì đừng theo lối khổ hạnh, toạ thiền mà cứ tuyệt đối hi sinh cho mọi người.
Để đến kiếp sau hãy đọc triết thuyết Vedanta và toạ thiền.
Trong kiếp này hãy đem thân xác còn sống của ta này phục vụ người khác!…
Đây là chân lí cao nhất: Thượng Đế ở trong vạn vật. Vạn vật chỉ là những hình thức của Ngài thôi.
Đừng tìm Thượng Đế nào khác. Chỉ người nào phục vụ vạn vật là thực sự thờ phụng Thượng Đế.
Sau “Naren” đổi tên là Vivekananda, rời Ấn Độ để đi khắp nơi quyên tiền cho Giáo hội Ramakrishna. Năm 1893, ông ta tới Chicago, không còn một đồng trong túi, bơ vơ. Hôm sau, lấy tư cách là đại diện Ấn giáo, ông diễn thuyết ở Hôi nghị các tôn giáo tổ chức nhân cuộc đại triển lãm ở Chicago. Ông uy nghi bước lên diễn đàn, thuyết về sự nhất thể của các tôn giáo, về cái đạo thờ Thượng Đế là phải phục vụ mọi người, thính giả say mê nghe ông; nhờ giọng hùng hồn, cảm hứng, chủ trương vô thần của ông thành một tôn giáo cao thượng, và nhiều tăng đồ Anh, Mĩ chính thống vỗ tay khen con người “vô tín ngưỡng” bảo Chúa chỉ là linh hồn của các sinh vật đó. Trở về Ấn, ông thuyết cho đồng bào ông một tôn giáo vô cùng cương cường hơn hết những thuyết họ được nghe từ thời các kinh Veda:
Chúng ta cần một tôn giáo tạo những con người cho ra người… Bạn nên bỏ những tôn giáo thần bí làm cho bạn suy nhược đi, và bạn nên cương cường… Trong năm chục năm sắp tới đây… chúng ta nên bỏ hết các thần linh khác trong trí óc ta đi. Chỉ có mỗi một Đấng Thượng Đế có ý thức là nòi giống của ta, đâu đâu cũng có bàn tay của Ngài, bàn chân của Ngài; cặp tai của Ngài[9]; Ngài bao trùm hết thảy… Sự sùng bái chính đáng nhất là sự sùng bái vạn vật chung quanh ta… Người và vật, đó là các thần linh chân chính của ta và những thần mà chúng ta phải thờ phụng trước nhất, chính là đồng bào của chúng ta[10].
Vivekananda và Gandhi không cách biệt nhau bao nhiêu.
III. RABINDRANATH TAGORE
Khoa học và nghệ thuật – Một gia đình toàn những thiên tài – Tuổi trẻ của Rabindranath – Thơ của ông – Thơ chính trị – Thi phái của ông.
Nhưng mặc dầu bị áp bức, nghèo khổ, chịu trăm nỗi cay đắng, Ấn Độ vẫn tiếp tục sáng tác về khoa học, văn học, nghệ thuật. Giáo sư Jagadis Chandra Bose nổi tiếng khắp thế giới về công trình nghiên cứu điện học và sinh lí thảo mộc; còn công trình của nhà vật lí học Chandrasekhara Raman về quang học thì được giải thưởng Nobel. Một hoạ phái thành lập mới đây ở Bengale, dung hoà sự rực rỡ về màu sắc trong các bích hoạ Ajanta với nét vẽ tinh tế của các tế hoạ rajpute. Các bức hoạ của Abanindranath Tagore vừa có tính cách thần bí[11] vừa có cái tình cảm tao nhã trong những bài thơ nổi danh khắp thế giới của chú (hay bác) ông[12].
Gia đình Tagore là một trong những gia đình danh tiếng trong lịch sử. Davendranath Tagor là một trong những sáng lập viên rồi thành thủ lãnh phong trào Brahma-Somaj; giàu có, học rộng lại có đạo đức, ông về già được dân chúng Bengale trọng vọng. Các nghệ sĩ Abanindranath và Gogonendranath là hậu vệ của ông; còn triết gia Dwijendranath và thi sĩ Rabindranath Tagore là con ông.
Rabindranath sinh trưởng trong một gia đình phong lưu tao nhã; nhạc, thơ và các câu chuyện về những vấn đề cao thượng bao lấy ông như không khí chúng ta thở. Ngay từ tuổi thơ, ông đã có một tâm hồn ưu tú như một Shelley[13] nhưng không muốn chết yểu mà cứ muốn trẻ hoài; ông hiền từ tới nỗi sóc leo lên đầu gối và chim đậu lên bàn tay ông. Ông có một bộ óc quan sát mẫn nhuệ, sẵn sàng ghi lấy các điệu hoà âm (harmonique) cuốn xoáy của đời sống rồi lòng đa cảm, yêu thần bí của ông lọc lại mà làm thành thơ. Có khi ông ngồi hằng giờ ở bao lơn, để cho bản năng thi sĩ ghi hết những nét, vẻ đặc biệt, cử chỉ của khách qua đường, có khi suốt nửa ngày ông ngồi ở đi-văng trong phòng nhớ lại những mộng tưởng, hồi kí xa xăm. Ông viết những câu thơ đầu tiên trên một tấm đá đen[14], để có muốn sửa chữa thì bôi đi cho dễ. Chẳng bao lâu ông làm được những bài thơ rất đa cảm, dịu dàng để tả những cảnh đẹp của Ấn Độ, những vẻ duyên dáng của phụ nữ Ấn, những đau khổ của dân tộc Ấn; ông lại phổ những bài thơ đó vào nhạc nữa. Thơ ông được toàn dân hát lên và thi sĩ trẻ tuổi đó cảm động vô cùng mỗi khi đi chơi đâu mà nghe thấy lời thơ của mình ở trên miệng những nông dân cục mịch trong làng hẻo lánh nhất. Dưới đây là một bài của ông. Có thi sĩ nào vừa hoài nghi lại vừa âu yếm, làm nổi bật được cái vô lí nhưng rất thần tiên của ái tình lãng mạn như ông?
Nói cho em nghe đi, anh, tất cả cái đó có đúng không, có thật đúng không?
Khi mắt em sáng ngời lên thì những đám mây đen dông tố ùn ùn trong lòng anh.
Môi em dịu dàng như đoá hoa đầu tiên của một ái tình chớm nở, thật vậy không anh? Hồi kí mấy tháng năm trước kia chưa mờ trong lòng em ư?
Mặt đất, dưới gót chân em, vang lên như một thụ cầm, thật vậy không anh?
Có thật vậy không, bóng đêm khi thấy em, thì sương rớt xuống như lệ, còn ánh sáng ban mai tưng bừng bao phủ thân em?
Có thật là lòng anh đã tìm em từ hồi khai thiên lập địa, trong khắp vũ trụ?
Rồi tới khi gặp em, nghe giọng nói, ngắm cặp mắt, làn môi, mớ tóc xoã của em, lòng anh đã dịu xuống?
Và còn điều này nữa, có thật là cái bí mật của Vô biên ở trong vừng trán nhỏ của em không? Tất cả những cái đó có thật không anh, nói cho em nghe đi.
Những bài thơ đó có nhiều đặc sắc[15]; trước hết là một lòng ái quốc nồng nàn tuy kín đáo; một lòng hiểu biết ái tình và phụ nữ, thiên nhiên và đàn ông một cách tế nhị mà thường đàn bà mới có; tình cảm và bút pháp rất tao nhã làm cho ta nhớ tới các thi sĩ Tennyson[16]; sau cùng tác giả đã hiểu thấu đáo triết học Ấn. Nếu ai có dám trách ông thì có thể trách rằng bài nào cũng đẹp, đầy lí tưởng và có giọng âu yếm, thành thử đọc thấy đơn điệu. Trong thơ ông, phụ nữ bao giờ cũng thấy quyến rũ, đàn ông bao giờ cũng điên cuồng mê đàn bà, ham chết hoặc tôn sùng Thượng Đế; thiên nhiên đôi khi đáng sợ, nhưng luôn luôn vĩ đại, không bao giờ hoang lương hoặc xấu xí[17]. Có lẽ truyện nàng Chitra chính là truyện của ông: sau một năm yêu nhau, tình nhân của nàng là Arjuna chán nàng vì nàng lúc nào cũng hoàn toàn đẹp; chỉ sau khi nàng đã hết đẹp thành một người đàn bà khoẻ mạnh, cương nghị, làm mọi công việc lặt vặt hằng ngày thì chàng mới yêu nàng lại; đó chẳng phải là hình ảnh các cuộc hôn nhân hạnh phúc ư? Tagore có lần tự thú tật của mình một cách ý nhị, dễ thương:
Em ơi, thi sĩ của em định viết một anh hùng trường ca.
Nhưng hỡi ơi, anh vô ý để cho trường ca đó đụng nhằm mắt cá chân em, và thật tai hại, Nó tan tành thành mảnh thơ ở dưới chân em đây này.
Ông vẫn tiếp tục làm thơ và khắp thế giới, trừ các nhà phê bình cố chấp, đều thích thơ ông. Ở Ấn Độ, người ta hơi ngạc nhiên khi hay tin ông được giải thưởng Nobel (1913); các đồng bào ông ở Bengale chỉ thấy những khuyết điểm trong thơ ông thôi, còn các giáo sư Calcutta chê ông viết tiếng Bengali rất tồi. Các thanh niên trong phong trào quốc gia không ưa ông vì ông vạch những cái tệ của đời sống luân lí Ấn nhiều hơn là hô hào được tự do về chính trị, và khi vua Anh phong tước cho ông (tòng nam tước: baronet) thì họ cho là một sự phản bội dân tộc. Nhưng ông không được hưởng lâu những vinh dự đó, vì do một sự hiểu lầm bi thảm, một đội quân Anh bắn xả vào đám đông ở Amritsar (1919), ông gởi trả phó vương Ấn tất cả những huy chương của ông cùng với một bức thư lời lẽ rất nghiêm khắc. Từ đó ông sống cô độc cho tới khi chết (1941). Mấy năm cuối cùng, ông có lẽ là một nhân vật kích động nhất thế giới: là nhà cải cách, ông có can đảm mạt sát chế độ làm nền tảng cho xã hội Ấn, tức chế độ tập cấp, đả đảo tín ngưỡng phổ thông nhất của dân tộc Ấn, tức thuyết luân hồi; là nhà ái quốc, ông mong nước ông được tự do, độc lập nhưng có can đảm chống chủ nghĩa bài ngoại, chê phong trào quốc gia có nhiều kẻ ích kỉ, hẹp hòi; là nhà giáo dục, ông tuyên bố rằng chán ngấy sự hùng biện và chính trị. Ông rút vào trong ashram của ông, nơi ẩn cư của ông ở Shantiniketan, tại đó ông dạy cho vài thanh niên cái đạo giải phóng tinh thần. Ông đứt ruột khi bà sớm qui tiên và khi tổ quốc ông bị mọi nỗi tủi nhục; ông thấm nhuần triết thuyết Vedanta; vì có tinh thần thần bí, ông do dự như Chandi-Das, ca tụng Thượng Đế mà cũng ca tụng đàn bà, nhưng nhờ hiểu biết rất rộng ông không còn lòng tín ngưỡng của tổ tiên ông nữa; còn về lòng yêu thiên nhiên, thì ông dùng tài thi ca thơ trẻ hoài của ông để chống với tiếng gọi của Thần Chết.
A, thi sĩ, bóng đã xế tà, tóc đã đốm bạc.
Mơ tưởng trong cảnh tịch liêu, thi sĩ có nghe thấy tiếng gọi của thế giới bên kia không?
Thi sĩ đáp: Bóng đã xế, và tôi lắng tai nghe, vì dù có khuya chăng nữa thì vẫn có thể có người trong làng gọi tôi.
Tôi thức để chờ khi có hai trái tim trẻ lang thang gặp nhau, hai cặp mắt năn nỉ tôi gảy một khúc đờn để phá sự im lặng của họ, nói thay cho họ.
Nếu tôi ngồi ở bờ cuộc sống này mà mãi suy tư về sự chết và thế giới bên kia thì ai dệt những lời ca say đắm cho họ?…
Tóc đốm bạc thì cũng mặc.
Tôi vẫn luôn luôn thấy mình trẻ như người trẻ nhất và cũng già như người già nhất ở làng này… Hết thảy họ đều cần đến tôi và tôi không có thì giờ nghĩ đến kiếp vị lai.
Tôi cùng tuổi với mỗi người dân trong làng này, vậy thì tóc đốm bạc có gì là quan hệ?
IV. ĐÔNG PHƯƠNG VÀ TÂY PHƯƠNG
Ấn Độ trên con đường biến chuyển – Biến chuyển về kinh tế – Biến chuyển về xã hội – Chế độ tập cấp suy vi – Tập cấp và đoàn thể nghề nghiệp – Nhiệm vụ mỗi ngày mỗi lớn của phụ nữ.
Một người gần năm chục tuổi chưa hề biết một tiếng Anh mà rồi viết tiếng Anh hay được như vậy, thì phá một vài cái hàng rào ngăn cách Đông với Tây đâu phải là chuyện khó. Một thi sĩ khác nguyền rủa sự thống trị của phương Tây, vì từ khi Tagore mới chào đời, phương Tây đã xâm nhập phương Đông bằng mọi cách và đương làm thay đổi lần lần tất cả đời sống phương Đông. Một hệ thống gồm gần năm chục ngàn cây số xe lửa đã bao quanh các sa mạc và cao nguyên của Ấn và làm cho mỗi làng thay đổi bộ mặt; điện tín và báo chí đã đem tin tức của một thế giới đương biến chuyển lại cho những người quan tâm tới thời cuộc, các trường học Anh dạy tiếng Anh để tạo những công dân Anh đã vô tình tiêm cho học sinh những ý tưởng dân chủ, tự do của Anh.
Bị điêu đứng, cùng quẫn ở thế kỉ XIX, vì súng Anh tốt hơn, máy dệt của Anh sản xuất mạnh hơn, bây giờ Ấn Độ đã miễn cưỡng chịu theo chính sách kĩ nghệ hoá vậy. Ngành thủ công chết, xưởng máy mỗi ngày mỗi mọc thêm. Ở Jamsetpur, công ty “Tatar Iron and Steel” dùng 45.000 thợ và muốn truất ngôi bá chủ của Mĩ về ngành sản xuất thép. Sức sản xuất than của Ấn cũng đương tiến mạnh; chỉ trong một thế hệ nữa, Trung Hoa và Ấn có thể khai thác lấy các mỏ nhiên liệu và nguyên liệu cần thiết cho kĩ nghệ và về điểm đó, vượt được sức sản xuất của Âu và Mĩ. Các tài nguyên đó dư để thoả mãn nhu cầu trong nước, sẽ có thể cạnh tranh với phương Tây trên thị trường thế giới; các cường quốc xâm lăng châu Á rồi đây sẽ mất chỗ tiêu thụ hàng hoá; sự thịnh vượng của họ sẽ suy lần và bị các nước nhân công rất rẻ cạnh tranh gay gắt.
Ở Bombay, nay vẫn còn những xưởng lạc hậu như ở giữa triều đại nữ hoàng Victoria[18], trả cho thợ những số lương hồi xưa mà bọn Tory[19] thấy phải thèm thuồng[20]. Chủ nhân ông xưa là Anh, bây giờ là Ấn và bóc lột đồng bào họ cũng tàn nhẫn như bọn cá mập châu Âu, chứ không kém.
Cơ sở kinh tế của xã hội Ấn thay đổi thì tất nhiên các chế độ, tục lệ của dân cũng chịu ảnh hưởng. Chế độ tập cấp xưa dựng lên cho một xã hội ổn cố, nông nghiệp; nó tạo được trật tự nhưng không để cho cá nhân có tinh thần tự do, óc sáng kiến, tiến thủ, hi vọng cải thiện đời sống của mình; nó không khuyến khích óc sáng tạo, kinh doanh; cho nên khi cách mạng kĩ nghệ lan tràn vào Ấn thì nó không hợp thời nữa. Máy móc không phân biệt tập cấp, trong đa số các xưởng, các thợ tập cấp khác nhau làm việc sát cánh nhau; xe điện, xe lửa dành những toa sang trọng có giường cho những ai có tiền mua vé, bất cứ là ở tập cấp nào; các hợp tác xã và chính đảng thu nhận hội viên, đảng viên trong mọi tập cấp và ở trong rạp hát, ở ngoài đường, dù chẳng muốn thì Bà La Môn với tiện dân cũng phải chen vai thích cánh nhau. Một rajah tuyên bố rằng bất kì ai, dù ở tập cấp nào, theo tôn giáo nào cũng được ông tiếp kiến ở triều đình; một người Shudra (tập cấp thủ công) thành một ông vua sáng suốt ở Baroda; phong trào Brahma-Somaj tố cáo chế độ tập cấp và trong Đại hội quốc gia, tỉnh bộ Bengale đòi thủ tiêu mọi sự phân biệt tập cấp. Lần lần một tân giai cấp nổi lên, giàu sang, có quyền hành, trong khi giới quí tộc cổ nhất mỗi ngày một lụn bại.
Những từ ngữ để chỉ các tập cấp đương mất ý nghĩa rồi đó. Danh từ vaisya còn được dùng trong vài cuốn sách, nhưng trong đời sống hàng ngày không ai dùng nữa. Danh từ shudra cũng đã biến mất ở phương Bắc, còn ở phương Nam, thì nó trỏ một cách mơ hồ tất cả những người không phải là Bà La Môn. Mấy tập cấp thấp hèn hồi xưa đã được thay bằng ba ngàn “tập cấp”, gọi là tập cấp chứ thật sự là đoàn thể: chủ ngân hàng, thương gia, kĩ nghệ gia, điền chủ, giáo sư, kĩ sư, người gác đường, nữ sinh trung học, đồ tể, hớt tóc, đánh cá, đào kép, thợ mỏ, thợ giặt, xà ích, các cô bán hàng, các em đánh giày, hết thảy đều tổ chức thành những đoàn thể cùng nghề, nhưng khác với nghiệp đoàn phương Tây, nhất là ở điểm này: không ít thì nhiều, người nào cũng mong con cái nối nghiệp mình.
Bi kịch lớn nhất của chế độ tập đoàn là làm cho số tiện dân mỗi thế hệ một tăng thành thử tinh thần nổi loạn của họ mỗi ngày một mạnh, làm lung lay nền tảng của chế độ đó. Số người ti tiện, không được nhận vào tập cấp nào, thấy hàng ngũ của mình tăng lên hoài vì thêm những kẻ do chiến tranh hoặc không trả nổi nợ mà thành nô lệ, tất cả những trẻ mà cha là Bà La Môn, mẹ là Shudra, tất cả những kẻ khốn nạn làm những nghề quét đường, đồ tể, mãi võ, chèo thuyền, đao phủ mà luật Bà La Môn cho là những nghề đê tiện; mà số người đó tăng rất mau vì họ đẻ nhiều con, chẳng nghĩ gì tới tương lai cả, vì có còn gì đâu để mà mất. Họ nghèo khổ ghê gớm đến nỗi ăn ở rất dơ dáy, sự sạch sẽ đối với họ là một xa xí phẩm không thể nào hưởng được, người ta phải xa lánh họ là phải[21]. Cho nên luật tập cấp cấm một người tiện dân lại gần một Shudra quá bốn mét, lại gần một Bà La Môn quá mười chín mét. Nếu bóng của một người tiện dân chiếu vào một người trong bất kì tập cấp nào thì người này phải tắm gội để tẩy uế tức thì. Một kẻ “ngoài các tập cấp” mà đụng tới một vật nào thì vật đó hoá ra ô uế[22].
Trong nhiều miền ở Ấn, hạng người đó không được lại lấy nước ở các phông-ten, các giếng nước công cộng, không được vô các đền thờ có người Bà La Môn, không được cho con tới học trường bản xứ. Chính sách cai trị của người Anh một phần nào đã làm cho cảnh khổ của họ thêm điêu đứng, nhưng họ được bình đẳng trước pháp luật và được vô các trường học mọi cấp do họ điều khiển. Phong trào quốc gia, nhờ Gandhi mà cởi cho họ được nhiều sự trói buộc. Có thể rằng qua thế hệ sau họ sẽ được giải phóng.
Mặc khác, kĩ nghệ và các quan niệm phương Tây cũng đương làm giảm sự bất bình đẳng giữa nam và nữ. Sự kĩ nghệ hoá làm tăng tuổi kết hôn và giải phóng phụ nữ, vì muốn có thợ đàn bà thì trước hết người ta phải thuyết phục họ rằng gia đình là cái ngục, và phải thay đổi luật pháp để cho họ được hưởng tiền công của họ, khỏi phải nộp hết cho đàn ông. Sự giải phóng đó đã đưa tới nhiều cải cách. Hết cái lệ cưới gả con nít, muốn được làm phép cưới chính thức thì con gái ít nhất phải đủ mười bốn tuổi, con trai phải đủ mười tám tuổi; cái tục hoả thiêu quả phụ cũng không còn và số quả phụ tái giá mỗi ngày mỗi nhiều[23]. Không cấm chế độ đa thê, nhưng số người đa thê không có bao nhiêu; và các du khách thất vọng rằng gần như không còn bọn vũ nữ trong các đền nữa. Không có nước nào mà phong tục cải lương mau như vậy. Đời sống kĩ nghệ tại các thành thị làm cho phụ nữ cởi bỏ khăn che mặt, ra khỏi phòng khuê kín mít; hiện nay chỉ còn độ 6% phụ nữ chịu nhận tình cảnh cấm cung đó. Một số báo định kì đăng những bài rất linh động về các vấn đề nóng hổi nhất cho phụ nữ đọc; một hội hạn chế sinh dục đã thành lập và dám nhìn thẳng vào vấn đề nghiêm trọng nhất đó của Ấn. Trong nhiều tỉnh phụ nữ đã đi bầu và có người lãnh chức vụ trong chính quyền. Nhiều người có bằng cấp đại học, làm y sĩ, luật sư, giáo sư. Rồi đây có lẽ nhiệm vụ sẽ đảo ngược lại và phụ nữ sẽ cầm quyền[24].
Trong lời kêu gọi nẩy lửa dưới đây của một môn đệ Gandhi, ai mà chẳng thấy ảnh hưởng của phương Tây:
“Hỡi các bà các cô, hết cái chế độ Purdah cổ hủ rồi! Xin các bà các cô mau mau liệng hết xoong, chảo, nồi niêu vào một xó mà bước ra khỏi nhà bếp ngay đi! Chùi nước mắt đi để nhìn một thế giới mới đương tới. Để mặc đàn ông họ làm bếp lấy. Có biết bao việc phải làm cho Ấn Độ thành một quốc gia!”[25].
V. PHONG TRÀO QUỐC GIA
Các sinh viên Âu hoá – Thần linh hoàn tục – Quốc dân hội nghị
Năm 1923 có trên ngàn người Ấn du học ở Anh; có thể đoán phỏng chừng rằng ở Mĩ số sinh viên Ấn cũng xấp xỉ như vậy, và rải rác khắp các nước khác cũng có một số tương đương. Họ lấy làm ngạc nhiên rằng công dân mạt hạng ở Tây Âu và Mĩ cũng có được đủ các quyền lợi; họ học về các cuộc cách mạng Pháp và Mĩ, vùi đầu đọc các sách viết về các cuộc cải cách và cả các cuộc nổi loạn nữa; họ say mê nghiên cứu bản Tuyên ngôn nhân quyền, bản Tuyên ngôn độc lập của Huê kì và Hiến pháp Huê kì; họ trở về nước truyền bá những ý tưởng dân chủ và tự do mà họ quí như lời trong Thánh kinh. Những ý tưởng đó được hoan nghênh nhiệt liệt nhờ những tấn bộ của phương Tây về kĩ nghệ và khoa học, nhờ sự thắng trân của Đồng minh trong thế chiến [thứ nhất]; chẳng bao lâu mỗi sinh viên ở ngoại quốc về đó đều cho tiếng “tự do” là lời hô hào xung phong. Người Ấn hấp thụ tinh thần tự do trong các trường học Anh và Mĩ.
Những sinh viên phương Đông sống ở phương Tây đó chẳng phải chỉ chấp nhận một lí tưởng chính trị nào đó mà thôi, họ còn mất cả tín ngưỡng tôn giáo nữa. Trong đời sống một cá nhân cũng như trong lịch sử một dân tộc, hai sự tiến hoá đó thường đi đôi với nhau. Bọn thanh niên đó, khi mới đặt chân lên châu Âu còn rất kính tín, còn thờ phụng các thần Krishna, Shiva, Vichnou, Kali, Rama…, nhưng rồi tiếp xúc với khoa học, các tín ngưỡng cổ truyền của họ sụp đổ hết ráo. Tín ngưỡng tôn giáo đó là linh hồn của dân tộc, bọn người Ấn Âu hoá không còn tín ngưỡng nữa, nay trở về nước, vừa buồn rầu vừa mất hết ảo tưởng: đối với họ thì các thần linh đã chết và rớt từ trên trời xuống[26]. Như vậy thì làm sao một thế giới không tưởng chẳng thay thế giới thần linh, quan niệm dân chủ chẳng thay quan niệm Niết Bàn, thần Tự Do chẳng tiếm ngôi Thượng Đế? Phong trào tư tưởng mới đã xảy ra ở châu Âu giữa thế kỉ XVIII, bây giờ đang diễn lại ở phương Đông.
Tuy nhiên các tư tưởng mới đó truyền bá không lấy gì làm mau. Năm 1855 vài người Ấn trong giai cấp lãnh đạo họp nhau ở Bombay, thành lập “Quốc dân hội nghị Ấn”, nhưng lúc đó có lẽ họ chưa nghĩ tới cái chuyện đòi độc lập. Vì Huân tước Curfon dùng chính sách chia xứ Bengale (nghĩa là phá sự thống nhất mà làm suy nhược miền tấn bộ nhất của Ấn về phương diện chính trị), nên các nhà ái quốc nổi dây và phong trào của họ có tính cách gây loạn. Trong cuộc hội nghị năm 1905, Tilak cương quyết, không chịu nhượng bộ đòi được chính thể Swaraj. Ông ta dùng những ngữ căn sancrit tạo ra từ ngữ mới đó mà người Anh dịch là “seft rule” (tự trị). Cũng trong năm có nhiều biến cố đó, Nhật thắng Nga và phương Đông từ một thế kỉ rồi, sống sợ sệt dưới cái ách của phương Tây, bây giờ bắt đầu nghĩ tới sự giải phóng châu Á. Sau đó, Trung Hoa đứng sau Tôn Dật Tiên cầm khí giới, bắt tay với Nhật[27]. Ấn Độ không có khí giới, quân đội, bầu một nhân vật kì dị nhất trong lịch sử làm thủ lãnh, và thế giới được mục kích một cảnh chưa từng xảy ra, cảnh một cuộc cách mạng do một vị thánh lãnh đạo, chẳng cần súng ống gì cả.
VI. MAHATMA GANDHI
Chân dung một vị thánh – Nhà tu hành khổ hạnh – Tín đồ Ki Tô giáo – Cuộc nổi loạn năm 1921 – “Tôi là con người” – Những năm ở tù – “Tân Ấn Độ” – Cuộc cách mạng bằng guồng quay sợi – Sự nghiệp của Gandhi.
Xin độc giả thử tưởng tượng con người xấu xí, ốm o, yếu ớt nhất châu Á, mặt và mình mẩy như đồng đen, tóc hoa râm nhưng đầu cạo trọc, lưỡng quyền nhô, cặp mắt nhỏ, màu nâu, hiền từ, miệng rộng, móm, gần rụng hết răng, tai như tai voi, mũi cực to, tay chân lòng khòng; rồi tưởng tượng con người loắt choắt đó chỉ quấn mỗi chiếc sà-rông, đứng trước mặt một thẩm phán Anh, trả lời cuộc chất vấn về tội hô hào đồng bào “bất hợp tác” với Anh. Rồi bạn lại rán tưởng tượng thêm nữa con người đó ngồi trên một chiếc thảm nhỏ trong một phòng hoàn toàn trống của trường Satyagrahashram – Trường Chân lí – của ông ở Almedabad; hai ống chân khẳng khiu quặp lại theo kiểu ngồi kiết già, tay quay một cái guồng quay sợi, mặt nhăn nheo, má hóp vì lo lắng về trách nhiệm nặng nề của mình, trí óc lúc nào cũng nghĩ cách đối đáp cho mau và thích đáng hết thảy những ai muốn tìm sự tự do. Từ năm 1920[28], người thợ dệt gầy gò, cực khổ đó làm thủ lãnh tinh thần và cả chính trị nữa của 320 triệu người Ấn. Khi ông ta ra trước quần chúng thiên hạ chen lấn chung quanh ông để được rờ cái sà-rông của ông, hôn bàn chân ông.
Mỗi ngày bốn giờ, ông dệt thứ vải thô khaddar, hy vọng thuyết phục được đồng bào noi gương mình dùng thứ vải nội hoá đó, tẩy chay các hàng Anh đã làm chết ngành dệt Ấn. Tất cả của cải của ông chỉ gồm ba cái khăn vải thô, hai cái để thay đổi quấn mình, một cái để thay giường và nệm. Trước kia ông là một luật sư giàu có, sau phân phát hết gia sản cho người nghèo; bà vợ lúc đó đã đứng tuổi, hơi do dự – điều đó rất dễ hiểu – rồi sau theo ông. Ông ngủ ngay trên sàn hoặc trên mặt đất. Sống toàn bằng trái cây (hạt dẻ, cam, chanh, chà là…), cơm và sữa dê; nhiều khi suốt mấy tháng chỉ uống sữa và ăn trái cây; trong đời ông chỉ có mỗi một lần ăn thịt; có khi suốt mấy tuần tuyệt thực. Ông bảo: “Sự tuyệt thực đối với tôi cũng cần thiết như cặp mắt. Mắt quan trọng cho đời sống bên ngoài ra sao thì tuyệt thực cần cho đời sống nội tâm như vậy”. Ông cho rằng máu càng trong sạch thì trí óc càng minh mẫn, nhận định được đúng ngoại vật; và các chân lí cốt yếu – đôi khi có thể thấy được cả linh hồn của vũ trụ – hiện ra phía sau cái Maya cũng như ngọn núi Everest sau đám mây vậy.
Trong khi tuyệt thực để rán chiêm vọng thần linh, ông vẫn không xa lánh cõi trần, vẫn khuyên môn đệ những lúc nhịn ăn phải tắm mỗi ngày một lần để gột hết chất dơ trong cơ thể tiết ra – cơ thể lúc đó sống bằng chất tự dưỡng của nó. Thấy người Hồi và người Ấn chém giết nhau vì tín ngưỡng cuồng nhiệt, không nghe lời ông khuyên phải hoà hảo với nhau, ông tuyệt thực trong ba tuần để họ động lòng. Sau những lần tuyệt thực như vậy, ông suy nhược quá, tới nỗi phải ngồi trên một cái ghế dựa kê hơi cao thì đám đông bao vây ông mới bắt được những lời phào phào của ông. Về tình dục, ông cũng theo phép khổ hạnh như vậy, và ước ao như Tolstoi rằng vợ chồng chỉ khi nào cùng muốn có con thì mới nên ái ân với nhau. Chính ông, hồi trẻ, sống quá phóng túng, và được tin thân phụ mất đúng lúc ông đương hoan lạc với một người đàn bà. Bây giờ nhớ lại ông rất hối hận, giữ đúng lời khuyên Brahmacharya, bỏ hết nhục dục. Ông thuyết phục được bà sống với ông như em gái sống với anh và theo ông thì “từ đó, mọi mối bất hoà tiêu tan hết”. Khi ông thấy sự giảm mức sinh con đẻ cái là điều tối cần thiết cho Ấn, thì ông không theo những phương pháp châu Âu hiện nay đang dùng, mà dùng những thuyết của Malthus và Tolstoi.
Đã biết tình cảnh ra sao rồi thì chúng ta có quyền sanh con nữa không? Đã yếu đuối lại bơ vơ mà cứ tiếp tục sanh đẻ thì chỉ làm tăng thêm số người khổ sở và nô lệ thôi… Chừng nào Ấn Độ chưa thành một quốc gia độc lập thì chúng ta không có quyền sanh con nữa… Tôi chắc Ấn Độ thành một quốc gia gồm đàn ông và đàn bà sung sướng, khoẻ mạnh, mà không tự ý chế dục, không sanh đẻ nữa.
Người ta bảo rằng ngoài những nét đặc biệt đó, tính tình Gandhi còn có nhiều điểm giống vị Sáng lập ra Ki Tô giáo một cách lạ lùng. Ông không nhắc tới tên Chúa Ki Tô nhưng hành động đúng theo lời dạy của Chúa trong bài Thuyết giáo trên Núi. Từ thời thánh François d’Assise tới nay, trong lịch sử nhân loại chưa có một người nào mà tâm hồn cao thượng, hi sinh, giản dị như vậy, dĩ đức báo oán như vậy. Lòng nhân từ, khoan dung bất tuyệt của ông làm cho chính kẻ thù cũng phải tỏ ra lễ độ, nhã nhặn: chính quyền Anh mời ông vô khám mà tái tam xin lỗi ông. Tuyệt nhiên ông không tỏ một vẻ nào là oán hận hay bất bình. Ba lần ông bị bọn lưu manh nào đó đánh cho té xỉu, rồi bỏ đi, tưởng chết; vậy mà ông không hề báo cho cảnh sát để truy tố, và khi một kẻ hành hung ông bị bắt, ông yêu cầu chính phủ tha cho hắn. Trong một cuộc bạo động dữ dội nhất giữa Ấn và Hồi, bộ lạc Moplah của Hồi giết mấy trăm người Ấn tay không, lột da bọc qui đầu để dâng chúa Allah; vậy mà ít lâu sau, chính những người Hồi đó bị nạn đói thì Gandhi quyên tiền khắp Ấn Độ để cứu họ và trái với tất cả các thủ tục từ trước, quyên được bao nhiêu ông đưa cho họ hết, không thiếu một xu, phí tổn ông chịu cả.
Mohandas Karamchand Gandhi sanh năm 1869. Gia đình ông thuộc tập cấp Vaisya và theo giáo phái Jaïn, thực hành giới luật ahimsa, không làm thương tổn sinh mệnh một loài vật nào cả dù là con sâu cái kiến. Thân phụ ông là một nhà cai trị giỏi[29] nhưng về tài chính thì theo chính sách thực khác đời: vì quá lương thiện mà bỏ lỡ hết các cơ hội, và chỉ giữ lại một chút gia sản cho vợ con còn bao nhiêu bố thí cho người nghèo hết. Mohandas hồi nhỏ tởm về sự dâm đãng của một số thần Ấn Độ, nên chủ trương thuyết vô thần và ăn thịt để tỏ lòng khinh tôn giáo. Rồi ông lại ghét thịt mà trở về tôn giáo.
Hồi tám tuổi gia đình dạm hỏi cho ông một thiếu nữa, tên là Kasturbai, và mười hai tuổi ông làm lễ cưới; bà trung thành theo ông trong suốt cuộc đời sóng gió của ông, trong cảnh giàu cũng như trong cảnh nghèo, trong khám cũng như trong khi diệt dục. Mười tám tuổi ông thi đậu vô Đại học rồi qua Londres học luật. Ngay trong năm đầu ở Londres, ông đã đọc hết tám mươi cuốn sách về Ki Tô giáo. Bài Thuyết giáo trên Núi làm ông xúc động liền. Ông thấy không có gì cao cả hơn là dĩ đức báo oán và yêu cả kẻ thù của mình và ông quyết định thà chết để giữ đúng qui tắc đó chứ không chịu thành công mà vi phạm nó.
Trở về Ấn năm 1891, ông làm đại tụng ở Bombay trong một thời gian, nhưng ông không chịu truy tố một người thiếu nợ và luôn luôn tự cho mình cái quyền không biện hộ cho thân chủ nữa nếu thấy người đó trái. Vì một vụ kiện, ông phải qua Nam Phi, rồi thấy đồng bào của ông ở đó bị người Anh ngược đãi[30], ông không trở về Ấn, ở lại Nam Phi, hi sinh hoàn toàn, không chút vị lợi cho đồng bào, cố giải thoát họ khỏi tình cảnh lệ thuộc khốn khổ, tủi nhục của họ. Trong hai chục năm ông không ngớt chiến đấu cho họ tới khi chính quyền Anh phải nhượng bộ mới thôi. Lúc đó ông mới chịu hồi hương.
Ông đi khắp nước Ấn và lần đầu tiên nhận thấy nỗi điêu đứng cùng cực của đồng bào. Ông kinh hoảng khi thấy những nông dân chỉ còn xương với da làm việc quần quật ở ngoài đồng, thấy những “tiện dân” thấp hèn nhất làm những công việc tởm nhất trong các thành phố. Ông có cảm tưởng rằng vì người Anh thấy người Ấn ở trong xứ đói khổ, đê tiện quá nên khinh luôn cả những người Ấn ở nước ngoài, kì thị họ, coi họ như tôi mọi. Nhưng trong thế chiến [thứ nhất], ông trung thành với Anh, tính khuyến khích cả những người Ấn không theo giới luật bất bạo động đầu quân giúp Anh nữa. Hồi đó ông chưa gia nhập nhóm người Ấn đòi độc lập, ông tưởng rằng chính sách cai trị xấu xa của Anh ở Ấn chỉ là một ngoại lệ chứ xét chung thì chính quyền của Anh tốt, ở Ấn nó hoá xấu vì bọn thực dân không theo những qui tắc thi hành ở chính quốc; và nếu dân tộc Anh hiểu được trường hợp của Ấn thì không do dự gì cả, tất cho Ấn sáp nhập vào cộng đồng các quốc gia “tự trị” dưới sự lãnh đạo của Anh liền. Ông hi vọng rằng khi chiến tranh chấm dứt, Anh nhận định được đúng sự hi sinh của Ấn cho đế quốc, hi sinh về nhân mạng và tiền bạc, thì có lẽ nào Anh không cho Ấn được tự do.
Nhưng hết chiến tranh, phong trào đòi độc lập bị đàn áp; sắc lệnh Rowland bãi bỏ hết mọi tự do ngôn luận, tự do báo chí, thành lập một Quốc hội bù nhìn, đưa ra những cải cách Montagu-Chelmsford, rồi sau cùng tàn sát người Ấn ở Amritsar, Gandhi tức thì hành động. Ông gởi trả Phó vương Ấn tất cả những huy chương mà chính phủ Anh đã tặng ông, rồi ông hô hào toàn dân Ấn bất phục tùng chính quyền Anh ở Ấn. Dân chúng hưởng ứng nhưng không đúng với ý ông: ông muốn dùng chính sách bất bạo động mà họ lại bạo động, gây ra nhiều cuộc đổ máu; chẳng hạn ở Bombay người ta giết năm mươi ba người Parsi không gia nhập phong trào. Gandhi đã nguyện giữ giới luật ahimsa, lại tạo ra một thông cáo khác bảo ngưng ngay mọi cuộc bạo động, nổi loạn, hoãn cuộc vận động bất phục tòng lại vì dân chúng chưa hiểu ý nghĩa của nó. Trong lịch sử hiếm có một người can đảm hành động theo qui tắc của mình như ông, khinh miệt sự hoạt đầu và danh vọng. Dân chúng thấy phong trào phát động mạnh, tưởng gần thành công rồi nên ngạc nhiên về thái độ đó của ông; họ không nghĩ như ông rằng phương tiện cũng có thể quan trọng ngang với cứu cánh. Danh tiếng của ông lúc đó xuống cực thấp.
Đúng lúc đó, chính quyền ra lệnh bắt ông[31]. Ông không chống cự, không chịu lựa luật sư mà cũng chẳng thèm tìm cách tự biện hộ cho mình nữa. Khi viên Phó Chưởng lí buộc tội rằng những hành động của ông đã gây ra cuộc nổi loạn 1921, và ông phải chịu hết trách nhiệm, ông đáp bằng những lời lẽ cho ta thấy rõ tâm hồn cao thượng của ông:
Tôi xin được một mình chịu hết trách nhiệm mà ông Phó Chưởng lí học thức uyên bác muốn trút lên vai tôi, nhân những vụ xảy ra ở Bombay, Madras và Chauri-Chaura. Trong bao nhiêu đêm trường tôi đã suy nghĩ kĩ về những biến cố đó và tôi không thể nào không nhận rằng tôi phải chịu trách nhiệm về những tội ác ghê gớm đó… Ông Phó Chưởng lí hoàn toàn có lí khi ông bảo rằng một người có thể lãnh trách nhiệm, một người có kiến thức như tôi thì trước khi hành động phải cân nhắc kĩ hậu quả đã. Tôi đã biết rằng tôi chơi với lửa đấy, sẽ nguy hiểm đấy, nhưng nếu bây giờ tôi được phóng thích thì tôi cũng sẽ hành động như trước nữa. Sáng nay tôi có cảm tưởng rằng nếu tôi không tuyên bố những lời tôi đương tuyên bố đây thì tôi sẽ không làm tròn phận sự của tôi.
Trước kia tôi muốn tránh sự bạo động, bây giờ tôi cũng vẫn muốn tránh sự bạo động. Điều căn bản trong tín ngưỡng của tôi là ghê tởm sự bạo động. Nhưng tôi phải lựa chọn: một là phục tòng một chế độ cai trị mà tôi tin là hoàn toàn có hại cho quốc gia tôi, hai là thấy đồng bào tôi cuồng nhiệt nổi loạn lên khi họ hiểu được sự thực. Tôi biết rằng đồng bào tôi đã có một thái độ vô lí trong nhiều trường hợp. Tôi ân hận về điều đó lắm, cho nên hôm nay tôi tới đây để xin chịu hình phạt, không phải nhẹ, mà nặng nhất. Tôi không xin được khoan hồng. Tôi không viện ra những trường hợp giảm khinh. Tôi lại đây để can đảm xin lãnh cái án nặng nhất vì một hành động mà luật pháp coi là một tội ác cố ý, còn tôi thì tôi coi là bổn phận thiêng liêng của một công dân.
Viên Chánh án tỏ ý rất ân hận rằng phải nhốt khám một người được hằng triệu đồng bào coi là “một nhà đại ái quốc, đại lãnh đạo quần chúng”. Ông ta nhận rằng cả những người bất đồng ý với Gandhi cũng phục Gandhi là “hi sinh cho một lí tưởng rất cao, sống một cuộc đời cao thượng, đức độ như một vị thánh nữa”. Rồi ông ta tuyên án: sáu năm tù.
Gandhi vô khám mà không phàn nàn một lời. Ông viết: “Tôi không thấy một tù nhân nào khác mặc dầu tôi không sao tưởng tượng nổi rằng sống chung với họ, tôi có thể làm hại cho họ được”. Nhưng “tôi sung sướng, tánh tôi quen với cảnh cô độc rồi. Tôi thích sự yên lặng. Và ở đây tôi tha hồ học hỏi vì sống ở ngoài đời, tôi đã phải bỏ bê việc đó”. Ông đọc rất kĩ những tác phẩm của Bacon, Carlyle, Ruskin, Emerson, Thoreau và Tolstoi, lúc nào muốn nghĩ ngơi thì ông đọc Ben Jonson và Walter Scott. Ông đọc đi đọc lại bộ Bhagavad-Gita. Ông học các tiếng sanscrit, tamil, urdu để có thể trao đổi thư từ với các người có học và nói trước đám đông nữa. Ông lập một chương trình học cho mấy năm ở trong khám, theo đúng chương trình cho tới khi có một việc bất thường bắt ông phải ngưng lại. Ông bảo: “Tôi thường cầm cuốn sách lên mà trong lòng sung sướng như một thanh niên hai mươi bốn tuổi, quên rằng mình đã năm mươi bốn tuổi và sức khoẻ quá suy nhược”.
Ông bị một cơn đau bụng nặng vì chứng ruột dư và chính quyền phải thả ông ra; ông thường mạt sát Tây y, lần này nhờ Tây y mà ông thoát chết. Một đám đông vĩ đại bu lại ở cửa khám để hoan hô ông khi ông bước ra, nhiều người hôn chiếc sà-rông bằng vải thô của ông. Nhưng ông xa lánh mọi hoạt động chính trị, không tiếp xúc với đại chúng, viện lẽ rằng sức khoẻ suy nhược, nên về trường Ahmedabad của ông, sống mấy năm trong cảnh an tĩnh, cô liêu với các môn đệ. Nhưng mỗi tuần ông cũng viết một bài trong tờ Ấn Độ trẻ trung trình bày triết lí của ông về cách mạng và đời sống. Ông năn nỉ những người theo ông phải tránh sự bạo động, chẳng những vì bạo động là tự tử – Ấn Độ không đủ phương tiện vật chất để ứng chiến – mà còn vì bạo động chỉ là thay một sự độc tài bằng một sự độc tài khác. Ông bảo: “Đọc lịch sử chúng ta thấy rằng những người – có lẽ do một thiện ý giải thoát cho dân khỏi bị áp bức – dùng bạo động để lật đổ những kẻ quyền hành, rốt cuộc cũng hoá ra độc tài, và dân chúng quá phẫn uất lại lật đổ họ… Nếu Ấn Độ dùng phương tiện bạo động thì tôi không muốn giải thoát Ấn Độ nữa vì những phương tiện đó không đưa tới tự do mà chỉ đưa tới nô lệ”.
Điểm thứ nhì trong thuyết của ông là khinh miệt tân kĩ nghệ. Ông chịu ảnh hưởng của Rousseau, hô hào trở về đời sống nông nghiệp, tiểu công nghệ, đời sống giản dị ở thôn quê. Theo ông, nhốt đàn ông và đàn bà vào trong các xưởng rồi bắt họ dùng những máy móc để chế tạo một bộ phận của những đồ vật mà họ không bao giờ được làm trọn để thấy nó hoàn thành, đó là một cách giảo quyệt để chôn nhân loại dưới một đống hàng hoá tồi, cao nghều nghệu như hồi xưa người ta chôn các vua Ai Cập trong Kim tự tháp. Ông bảo hầu hết các sản phẩm chế tạo bằng máy móc không phải là vật cần thiết; máy móc tuy tiết kiệm được sức lao động nhưng lại tốn công chế tạo, sửa chữa, thì rốt cuộc đâu cũng vào đấy; và nếu kết quả thật nhờ máy mà đỡ khó nhọc được chút nào thì không có lợi cho giới lao động mà chỉ có lợi cho giới tư bản; càng sản xuất mạnh thì càng sinh ra nạn thất nghiệp. Vì vậy ông phục hồi, canh tân phong trào Swadeshi (tẩy chay hàng Anh) do Tilak khởi xướng năm 1905[32]; cuộc vận động sản xuất theo lối tiểu công nghệ trong gia đình kết hợp với cuộc vận động tự trị Swaraj. Gandhi dùng cái chakar, guồng quay sợi, để biểu hiện sự gia nhập, trung thành với phong trào quốc gia; ông hô hào mọi người Ấn, cả những người giàu, mặc quần áo bằng vải dệt lấy trong nhà, tẩy chay các hàng ngoại quốc dệt bằng máy ở Anh để cho tới mùa đông u ám, gia đình nào cũng được nghe tiếng vo vo của guồng quay sợi.
Ông không được mọi người hưởng ứng: khó mà ngưng dòng lịch sử lại được. Nhưng dân Ấn đã gắng sức nghe ông. Sinh viên Ấn khắp nơi đều mặc thứ vải thô khadda, các bà quí phái bỏ thứ lụa Nhật Bản, dệt lấy vải mà bận; ngay như gái điếm trong các nhà chứa và tội nhân trong khám cũng quay sợi. Sau cùng, tại nhiều thành phố, người ta tổ chức những cuộc thiêu huỷ, các đại thương gia Ấn chở các hàng nhập cảng lại liệng hết vào đống lửa. Ở Bombay, nội một ngày, người ta thiêu huỷ 150.000 tấm vải.
Phong trào đả đảo kĩ nghệ đó thất bại, nhưng đã tập hợp được dân Ấn trong mười năm và gây một ý niệm mới về sự thống nhất quốc gia, đoàn kết chính trị cho biết bao nhiêu triệu người. Dân tộc Ấn còn do dự về phương tiện phải dùng nhưng chấp nhận ngay mục tiêu, và mở lòng ra tiếp đón thánh Gandhi mặc dầu nghi ngờ tài năng của chính khách Gandhi; trong một thời gian họ đoàn kết với nhau, một lòng ngưỡng mộ ông, như Tagore nói về ông:
Ông ngừng lại ở ngưỡng cửa các căn nhà tồi tàn của hằng ngàn người cùng khốn, y phục của ông y hệt y phục của họ. Ông nói với họ bằng ngôn ngữ của họ. Đó mới thực là một chân lí sinh động chứ không phải chỉ là những lời suông trong sách vở. Vì vậy mà tiếng tôn xưng Mahatma (Thánh) mà dân Ấn tặng ông đã thành tên thực của ông. Ai là người cảm thấy như ông rằng tất cả mọi người Ấn chính là da thịt của mình, máu mủ của mình? Khi tình thương tới gõ cửa Ấn Độ thì cửa đã mở toang chờ sẵn rồi… Nghe tiếng gọi của Gandhi, Ấn Độ xông ngay tới một cảnh vinh quang cao quí mới, như hồi xưa, rất xa xăm, khi Phật Tổ tuyên bố đạo từ bi, thương yêu cả mọi sinh vật.[33]
VII. TỪ BIỆT ẤN ĐỘ
Không thể kết luận về lịch sử Ấn Độ như kết luận về lịch sử Ai Cập, Babylone hoặc Assyrie được vì lịch sử Ấn Độ còn đương tiếp tục, nền văn minh đó còn đương sáng tạo nữa. Về phương diện văn hóa, Ấn nhờ tiếp xúc về tinh thần với phương Tây, đã nhận được một sinh lực mới và văn học của Ấn ngày nay cũng phong phú, có một trình độ cao như bất kỳ nước nào khác. Về phương diện tâm linh, xứ đó còn đương chống với thói mê tín, và với một thần học mà địa vị còn mạnh quá, nhưng biết đâu chừng các chất a-xít của khoa học hiện đại chẳng làm tiêu tan khá mau các thần linh thừa thãi của họ? Về phương diện chính trị, một trăm năm vừa qua đã tặng cho Ấn một sự thống nhất ít thấy trong lịch sử của họ: thống nhất một phần nhờ một chính quyền ngoại quốc, một phần nhờ một ngoại ngữ[34], nhưng thứ nhất là nhờ toàn dân đều hoài bão chung một ước vọng: được tự do. Về phương diện kinh tế, Ấn đương ra khỏi tình trạng trung cổ để bước vào đường kĩ nghệ hiện đại: sức sản xuất và thương mại đương mỗi ngày mỗi tiến bộ và trước cuối thế kỉ này chắc chắc là Ấn sẽ đứng vào hàng các cường quốc trên thế giới.
Nền văn minh Ấn không trực tiếp phát minh ra nền văn minh phương Tây chúng ta, như các nền văn minh Ai Cập và Tiểu Á [tức Babylonie, Assyrie]; những nền văn minh này mới thực là đẻ ra văn minh phương Tây; còn lịch sử Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản đã theo một trào lưu khác và bây giờ mới bắt đầu hoà vào trào lưu sinh hoạt của phương Tây mà ảnh hưởng tới chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta phải nhận rằng mặc dầu có dãy núi Himalaya ngăn cách, chúng ta cũng đã nhận được nhiều tặng phẩm quí báu của Ấn, như môn ngữ pháp, môn luận lí, triết học và ngụ ngôn, thuật thôi miên và chơi cờ, quí báu nhất là hệ thống thập tiến và mười síp mà hiện nay chúng ta đều dùng. Nhưng không nên coi đó là phần tinh tuý nhất của tâm hồn Ấn, những cái đó chưa đáng kể gì, Ấn còn có thể tặng cho chúng ta được nhiều hơn nữa. Các đại lục càng hợp nhất với nhau nhờ các phát minh khoa học, nhờ kĩ nghệ và thương mại; sự xung đột giữa Á và Âu càng tăng lên thì chúng ta càng phải nghiên cứu văn minh Ấn kĩ lưỡng hơn và dù muốn hay không, thì cũng nên hiểu thấu đáo vài quan niệm cùng phương pháp của họ. Có lẽ, bị phương Tây xâm lăng, cướp bóc một cách vô liêm sĩ, Ấn Độ để đáp lại, sẽ dạy cho chúng ta bài học khoan hồng cao thượng, dấu hiệu của một tâm hồn già dặn; dạy cho chúng ta có một tâm hồn thanh thản, thoả mãn, dễ tiếp thu những ý mới, có một trí óc bình tĩnh hiểu được hết thảy, tha thứ cho hết thảy, sau cùng có một tấm lòng nhân từ thương yêu mọi sinh vật, chỉ tấm lòng đó mới đoàn kết mọi người với nhau được thôi.
[1] Trong trận Rossbach năm 1757, Pháp thua Phổ. Trong trận Waterloo (1815) Pháp thua Anh-Phổ. Vì vậy mà Pháp suy, Anh mạnh. (ND).
[2] Thời đó người Âu gọi Ấn là Đông Ấn để phân biệt với Tây Ấn, tức châu Mĩ. (ND).
[3] Họ mua ở Ấn với giá hai triệu đồng thì bán lại ở Anh với giá mười triệu. Cổ phần công ty tới 600.000 quan.
[4] Cipaya là người Ấn đi lính cho Anh (hoặc Pháp). Tiếng Anh Sepoy, do tiếng Ba Tư Sipâhi là lính. (ND).
[Sepoy là lính Ấn trong quân đội Anh-Ấn. (Goldfish)].
[5] Có nghĩa là “Hội Brahma” tức “Hội những người thờ phụng Brahman, Đấng Tối Cao”.
[6] Sử gia và triết gia Anh (1773-1836) cha của kinh tế gia Stuart Mill. (ND).
[7] Hiện nay chỉ còn khoảng 5.500 người gia nhập hội đó. Một cải cách khác, phong trào Arya-Somaj (Hội Aryan) do Swami Dyananda khởi xướng, được Lala Laipat Rah (nay đã mất) khéo điều khiển, bài xích chế độ tập cấp, đa thần giáo, sự mê tín dị đoan, sự thờ ngẫu tượng và cả Ki Tô giáo mà thuyết phục người Ấn trở về tôn giáo thời cổ trong các kinh Veda. Môn đồ hiện nay được khoảng nửa triệu. Thông thiên học nhào lẫn thần bí giáo Ấn Độ và Ki Tô giáo, do hai người đàn bà ngoại quốc – bà Blavatsky (1878) và bà Annie Besan (1893) – thành lập, truyền bá ở Ấn, trái lại, là một phong trào phát sinh do sự ảnh hưởng của Ấn giáo tới Ki Tô giáo.
[8] Cho tới khi chết, ông tin rằng Chúa Ki Tô là một vị thần, nhưng ông cũng cho rằng Phật Tổ, Khrisna và vài vị nữa là nhục thể của Đấng Thượng Đế duy nhất. Ông nói với Vivekananda rằng chính ông cũng là nhục thể của Rama và Khrisna [tên ông là Ramakhrisna].
[9] Tôi ghi thêm “cặp tai của Ngài” vì trong bản tiếng Anh chép là: everywhere His hands, everywhere His feet, everywhere His ears, và vì đoạn dẫn ở đầu sách cũng có mấy chữ “cặp tai của Ngài”. (Goldfish).
[10] Đoạn này đã dẫn ở đầu sách, nhưng câu cuối khác hẳn. (ND).
[11] Tôi tạm thêm mấy chữ “vừa có tính cách thần bí”. Nguyên văn cả câu: The paintings of Abanindranath Tagore share modestly in the voluptuous mysticism and the delicate artistry that brought the poetry of his uncle to international fame. (Goldfish).
[12] Tức thi sĩ Rabindranath Tagore. (ND).
[13] Percy Bysshe Shelley (1792-1822) – nhà thơ Anh, một trong những nhà thơ lớn nhất của thế kỷ XIX. (theo Wikipedia). (Goldfish).
[14] Tiếng Anh là slate, nghĩa là tấm bảng đá của học sinh, dùng phấn để viết lên. (Goldfish).
[15] Những tập thơ chính của ông là Gitanjali (1913), Chitra (1914), Sở Bưu điện (1914), Người làm vườn (1914), Giỏ trái cây (1916), Trúc đào đỏ (1925). Muốn hiểu ông thì đọc tập Hồi kí (1917) của ông hơn là cuốn: R. Tagore, thi sĩ và nhà soạn kịch (Oxford, 1926) của E. Thompson.
[16] Các thi sĩ Tennyson: tôi tạm thêm chữ “các”. Bản tiếng Anh chép là: Tennysonian. (Goldfish).
[17] Như những lời rất đẹp này: “Ước sao khi tôi sắp từ biệt cõi trần thì lời nói cuối cùng của tôi như sau: những cái tôi đã được thấy thật đẹp vô song”.
[18] Nghĩa là giữa thế kỉ XIX. (ND).
[19] Đảng Bảo thủ Anh không thích cải cách xã hội, muốn trả lương một cách rẻ mạt. (ND).
[20] Năm 1922 ở Bombay có tám mươi ba xưởng dệt vải dùng 180.000 thợ, tiền công nhật trung bình là ba mươi xu (không rõ là xu Mĩ, xu Anh hay xu Ấn). Trên ba mươi triệu người Ấn làm trong các kĩ nghệ, 51% là đàn bà, 4% là trẻ em dưới 14 tuổi.
[21] Những người Ấn không ăn thịt thì khứu giác của họ hoá ra mẫn nhuệ tới nỗi chỉ ngửi hơi ở miệng hoặc ở mình bốc ra của một người khác là nhận ra được liền người này có ăn thịt hay không, dù đã ăn từ hai mươi bốn giờ trước (Theo Tu viện trưởng Dubois).
[22] Năm 1913, ở Kohat, đứa con một gia đình Ấn giàu có té xuống một hồ nước. Chung quanh đó chỉ có mẹ đứa nhỏ và một tiện dân đi ngang qua. Người này xin lặn xuống vớt, người mẹ từ chối: thà để con chết chớ không chịu làm dơ hồ nước!
[23] Năm 1915, có 15 quả phụ tái giá, năm 1925, con số đó tăng lên 2.268.
[24] Lời đó đúng: hiện nay ở khắp thế giới chỉ có Ấn Độ, Tích Lan và Do Thái là có nữ Thủ Tướng mà
Ấn Độ và Tích Lan có trước Do Thái. (ND).
[25] Trích trong tờ New York Times số 16 năm 1930.
[26] Dĩ nhiên, không thể vở đũa cả nắm được. Có vài người, như Coomaraswamy nói một cách có ý nghĩa rằng “đã từ châu Âu quay trở về Ấn”.
[27] Không rõ bản tiếng Pháp dịch có đúng không. Làm gì có chuyện này. (ND). [Bản tiếng Anh chép là:
China followed Sun Yat Sen, took up the sword, and fell into the arms of Japan. (Goldfish)]
[28] Bản tiếng Anh chép: From 1920 to 1935 (Từ năm 1920 đến năm 1935). (Goldfish).
[29] Làm thủ tướng tiểu quốc Porbandar. (ND).
[30] Muốn biết thái độ kì thị chủng tộc của người Anh ở Nam Phi, xin đọc cuốn Khóc lên đi, ôi quê hương yêu dấu của Alan Paton, Nguyễn Hiến Lê dịch, Văn học tái bản, 1995. (BT).
[31] Theo bản tiếng Anh thì ông bị bắt vào tháng 3 năm 1922: It was just at this point (in March, 1922) that the Government determined upon his arrest. (Goldfish).
[32] Coi cuối tiết trên. (ND).
[33] Sau đoạn trích dẫn lời của Tagore, trong bản tiếng Anh, tác giả còn viết thêm: It was Gandhi s task to unify India; and he accomplished it. Other tasks await other men. Tạm dịch: Đó là nghĩa vụ thống nhất Ấn Độ của Gandhi, và Ngài đã hoàn thành được nghĩa vụ đó. Còn những nghĩa vụ khác thì dành cho những người khác. (Goldfish).
[34] Tức tiếng Anh tới nay vẫn còn là ngôn ngữ chính thức của Ấn. (ND).
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.