thám tử HERCULE POIROT
TẤN THẢM KỊCH Ở TRANG VIÊN MARDSON
Tôi có việc phải rời thành phố ít ngày, khi trở về tôi thấy Poirot đang khóa chiếc vali nhỏ của anh.
– Thật là đúng lúc, Hastings, tôi đã sợ rằng anh không kịp về để đi cùng tôi.
– Người ta đã nhờ anh điều tra giúp một vụ gì chăng?
– Đúng và tôi đã nhận lời vì vụ này tôi thấy có nhiều điều thích thú. Chi nhánh Miền Tây của Công ty bảo hiểm đã yêu cầu tôi điều tra về cái chết của ông Maltravers nào đó, xảy ra tại nhà của ông ấy cách đây mấy ngày, vì một khoản bào hiểm nhân thọ rất lớn, khoảng năm mươi ngàn bảng Anh.
– Đúng thế ư? – Tôi ngạc nhiên kêu lên.
– Rất đúng, nhưng có một điều khoản qui định loại trừ đây là một vụ tự tử. Trong trường hợp người tham gia bảo hiểm tự sát thì tiền bồi thường sẽ bị cắt bỏ trong vòng một năm. Ông Maltravers đã được bác sĩ của công ty khám nghiệm. Tuy rằng đã đứng tuổi nhưng ông ta còn rất mạnh khỏe. Thứ tư mới rồi, tức là ngày hôm kia, người ta thấy xác ông ở gần trang viên Mardson, trong một khu rừng và nguyên nhân của cái chết là bị xuất huyết trong cơ thể. Việc này tự nó không có gì là lạ lùng, nhưng những lời thì thào về tình trạng nợ nần ghê gớm của ông ta làm cho Chi nhánh Miền Tây của Công ty phải nghi ngờ. Cái đó làm thay đổi rất nhiều sự việc. Hơn thế nữa, ông ta có một người vợ rất trẻ và xinh đẹp. Cái đó làm cho người ta cho rằng ông ta đã nhặt nhạnh mọi của cải để đóng bảo hiểm nhân mạng, vợ ông sẽ có số của cải này sau khi ông chết. Một chuyện như vậy cũng không phải là đặc biệt. Dù thế nào đi nữa thì ông Alfred Wrigh, giám đốc Chi nhánh Miền Tây, cũng đã nhờ tôi tìm ra sự thật của vụ này. Tôi có ít hy vọng thành công, anh bạn ạ. Nếu ông ta chết vì tim đột ngột ngừng đập thì tôi rất lạc quan. Đây là một sự phán đoán thường vượt quá khả năng của một bác sĩ địa phương không biết rõ nguyên nhân tử vong của người bệnh của mình. Nhưng nếu chết do xuất huyết thì không thể nào nhầm lẫn được. Bây giờ những việc chúng ta có thể làm là tìm kiếm những thông tin có ích. Năm phút để xếp vali và chúng ta sẽ đi taxi ra ga.
Khoảng một tiếng đồng hồ sau chúng tôi đã xuống một ga nhỏ. Một nhân viên nhà ga cho chúng tôi biết trang viên Mardson ở cách đây chừng một cây số. Poirot quyết định đi bộ và chúng tôi bước những bước dài trên đường cái lớn.
– Kế hoạch tác chiến của anh như thế nào?
– Trước hết chúng ta tới gặp ông bác sĩ địa phương. Tôi biết có một vị bác sĩ ở đây: ông Ralph Bernard. A! Nhà ông ta đây rồi. Một biệt thự đẹp, ở gần phố. Một tấm biển bằng đồng ghi tên bác sĩ.
Chúng tôi di theo lối đi rộng vào và bấm chuông cửa. Lúc này là giờ khám bệnh, nhưng may mắn cho chúng tôi, không có một bệnh nhân nào đợi ông. Bác sĩ Bernard là một người đứng tuổi, vai rộng, lưng hơi gù, khi nói chuyện thường hay pha trò.
Poirot tự giới thiệu và nêu rõ lý do của cuộc gặp gỡ và nói thêm Công ty bảo hiểm rất cần tiến hành điều tra cẩn thận trong những trường hợp như thế này.
– Chắc chắn là như vậy, chắc chắn là như vậy – Ông bác sĩ trả lời bằng giọng mơ hồ – Tôi hình dung là một người giàu có, Maltravers sẽ có một khoản tiền bảo hiểm rất lớn phải không?
– Ông bác sĩ, ông cho rằng ông ta là một người giàu có ư?
Nhà khoa học ngạc nhiên:
– Không phải thế ư? Ông ấy có hai chiếc xe hơi, ông nên hiểu điều đó, và trang viên Mardson còn nhiều của cải quí mà ông ấy đã mua với giá hời nữa, tôi cho là như vậy.
– Tôi nghe nói là ông ta đã bị thiệt hại tiền của nhiều – Poirot cãi lại và chăm chú quan sát ông này.
Người thầy thuốc buồn bã cúi đầu:
– Thế ư? Này! Đó là sự gặp may đối với vợ ông ấy khi được khoản tiền bảo hiểm ấy. Một người trẻ, đẹp, hiền dịu, đã quá xúc động trước tai họa ghê gớm đó. Những chấn động thần kinh con người khốn khổ… Tôi đã cố gắng làm dịu nỗi đau của bà ấy, nhưng tất nhiên phải chờ đợi vì đây là cú sốc rất mạnh.
– Trước đây ông đã chữa bệnh cho ông Maltravers phải không?
– Ông thân mến! Tôi chưa bao giờ chữa bệnh cho ông ấy cả.
– Thế nào?
– Tôi cho rằng ông Maltravers là một người công giáo theo khoa học… hoặc một cái gì tương tự như vậy.
– Nhưng ông đã khám nghiệm tử thi chứ?
– Đúng thế, một người làm vườn đến tìm tôi.
– Và cái chết của ông ta có gì đáng nghi ngờ không?
– Không có gì. Có một chút máu trên môi còn tất cả máu đều xuất bên trong cơ thể.
– Ông cũng đã tới nơi ông ta ngã xuống chứ?
– Phải, xác chết chưa bị ai động đến. Người ta tìm thấy nó ở bìa rừng. Đúng là ông Maltravers đang đi bắn quạ vì một khẩu súng bắn chim đang nằm bên ông. Sự xuất huyết xảy ra đột ngột, chắc chắn là do loét dạ dày.
– Không có vấn đề ông ta bị sát hại phải không? Ông thân mến! Xin ông thứ lỗi – Poirot nói – Nhưng nếu tôi không quên thì khi có những vụ như vậy người bác sĩ có ngay một kết luận: tim ngừng đập… Ông ta phải thay đổi ý kiến khi cảnh sát lưu ý rằng người chết bị một viên đạn xuyên qua đầu.
– Ông sẽ không tìm ra một dấu vết đạn nào qua xác ông Maltravers cả – Người thày thuốc cắt ngang lời khách một cách khô khan – Bây giờ, ông thân mến, nếu không còn gì để hỏi nữa… Chúng tôi giữ ông ta lại và nói:
– Cảm ơn ông và chúc ông một ngày tốt lành vì đã trả lời một cách đáng mến những câu hỏi của chúng tôi. Nhưng ông không thấy tốt nhất là mổ tử thi ư?
– Đúng là không cần thiết – Mặt của ông bác sĩ đột nhiên tái đi – Nguyên nhân cái chết không có gì đáng nghi ngờ, và trong nghề nghiệp, chúng tôi thấy không cần thiết làm đau khổ gia đình người chết một cách vô cớ.
Tới đây thì chúng tôi quay gót và ông ta đóng sập cửa lại.
– Hastings, anh nghĩ như thế nào về bác sĩ Bernard? – Poirot hỏi khi chúng tôi đang trên đường tới trang viên Mardson.
– Một thằng cha mất dạy!
– Đúng. Những nhận xét về con người của anh bao giờ cũng sâu sắc, anh bạn.
Tôi khó chịu nhìn trộm anh nhưng anh vẫn tỏ ra nghiêm chỉnh, một ánh mắt tinh quái xuất hiện và anh nói thêm: “trừ trường hợp đánh giá một người phụ nữ trẻ, đẹp”.
Đến lúc này thì tôi nhìn anh một cách lạnh lùng.
Một bà người hầu đứng tuổi mở cửa khi chúng tôi tới trang viên.
Poirot đưa danh thiếp và một lá thư của Công ty Bảo hiểm cho bà ta. Bà dẫn chúng tôi vào phòng khách rồi đi báo cho chủ nhà. Mươi phút sau, cánh cửa bật mở và một bóng người nhỏ nhắn vận đồ tang hiện ra.
– Ông Poirot? – Bà ta nói giọng đứt quãng.
– Thưa bà – Poirot đứng lên và nhanh nhẹn đến trước mặt chủ nhà – Tôi lấy làm tiếc đã làm bà bận rộn trong lúc như thế này. Nhưng làm thế nào được. Công việc thì không thể có tình thương.
Bà Maltravers để anh đưa bà tới một chiếc ghế. Mi mắt bà đỏ vì khóc nhiều, nhưng mặt bà vẫn đẫy đà lộ ra một vẻ đẹp khác thường. Bà trạc hai mươi bảy hoặc hai mươi tám tuổi, tóc vàng, mắt to và xanh, đôi môi rất quyến rũ.
– Đây là vấn đề bảo hiểm của chồng tôi phải không? Nhưng liệu tôi có nên chú ý tới, bây giờ… sớm như vậy ư?
– Can đảm, bà thân mến, hãy can đảm lên. Bà biết đấy, chồng bà đã đóng bảo hiểm nhân thọ, nó sẽ mang lại cho bà một khoản tiền lớn và trong trường hợp như thế này, Công ty phải tiến hành xem xét một số chi tiết. Bà có thể tin chắc là tôi sẽ tiến hành cuộc điều tra với ít phiền phức nếu có thể. Bà có thể kể vắn tắt những sự kiện đáng buồn xảy ra vào hôm thứ tư vừa rồi không?
– Tôi đang pha trà thì bà hầu phòng chạy tới. Một trong số những người làm vườn cũng chạy về. Bác ta đã thấy…
Bà như bị hết hơi. Poirot nắm tay bà với vẻ thương hại.
– Tôi hiểu. Thôi dừng lại ở đây… Trước đó bà có gặp ông nhà không?
– Sau bữa ăn trưa tôi vào trong làng để mua mấy con tem thư. Tôi biết là chồng tôi đi vào rừng.
– Để bắn quạ ư?
– Vâng! Ông nhà tôi có thói quen mang súng đi theo và tôi dã nghe thấy một hoặc hai tiếng súng nổ từ xa.
– Khẩu súng đó hiện ở đâu?
– Trong nhà kho, tôi nghĩ như vậy.
Bà đi ra ngoài lấy khẩu súng mang vào cho Poirot. Anh xem xét súng với vẻ tò mò.
– Tôi thấy chúng thiếu hai viên đạn – Anh lưu ý – Thưa bà, bây giờ liệu tôi có thể tới…
Anh tế nhị ngừng lời.
– Người phục vụ sẽ dẫn ông đi, bà lẩm nhẩm và quay mặt sang hướng khác.
Bà hầu phòng đưa Poirot lên gác. Tôi ngồi lại với người quả phụ xinh đẹp và đau khổ. Thật là khó, không biết là nên nói chuyện hay nên im lặng. Tôi đang hỏi một vài câu chung chung và bà trả lời một cách hờ hững thì Poirot trở về.
– Tôi xin cảm ơn về lòng tốt của bà, thưa bà. Tôi nghĩ rằng người ta không làm bà phiền muộn thêm nữa. Nhưng bà có biết hoàn cảnh tài chính của chồng bà không?
Bà ta lắc đầu:
– Tuyệt đối là không. Tôi không biết gì về vấn đề này cả.
– Vậy liệu bà có thể cho chúng tôi biết lý do nào đẩy ông nhà phải mua bảo hiểm không?
– Chúng tôi mới kết hôn hơn một năm nay. Nhưng tôi có thể nói với ông về cái quyết định bất chợt ấy. Chồng tôi tin chắc là mình không thể sống lâu. Ông ấy biết rõ cái chết sẽ tới. Tôi biết ông nhà tôi có chứng xuất huyết và chỉ trong một giây đồng hồ sẽ đi đến kết quả bi thảm… Ông giấu giếm một cách vô ích sự lo ngại của mình: Than ôi, chồng tôi không hề nhầm lẫn.
Mắt đẫm lệ, bà chào chúng tôi một cách trân trọng.
Sau đó, khi chúng tôi đang trên đường đi, Poirot có một cử chỉ thật lạ lùng.
– Này, như vậy đấy! Chúng ta trở về Londres thôi, anh bạn. Hình như không có một con chuột nào ở trong nhà và lúc này…
– Lúc này, thì sao?
– Có một mâu thuẫn nhỏ không hơn. Anh có chú ý không? Không ư? Nhưng cuộc đời thì đầy rẫy mâu thuẫn. Chắc chắn rằng Maltravers không tự sát… Không có một loại thuốc độc nào gây ra xuất huyết mà không có máu trong miệng. Không, không, tôi không thể chấp nhận hiện tượng này, phải thành thật mà nói như vậy… Nhưng ai kia?
Một người đàn ông trẻ tuổi đi về phía chúng tôi với những sải bước dài. Anh ta đi qua chúng tôi mà không thèm chào hỏi. Tôi thấy anh ta không phải là xấu trai, với nước da rám nắng chứng tỏ anh đã sống một thời gian dài ở vùng nhiệt đới.
Một người làm vườn quét lá cây đang đứng nghỉ. Poirot chạy lại phía bác ta.
– Xin bác cho tôi biết người quí phái kia là ai vậy? Bác có biết ông ta không?
– Tôi không nhớ tên ông ta, thưa ông, mặc dù tôi đã nghe nói đến. Ông ta đã nghỉ lại đây tối hôm thứ ba vừa rồi.
Chúng tôi vội vàng đuổi theo con người ấy đang đi trên đường. Một bóng người mặc bộ đồ đen xuất hiện đầu hàng hiên ngôi nhà. Con mồi của chúng tôi và chúng tôi, những người theo sát gót hắn, đều đã chứng kiến cuộc gặp gỡ.
Khi trông thấy người trẻ tuổi bà Maltravers tái mặt và gần như lảo đảo nữa.
– Anh đấy ư? – Bà thì thào – Tôi tưởng rằng anh đang ở ngoài biển… Trên đường đi Đông Phi?
– Một bức thư bất chợt của người giúp đỡ về pháp luật đến tay tôi vào phút cuối. Ông bác của tôi chết đột ngột và để lại gia tài cho tôi. Vì có cơ hội, nên tốt nhất là tôi bỏ chuyến đi. Sau đó, đọc báo được biết cái tin xấu ấy, tôi trở lại đây xem liệu tôi có ích gì cho chị không. Có lẽ chị cần một người nào dó giúp đỡ chị trong một thời gian chăng?
Lúc đó họ đã nhận ra sự có mặt của chúng tôi. Poirot tiến lên xin lỗi vì anh đã để quên chiếc can trong phòng xép. Tôi thấy bà Maltravers buộc lòng phải giới thiệu với chúng tôi một cách khó chịu.
– Ông Poirot, đại úy Black.
Sau một vài câu chuyện Poirot được biết viên đại úy đang trọ ở quán Ancher.
Không tìm thấy chiếc can nói dối là để quên, Poirot tỏ lời xin lỗi và chúng tôi rút lui.
Chúng tôi nhanh chóng vào trong làng và Poirot đến thẳng quán Ancher.
– Chúng ta ở đây cho đến khi người bạn đại úy của chúng ta trở về, anh giải thích. Chắc anh đã chú ý nhiều lần tôi nói việc chúng ta quay lại Londres bằng chuyến tàu đầu tiên chứ? Anh nghĩ rằng tôi định về thật sao? Không! Anh có chú ý nét mặt của bà Maltravers khi gặp anh chàng Black ấy không? Bà ta rất ngạc nhiên, còn anh chàng… thế nào, anh ta tỏ ra rất tận tụy. Anh có nhận xét như vậy không? Anh ta nghỉ tại đấy vào đêm hôm thứ ba… Sáng hôm sau ông Maltravers chết. Hastings, chúng ta phải xem xét hành động và thái độ của viên đại úy này.
Nửa tiếng đồng hồ sau chúng tôi thấy con người đáng nghi ngờ ấy bước vào quán trọ. Poirot bước ra và đi theo anh ta. Sau đó chúng tôi cùng vào phòng trọ mà chúng tôi đã thuê trước.
Poirot giải thích với đại úy Black về nhiệm vụ của chúng tôi và nói tiếp:
– Bây giờ ông đã hiểu rõ là chúng tôi cần biết rõ tình trạng tâm lý của ông Maltravers trước khi chết ra sao. Tôi tránh đặt ra những câu hỏi làm đau buồn người vợ góa của ông ta nên phải nhờ tới ông. Đúng là ông đã có một thời gian ở đây trước khi câu chuyện xảy ra với ông ta. Liệu ông có thể cung cấp những chi tiết quí báu cho chúng tôi không?
– Tôi sẽ làm những gì có thể để giúp đỡ ông, nhưng tôi thấy không có gì khác thường trong thái độ của Maltravers. Ông ấy là một người bạn thân thiết của gia đình tôi, nhưng đúng là tôi và ông ta không hiểu biết nhau nhiều.
– Ông đã tới nhà ấy… vào lúc nào?
– Buổi chiều thứ ba và ra đi vào sáng sớm thứ tư vì tàu của chúng tôi đậu ở Tilbury sẽ nhổ neo vào buổi trưa hôm đó. Nhưng những tin tức nhận được ngay trước khi khởi hành đã khiến tôi phải thay đổi kế hoạch. Tôi lo ngại về những điều các ông đã nghe được trong câu chuyện giữa tôi và bà Maltravers.
– Ông định đi Đông Phi phải không?
– Vâng. Tôi đã ở đây từ sau chiến tranh. Thật là một xứ sở kỳ diệu.
– Đúng thế. trong bữa ăn với gia đình Maltravers người ta đã nói những chuyện gì?
– Ờ, tôi cũng không nhớ nữa! Những câu chuyện bình thường. Ông Maltravers đã hỏi tin tức về cha mẹ tôi, rồi chúng tôi nói về tổ chức lại nước Đức. Sau đó Maltravers đã đặt ra cho tôi những câu hỏi về Đông Phi và tôi đã kể cho ông nghe một hai câu chuyện. Đó hầu như là tất cả, tôi tin như vậy.
– Cảm ơn.
Poirot nghĩ ngợi một lúc sau đó anh nhẹ nhàng tuyên bố:
– Nếu ông cho phép, tôi sẽ làm một thí nghiệm nhỏ. Ông đã nhắc lại những gì ông đã nghĩ tới, nhưng bây giờ tôi muốn hỏi tiềm thức của ông.
– Đây là khoa học phân tích tâm lý ư? – Black kêu lên một cách hốt hoảng.
– Ồ không! Ông yên tâm! Tôi sẽ giải thích ông rõ. Tôi đặt ra cho ông một từ, ông trả lời bằng một từ khác, và cứ như thế. ông có thể trả lời bằng bất cứ từ nào, từ đầu tiên xuất hiện trong óc của ông. Thỏa thuận chứ?
– Đồng ý – Chàng trai trả lời với vẻ chưa thật dễ chịu.
– Hastings, yêu cầu anh ghi chép cho.
Poirot lấy trong túi ra một chiếc đồng hồ quả quít mặt lồi đặt trên bàn.
– Chúng ta bắt đầu: Ngày – Sau một thoáng ngần ngừ Jack nói – Đêm.
Và cứ như thế Poirot tiến hành cuộc thí nghiệm và những câu trả lời đối với tôi chúng có vẻ tự phát.
– Tên.
– Nơi.
– Bernard.
– Shaw.
– Thứ ba.
– Bữa ăn chiều.
– Chuyến đi.
– Tàu thủy.
– Quốc gia.
– Ouganda.
– Câu chuyện.
– Những con sư tử.
– Khẩu súng săn nhỏ.
– Trang trại.
– Phát đạn.
– Tự tử.
– Con voi.
– Chống cự.
– Tiền.
– Công chứng viên.
– Cảm ơn đại úy Black. Ông cho chúng ta chuẩn bị công việc khoảng nửa tiếng đồng hồ được không?
– Được chứ.
Viên đại úy trẻ nhìn anh với vẻ tò mò, sau đó lau trán đứng lên.
– Bây giờ – Poirot ra đóng cửa phòng và cười nói – Hastings, anh đã hiểu cả rồi phải không?
– Tuyệt đối là không.
– Bản danh sách những câu hỏi và trả lời ấy…
Tôi nhìn vào bản kê, tuy cố gắng xem xét nhưng cũng phải lắc đầu.
– Tôi sẽ giúp anh. Bắt đầu, Black đã trả lời tôi trong thời gian bình thường, không ngập ngừng, nên chúng ta có thể kết luận là anh ta không giấu giếm gì cả: hỏi “ngày”, trả lời “đêm”, “tên” trả lời “nơi” đều là những danh từ chung chung. Tôi bắt đầu thăm dò bằng cách hỏi “Bernard”, ám chỉ ông bác sĩ địa phương, nếu anh ta đã gặp. Rõ ràng là anh ta chưa gặp người này. Tiếp đó anh ta đã trả lời “bữa ăn chiều” khi hỏi “thứ ba”; nhưng với những từ “chuyến đi” và “quốc gia” anh đã trả lời “tàu thủy” và “Ouganda”, chỉ rõ chuyến đi ra nước ngoài quan trọng đối với anh, chứ không phải là chuyến đi tới thăm nhà Maltravers. “Câu chuyện” làm cho anh ta nhớ tới một chuyện liên quan tới “những con sư tử” mà chắc chắn anh đã kể vào cái tối thứ ba ấy. Khi tôi nói “khẩu súng săn nhỏ”, anh ta nói “trang trại” một cách bất chợt. Khi tôi nêu “phát đạn”, anh trả lời ngay “tự tử”. Tập hợp lại thì ta thấy rõ hơn. Anh ta đã biết có một người tự tự bằng một khẩu súng săn nhỏ, trong một trang trại nào đó. Không nên quên rằng tư tưởng của anh còn in rõ về những câu chuyện mà anh đã kể vào buổi tối thứ ba ấy. Và anh sẽ thấy, tôi không đi xa sự thật, nếu tôi không gọi anh chàng Black ấy tới, kể cho chúng ta nghe những câu chuyện anh đã nói với Maltravers tối hôm ấy.
Khi được Poirot nói, Black không chút nào ngần ngừ:
– Phải, bây giờ tôi đã nhớ ra, tôi đã kể cho họ nghe câu chuyện đáng buồn ấy. Một người đã tự tự tại nơi tôi đã đến một trang trại. Anh ta dùng một khẩu súng săn nhỏ. Đầu đạn xuyên từ vòm miệng lên óc. Các bác sĩ không tìm thấy gì cả… Họ không thấy một dấu vết nào nếu không có một chút máu chảy trên môi. Nhưng có…
– Có quan hệ gì giữa câu chuyện ấy với cái chết của Maltravers không? Tôi cho rằng ông biết việc có một khẩu súng y như thế bên cạnh xác chết.
– Ông muốn nói rằng do vô ý thức tôi đã gợi ý cho ông ấy… Nhưng thật là kinh tởm!
– Ông không nên thất vọng… Cái đó có thể xảy ra bằng cách này hay cách khác. Thôi! Tôi cần gọi điện thoại về Londres đây.
Poirot đã gọi điện thoại rất lâu. Buổi chiều anh cũng đi và chỉ về quán trọ sau bảy giờ tối và nói anh không thể chờ đợi việc nắm những tin tức ở người đàn bà góa lâu hơn nữa. Hiện nay bà ta không còn nguồn tiền nong nào để sinh sống, lại có tin chồng tự tử để bảo đảm cuộc sống của bà thì đây thật là một gánh nặng khó chịu đựng nổi đối với bất cứ người vợ nào. Tôi nuôi một hy vọng thầm kín là anh chàng Black có khả năng an ủi bà ta cùng với thời gian làm giảm nhẹ sự đau đớn của bà. Dù sao đi nữa anh ta cũng rất có cảm tình với bà.
Cuộc gặp gỡ giữa chúng tôi với người đàn bà góa trẻ thật là nặng nề. Bà không tin tưởng chút nào vào việc làm của Poirot, sau đó bà ta phải chấp nhận và gục xuống khóc sướt mướt. Một cuộc khám nghiệm tử thi xác nhận nghi ngờ của chúng tôi là đúng. Maltravers bị đạn bắn xuyên qua óc. Poirot lấy làm tiếc cho người vợ góa xinh đẹp nhưng dù sao anh cũng là người đại diện cho Công ty Bảo hiểm nên không thể nào làm khác được.
Khi chúng tôi sắp ra về Poirot quay về phía bà Maltravers và nói một cách đáng mến:
– Thưa bà, hơn ai hết, bà cần biết là không có cái chết nào cả.
Bà ta bối rối, mắt mở to.
– Ông muốn nói gì?
– Có bao giờ bà đánh đồng thiếp không? Bà là con đồng, bà nên biết như vậy.
– Người ta cũng đã nói với tôi về cái đó. Nhưng ông không tin vào đồng thiếp chứ?
– Thưa bà, tôi đã từng chứng kiến những điều kỳ lạ. Bà có biết trong làng người ta nói trang viên này có ma không?
Bà ta cúi đầu, cùng lúc ấy bà hầu vào báo là bữa ăn đã dọn.
– Các ông cùng đi dùng bữa với tôi chứ?
Chúng tôi cảm ơn nhận lời và tôi cảm thấy sự có mặt của chúng tôi có thể làm bà không vui vẻ chút nào.
Khi chúng tôi vừa ăn xong món canh thì có một tiếng kêu thét lên bên cửa, tiếp theo đó là tiếng bát đĩa đổ vỡ. Chúng tôi giật mình.
Bà hầu bước vào, tay ôm ngực:
– Một người… đứng chắn lối đi!
Poirot chạy ra khỏi phòng, sau đó quay vào.
– Chẳng có ai cả!
– Ông có tin chắc không, thưa ông? – Bà hầu run sợ hỏi lại. – Ôi! Tôi sợ hết hồn!
– Tại sao?
– Tôi thấy… tôi thấy ông chủ… Người ấy rất giống.
Tôi thấy bà Maltravers cũng run lên vì sợ hãi và suy nghĩ của tôi trở lại với điều mê tín cũ là hồn người tự tử thì không bao giờ siêu thoát được. Có lẽ bà chủ nhà cũng nghĩ như vậy nên một lát sau bà ta nắm chặt lấy cánh tay của Poirot và kêu lên:
– Ông có nghe thấy gì không? Ba tiếng gõ trên cửa kính? Đó là cách gõ cửa của chồng tôi khi đi xem xét xung quanh nhà.
– Đó là dây leo, tôi nói. Dây leo đập vào cửa kính đó thôi!
Nhưng một sự hốt hoảng đã lan tràn ở mọi người. Bà chủ là người hoảng nhất và khi dùng bữa xong bà Maltravers đã phải yêu cầu chúng tôi ngồi nán lại một lúc nữa. Bà sợ phải ở lại một mình. Chúng tôi ngồi trong một phòng khách nhỏ. Gió rít xung quanh nhà một cách khác thường. Đã hai lần cánh cửa đột nhiên bật mở, và mỗi khi như thế thì người đàn bà trẻ lại kinh hoàng ôm chặt lấy tôi.
– A! Cánh cửa này bị ma ám rồi – Poirot tức giận kêu lên. Anh đi ra cửa và khóa lại.
– Tôi đã khóa cửa rồi!
– Đừng làm gì cả – Bà Maltravers thì thào – Xem nó có thể mở được nữa không…
Khi bà vừa nói xong. Cái việc không thể xảy ra đã xảy ra. Cánh cửa đã bị khóa chặt lại từ từ mở ra.
Tôi ngồi ở chỗ không nhìn thấy bên ngoài cửa, nhưng Poirot và bà chủ nhà thì thấy rõ. Bà ta kêu thét lên và quay sang người bên cạnh.
– Ông có nhìn thấy ông ta không… Kia! Trên lối đi ấy?
Bạn tôi tò mò nhìn ra sau đó anh lắc đầu. Bà ta nài nỉ:
– Tôi đã nhìn thấy ông ta! Chồng tôi… ông cũng phải trông thấy chứ?
– Thưa bà, tôi không nhìn thấy gì cả. Bà không được khỏe… Thần kinh của bà…
– Tôi vẫn bình thường. Tôi… ôi! Trời ơi!
Ánh sáng nhấp nháy, rồi đèn tắt phụt. Trong đêm tối ba tiếng gõ trên cửa kính lại nổi lên. Tôi nghe thấy tiếng rên rỉ của bà Maltravers.
Sau đó… Tôi nhìn thấy…
Xác đàn ông mà tôi đã quan sát nằm trên giường ở gác dưới bây giờ đã đứng lên. Một ánh sáng lờ mờ, ma quái hắt vào con người ấy. Môi dính đầy máu, bàn tay phải của hắn chỉ ra đằng trước. Đột nhiên ánh sáng rời khỏi người ấy chuyển sang chiếu lên đầu Poirot, rồi đầu tôi, cuối cùng dừng lại trên đầu người đàn bà trẻ mà bộ mặt lộ vẻ sợ hãi đến cực điểm. Tôi cũng nhìn thấy ở hắn một đặc điểm khác khiến tôi phải kêu lên:
– Trời! Poirot! Nhìn tay hắn! Tay phải ấy! Đầy máu!
Bà Maltravers nhìn vào tay mình, giật mình và ngã lăn ra đất.
– Máu – Mụ ta rú lên một cách điên dại – Đúng, máu? Tôi đã giết ông ấy! Chính tôi! Ông ấy đã tin vào tôi… tôi đã sờ vào cò súng và tôi đã bóp cò. Cứu tôi với… Cứu tôi! Ông ấy đã trở về!
Tiếng nói của mụ chết lặng trong tiếng rên rỉ.
– Đèn – Poirot nói to.
Như là ảo thuật, đèn sáng.
– Như thế đấy, anh nói tiếp. Các bạn đã thấy rõ cả, Hastings và bạn Everett! A! Trước hết tôi phải giới thiệu ông Everett, một nhân vật nổi tiếng trên sân khấu. Tôi đã gọi dây nói cho ông trưa nay. Có thấy sự hóa trang tuyệt diệu của ông ấy không? Ông rất giống người đã chết. Với một chiếc đèn bấm và một chút chất lân tinh cần thiết, ông đã tạo được trạng thái tinh thần mong muốn… Còn bây giờ thì chúng ta không nên bị lỡ tàu. Thanh tra cảnh sát Japp đang đứng ở ngoài cửa sổ. Một đêm không tốt lành… Nhưng ông ấy đã giải buồn bằng cách gõ vào cửa kính.
Khi chúng tôi đang bước vội trên đường trong đêm tối, mưa gió, Poirot nói tiếp câu chuyện:
– Anh thấy đấy, có một vài mâu thuẫn nhỏ. Ông bác sĩ nói người chết là tín đồ của đạo Cơ đốc, nhưng ai cho ông ta cái nhận thức đó nếu không phải là mụ Maltravers? Sau này, với chúng ta, mụ lại nói, khi còn sống, chồng mụ thường lo lắng về sức khỏe không tốt. Một chi tiết khác, tại sao mụ lại bối rối trước sự xuất hiện bất chợt của chàng trai trẻ Black ấy? Và cuối cùng tập quán buộc người đàn bà phải để tang và khóc chồng, nhưng tôi thấy mắt mụ không đỏ chút nào! Hastings, anh không chú ý chứ? Không à? Tôi đã nhiều lần nói là ông không nhìn thấy gì cả mà.
Tôi không cãi lại và Poirot nói tiếp:
– Có hai khả năng. Câu chuyện của Black đã gợi ý cho ông chồng một cách tự sát thần tình hoặc đã gợi ý cho mụ vợ (cùng ngồi nghe kể chuyện) một cách giết người thuận tiện? Tôi theo giả thiết thứ hai và buộc mụ vợ phải nói ra. Maltravers có thể bóp cò súng bằng chân… Đó là điều tôi ít nghĩ đến… Chúng ta không thấy ai nói khi chết Maltravers chỉ đi một chiếc ủng. Một chi tiết ít người chú ý đến nhưng tôi đã lưu ý. Cuối cùng thì tôi ngả về việc chúng ta đang đứng trước một vụ giết người, nhưng chưa có chứng cớ gì dể xác minh lý thuyết của tôi. Do đó có vở hài kịch ngắn và anh đã thấy tôi đạo diễn tối nay.
Tôi thú nhận:
– Cho đến lúc này tôi vẫn chưa rõ tội ác đã diễn ra như thế nào?
– Phải nói từ đầu. Chúng ta có một người vợ trẻ xinh đẹp hay tính toán. Mụ ta biết rõ tình cảnh sa sút về tài chính của chồng. Mệt mỏi vì phải sống bên một ông chồng già (vì mụ lấy ông chỉ vì tiền) nên mụ đã thúc đẩy chồng dồn mọi tài sản để đóng vào quĩ bảo hiểm nhân thọ. Công việc hoàn thành mụ tìm cách kết thúc cuộc sống ông chồng. Một may mắn đến với mụ: Câu chuyện khác thường người sĩ quan trẻ tuổi kể lại: Trưa hôm sau, khi viên đại úy đang lênh đênh trên biển cả (như mụ nghĩ) thì mụ cùng chồng dạo chơi trên thảm cỏ xanh. Tôi hình dung ra câu chuyện của họ: Câu chuyện của Black đã kể cho chúng ta nghe thật là lạ lùng, mụ nhận xét. Một người lại có thể tự tử theo cách ấy ư? Anh làm thử xem có được không nào? Lão chồng khốn khổ, ngu đần làm thử. Lão cho họng súng vào miệng. Mụ vợ cúi xuống và đặt tay vào cò súng rồi ngẩng mặt lên tươi cười nhìn chồng: Bây giờ, thưa ông, mụ kết luận một cách bịp bợm, giả thiết là em bóp cò thì sao nhỉ? Và thế đấy… Và thế đấy! Hastings… Mụ ta đã bóp cò súng.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.