MÙA THU CỦA CÂY DƯƠNG
Chương 05
Bên trong cái đầu thỏ vừa tối vừa bốc mùi khó chịu, tôi rùng mình sợ hãi khi nghe câu nói run run của bác Nishioka. Thật ư? Trẻ con thường đo đúng ư?
“Không thì, nhỡ đâu bà cụ quên mất đường về nhà, việc đó cũng…”
“Bác đùa à?” cô Sasaki hình như định nói tiếp gì đó, “Bà già ấy… thì…”
“Sao mà biết được. Chẳng ai nói trước được gì. Cũng có thể tự nhiên bà cụ đâm ra lẩn thẩn.”
“Hừm.”
“Dù sao thì, cũng nên đi tìm…”
“Tìm, nhưng tìm ở đâu cơ chứ?”
Sau một hồi vật lộn cố gỡ cái đầu thỏ, tôi ngồi phệt ra đất.
“Ta đến chỗ bác sĩ mắt đi.”
Tôi nói với cô Sasaki, người cuối cùng đã giải thoát cho tôi khỏi thứ của nợ ấy.
“Vậy, tôi sẽ đi về phía nhà ga…”
Vẫn mặc áo khoác ngắn, bác Nishioka dợm bước đi.
Đã hết giờ khám bệnh của bác sĩ, chúng tôi nhấn chuông thế nào cũng không thấy ai ra. Vừa đi trên con đường tối thẫm, tôi vừa để ý nhìn xung quanh, hay là bà cụ bị ngã ở đâu rồi nhỉ.
“Không sao đâu. Chắc là bà cụ đã về nhà rồi.”
Cô Sasaki miệng hút thuốc, lững thững bước. Chợt tôi hít hà hít hà.
“Mùi gì thơm thế cô nhỉ?”
Cô Sasaki cũng dừng lại một lát ngửi ngửi: “Chắc quanh đây có ai đang nấu cà ri.”
Phải rồi, bầu không khí trong lành của một đêm đầu đông, món cà ri từ nhà ai đó và làn khói thuốc lá. Mình biết sự kết hợp này, tôi nghĩ. Mình từng trải nghiệm cảm giác này rồi. Lần đó hai bố con tôi đi dạo trên con đường đêm, cũng có mùi cà ri, và bố cũng đang hút thuốc. Chợt nhớ tới vầng trăng đã thấy dạo đó, một vầng trăng vằng vặc tròn đầy, tôi nhìn lên bầu trời:
“Trăng!” tôi reo lên.
“Ừ, trăng rằm đấy!” cô Sasaki trả lời, chậm rãi nhả ra một làn khói trắng.
“Cô nghĩ là bà sẽ về thật chứ?”
Khi tôi hỏi lại lần nữa, cô Sasaki không nói gì, chỉ cầm lấy tay tôi và nắm thật chặt.
Lúc chúng tôi về đến trang viên Cây Dương, mẹ đang sốt ruột đứng đợi ở cổng. Thấy tôi và cô Sasaki đi cùng nhau, mẹ có vẻ hơi ngạc nhiên.
“Mẹ ơi, bà đâu? Bà vẫn chưa về à?”
“Chưa. Có chuyện gì à?”
Tôi đang ủ rũ nên cô Sasaki bèn thay tôi kể đầu đuôi câu chuyện cho mẹ nghe.
“Tôi cũng chẳng ra sao cả. Ai lại đi bảo về con bé rằng, lũ mèo trước khi chết sẽ bỏ đi tìm nơi chết, vì vậy mà con bé mới lo lắng…”
Mẹ âu lo nhìn tôi, nhưng rồi ngay sau đó mẹ nói.
“Không đâu, cũng hơn bảy giờ rồi, con bé lo cũng đúng thôi.”
Mẹ vỗ nhẹ vào lưng tôi khi ấy đang ủ rũ.
“Những lần trước, như cái lần đi du lịch suối nước nóng cùng hội người cao tuổi ấy, bà cụ còn báo với tôi một tiếng rồi mới đi cơ mà.”
Cô Sasaki cũng bắt đầu thấy rốt ruột, có lẽ vì nghe mẹ nói là cũng đã hơn bảy giờ rồi. Cô liếc sang nhìn ra phía con đường chạy dọc bờ song.
“Họ hàng của bà thì sao?” mẹ hỏi.
Cô Sasaki nghiêng đầu như muốn nói, tôi không biết. “Hình như hai vợ chồng họ không có con cái gì thì phải. Có lần tôi nghe thấy bảo bà cụ là vợ hai.”
Ba người chúng tôi thở ra toàn khói trắng, cứ thế đứng ngây ra ở cổng, đang lo lắng không biết đã có chuyện gì xảy ra, đúng lúc ấy, bác Nishioka trở về.
“Không được, không được rồi.
Bác Nishioka khoát tay rất rộng, như thể vừa đảm nhận một nhiệm vụ trọng đại vô cùng.
“Tôi đứng đợi ở cửa soát vế một lúc, nhưng nghĩ làm vậy chẳng ích gì nên mới hỏi nhân viên nhà ga xem có thấy bà cụ, xong tôi đi lòng vòng quanh khu mua sắm rồi ghé vào đồn cảnh sát…”
Đến lúc này, bác Nishioka mới nhận ra mẹ tôi: “A, chào cô!” bác nói bằng giọng trầm nhất có thể rồi cúi đầu.
“Ở đồn cảnh sát, đã có chuyện gì xảy ra sao?”
Bị cô Sasaki hỏi dồn, hàng mi của bác Nishioka cứ giật giật liên hồi. Bác càng nói nhanh hơn mọi khi.
“Không, không, tôi chỉ tới hỏi thôi.”
“Rồi sau đó?”
“Sau đó hả, chắc chắn là chưa thể yêu cầu mở cuộc điều tra tìm người được rồi… Nhưng tôi không nghe thấy cảnh sát nói gì về việc một bà cụ như thế…”
Đúng lúc ấy, từ con đường chạy dọc bờ sông, một bóng đen chầm chậm tiến lại.
“Bà ạ?”
Dưới ánh trăng mờ tỏ, bong bà thấp thoáng hiện ra.
“Ô kìa, mọi người tập trung cả ở đây à…”
Tiếng bà vang đến chỗ chúng tôi. Hơi bối rối, tôi đứng như trời trồng.
Bà cụ bận đồ tang kiểu truyền thống. Thường bà cụ không mặc kimino nên hiếm khi trông thấy bà cụ trong bộ dạng này, nhưng chi tiết khiến tôi chú ý nhất lại chính là khuôn mặt bà cụ. Hồi trước, khi lần đầu tiên gặp bà, tôi đã ngờ rằng khuôn mặt bà trông giống hệt nhân vật Popeye độc ác là vì bà đã uống phải một loại thuốc quái gở nào đó, và lúc này đây, tôi hoàn toàn tin đó là sự thật.
Cái mặt gãy của bà cụ trông như dài hơn. Nếu nhìn kỹ sẽ thấy, trên khuôn mặt chảy dài đó, hai má ở nửa dưới mặt phồng lên, các nếp nhăn cũng căng ra, có thể thấy rõ là bà cụ trông trẻ hơn. (Thôi đúng rồi, ra là bà uống thuốc cải lão hoàn đồng…) cảm giác về sự hoạt bát thường ngày, gần như là cái vẻ gian gian, không còn nữa. Đến cả giọng nói của bà cụ cũng khang khác, nghe cứ khàn khàn làm sao ấy.
“Ôi, tôi mệt quá. Đi thăm viếng tang ma làm gì. A, chờ chút, cái này…”
Bà cụ mở túi xách màu đen và lấy ra một chiếc chìa khóa rồi chĩa về phía tôi. Tôi run run lại gần, cầm lấy chiếc chìa khóa. Mắt tôi cứ dán vào mặt bà cụ.
“Cháu thẫn thờ nhìn cái gì đấy? Mở cửa cho bà đi chứ!”
Bà vừa dứt lời, tôi liền hét lên.
“Bà… bà mọc răng!”
Bà cụ im lặng, có vẻ không được thoải mái cho lắm. Rồi bà cụ chậm rãi nói:
“Đấy là thứ để đeo vào miệng, dùng để diện khi ra ngoài.”
Nói đoạn bà cụ ngậm chặt miệng lại, lỗ mũi nở rộng ra hết cỡ.
Mình nhìn rõ hai cái hàm răng trắng đều ấy, bị cuốn vào suy nghĩ đó, tôi quên cả chớp mắt, đúng lúc ấy, một tiếng huýt lạ vang lên.
Cô Sasaki đưa hai tay lên che mắt, nhìn như vẻ đau khổ. Mẹ đứng đối diện cũng cúi xuống, hai vai run lên. Tôi tự hỏi không biết có phải hai người họ đang khóc không. Nhưng kỳ thực cả hai đang cười. Có điều gì đáng buồn cười thế nhỉ, tôi không hiểu gì nên quay sang nhìn bác Nishioka, đôi mắt bé tẹo của bác hấp háy liên hồi còn lông mày thì nhướng lên. Bà cụ vào nhà rồi đóng cửa đánh rầm một cái.
Sau bữa cơm chiều, mấy người lớn dắt tôi xuống thăm và xin lỗi bà cụ. Nhưng tôi chẳng hiểu gì cả, tại sao bà cụ lại khó chịu đến vậy. Điều duy nhất tôi biết chỉ là: “Ồ, hóa ra đó là răng giả.” Dù sao tôi cũng thở phào nhẹ nhõm vì bà cụ đã về nhà bình yên vô sự. Nhưng rõ ràng là không có răng giả trông mặt bà dễ coi hơn, tôi nghĩ. Và rồi tôi hậm hực, cảm thấy trong việc này hình như mọi người không công bằng với mình, sau đấy vì mệt quá nên tối đó, thật hiếm hoi, tôi ngủ mà không mơ mộng gì.
Bố có khỏe không ạ?
Hôm nay, con đi đến chỗ bác sĩ mắt để tìm bà cụ chủ nhà. Trên đường về, con bỗng thấy nhớ bố. Ngày trước, cái lần con và bạn Yuta và mẹ của bạn Yuta đi bách thú, bố đã tới nhà ga để đón con. Bố nắm tay con rồi vừa hút thuốc vừa kể chuyện chú thỏ trên mặt trăng cho con nghe. Có một người bị đói, thế là tất cả các con thú trong rừng đi tìm đồ ăn mang về. Nhưng chú thỏ yếu ớt nên không mang được gì về cả. Nó bèn lao vào ngọn lửa để biến mình thành đồ ăn. Bố bảo: “Chú thỏ sau khi chết được lên cung trăng đấy.”
Nghe bố kể chuyện chú thỏ xong, lúc nằm trong chăn con cứ nghĩ mãi. Và con đã khóc một ít. Con không thích câu chuyện buồn đó lắm. Tối hôm qua, con nghĩ, có lẽ bố đang ở trên mặt trăng cùng chú thỏ kia, thế là nước mắt con lại tuôn ra. Ở trên mặt trăng chỉ có bố và chú thỏ, thế thì buồn quá.
Bố ơi, nếu ngăn kéo của bà đầy chặt, bà sẽ chết đấy. Vì thế, từ giờ con sẽ không viết thư hàng ngày nữa. Thay vào đó, khi viết, con sẽ viết bằng chữ nhỏ. Con sẽ gọt bút chì thật sắc, và sẽ viết được nhiều.
Thế nhé bố, con chào bố!
Hôm bà cụ đi dự lễ tang, ý nghĩ “bà cụ sắp chết rồi” khiến tôi sợ điếng người, nhưng tôi vẫn viết thư cho bố. Buồn cười là thậm chí tôi còn viết hăng hơn. Ban đầu đó chỉ đơn giản là một trò chơi, chẳng biết từ lúc nào những lá thư ấy đã trở thành một phần không thể thiếu, giống như một thói quen vậy. Rồi một ngày nào đó có thể bà cụ sẽ chết, khi nghĩ như vậy tôi lại thấy việc viết thư dường như càng trở nên cấp bách hơn. Thế là dần dần, trong thư, tôi bắt đầu kể cho bố thêm nhiều chuyện.
Cũng có thể tôi đã vượt qua chuyện bố mất rồi nên không còn cảm thấy cay đắng khi nhớ về bố nữa. Nhưng nói đúng hơn, dường như tôi đang cố tìm câu trả lời cho những điều mình không thể tự tìm hiểu. Ngay cả bây giờ, khi đã trưởng thành, gặp bất kể việc gì không ổn, thì dù có là nhỏ nhặt, như cài lệch cúc áo chẳng hạn, nếu không làm lại từ đầu, tôi sẽ bị ám ảnh bởi cảm giác bất an, từa tựa như vết thương lâu lâu lại há miệng một vậy. Về sau, mẹ cố gắng kiếm tìm những điều mới mẻ trong cuộc sống, mẹ tái hôn, thế rồi tôi dần xa rời mẹ, nguyên nhân có lẽ vì bản tính của tôi.
Trong một lá thư gửi bố, tôi đã viết như thế này.
Bố có khỏe không? Móng chân của con rất giống móng chân của bố đấy. Con biết thế là vì ngày trước bố từng nói với con như vậy. Lúc đó con cũng nhìn móng chân của bố và thấy: “Đúng là giống thật!”
Hôm nay, lúc tắm xong, mẹ cắt móng chân cho con, con nhìn móng chân mình và có cảm giác thật lạ bố ạ. Móng chân con còn đây, vậy mà móng chân bố không còn nữa. Móng chân bố không còn nữa, vậy mà trước đây móng chân hai bố con mình lại có hình dáng giống hệt nhau. Trước đây có bố, có mẹ và con. Bây giờ không có bố nữa, chỉ còn mẹ và con thôi, tại sao lại thế? Nhưng nếu cứ nghĩ mãi nghĩ mãi thì đầu con sẽ quay như chong chóng mất.
Lúc cắt móng chân cho con, trán mẹ nhíu lại và mẹ tỏ ra chăm chú. Con đã nghĩ: “Chẳng biết hồi bố cắt móng chân cho mình, mặt bố trông như thế nào?” Nhưng con hoàn toàn không biết. Vì khi đó, bố chỉ toàn cúi xuống. Con thích bố cắt móng chân cho con hơn. Vì bố cắt rất chậm nên con không thấy bị nhột. Thế bố ạ, con chào bố!
Tháng Mười hai đã đi được một nửa chặng đường và kỳ nghỉ đông đang đến. Ngày cuối của học kỳ, tôi chạy từ trường về nhà dưới ánh nắng trong vắt của mùa đông.
Khi chạy lên cầu thang, tôi thấy một cậu con trai lạ hoắc đang đứng trước máy giặt của bác Nishioka. Cậu ta chắc là hơn tuổi tôi, trông cứ như một cây nấm kim châm đeo kính vậy. Lúc tôi bắt gặp, cậu ta đang nhét một đống đồ giặt cao như núi vào máy.
Lập tức, ký ức về “sự kiện cái máy giặt” lần trước ùa về. Chắc chắn là dùng trộm rồi, tôi nghĩ, đoạn rụt rè mở khóa cửa và nhìn chằm chằm.
“Chào!”
Cậu ta lên tiếng. Đó là một giọng nói khàn nhưng rất sáng.
Không đáp lại, tôi cuống cuồng mở cửa rồi vào phòng. Cầm nắm cơm do mẹ làm sẵn, tôi nhòm qua khe cửa. Cậu con trai kia đang rẩy bột giặt vào máy rất thành thạo. Tôi đi ngoài, tránh nhìn vào cậu ta, tôi khóa cửa lại rồi chạy ngay xuống cầu thang.
“Bà ơi, có thằng nào lạ lắm!”
Khi đeo kính, những con chữ bé tí tẹo trên báo chẳng thể gây khó dễ được cho bà cụ, và bà cụ coi việc đọc kỹ không sót tí gì một tờ báo là thú vui hàng ngày. Hôm đó, bà cụ đang ngồi thu chân trong bàn sưởi, tay mở rộng tờ báo, nghe tôi nói bà nhíu mày, trán hiện lên những nếp nhăn lớn:
“Thằng nào lạ?”
Bên trên chiếc kính vừa trượt xuống, hai mắt bà cụ nhìn tôi chằm chằm.
“Một đứa đeo kính. Nó dùng máy giặt nhà bác Nishioka bà ạ.”
“À,” bà thốt lên, rồi vừa gập tờ báo lại vừa nói:
“Con bác Nishioka đấy.”
“Bác Nishioka có con hở bà?”
“Có chứ.”
“Nhưng mà… thường thì nó ở với mẹ.”
Bà cụ nhỏm dậy, quỳ gối và xếp lại xấp báo cho ngay ngắn, gây ra những tiếng cộp cộp bên trên bàn sưởi. Chẳng thể hỏi han gì thêm trong bầu không khí này, tôi đành im lặng.
Ăn trưa xong, tôi ra sân phơi đồ, đang cho lũ mèo ăn nốt một ít cá thu khô còn lại từ tối qua, chợt nghe có tiếng bước chân đi xuống cầu thang. Tiếng bước chân tiếp tục đi qua khu vườn rồi vòng tới cửa trước nhà bà cụ, lại là cái cậu ban nãy.
“Bà có nhà không?”
Tôi gật đầu, thế là cậu ta đi về phía khu vườn. Từ chỗ cửa quét rác, cậu ta nói với bà cụ như người lớn:
“Cháu mời bà dùng món này ạ.”
Rồi chìa ra cái hộp bên trên có in dòng chữ “Thạch quả sơn trà Nhật Bản.”
“Bà cảm ơn
Bà cụ khẽ cúi đầu theo đúng kiểu của người già, rất trang trọng.
“À, con bé kia là Chiaki, hàng xóm của cháu đấy. Nó học lớp Một.”
Bà cụ quay về phía tôi, giới thiệu qua loa tên cậu ta là Osamu và đang học lớp bốn. Lớp Bốn mà bé tí tẹo.
“Anh ở đây vào kỳ nghỉ hè, mình là bạn nhé.”
Thay cho lời đồng ý, tôi nhìn về phía Osamu, miệng Osamu bụm lại cứ như đang nhịn cười để khỏi lộ mấy cái răng cửa to tướng.
Osamu nói sẽ đi mua đồ để nấu cà ri, thế là tôi quyết định đi cùng. Chúng tôi đi bộ trên con đường mòn chạy dọc bờ sông, vừa đi vừa đá những viên đá cuội nhỏ. Vóc người nhỏ thó, dáng đi còng lưng và cái đầu khẽ gật gà gật gù của Osamu rất giống bác Nishioka.
“Anh làm cà ri ngon phết đấy nhé.”
“Gì cơ, anh tự làm được á?”
“Được chứ. Cả bò hầm xốt kem này, trứng rán này…”
Siêu quá, tôi trầm trồ nhưng rồi lại nghĩ, chắc học sinh lớp Bốn ai cũng thế.
“Mẹ anh dạy anh cách nấu ạ?”
“Ừ, nhưng chủ yếu là anh học từ sách với ti vi. Mẹ anh dạy học ở một trường tư thục nên bận lắm.”
“Mẹ em ấy, mẹ em làm ở chỗ tổ chức đám cưới. Ngày nào cũng nhìn cô dâu nhé, nhiều lắm!”
“Thật á?”
“Anh thích cô dâu không?”
Osamu suy nghĩ một lát rồi đáp: “Không thích lắm.”
“Tại sao?”
“Có gì đó ghê ghê ấy. Vì người họ cứ cứng đờ ra.”
Lúc ở siêu thị trong khu mua sắm, Osamu mua đồ với vẻ rất thành thạo, rồi chúng tôi cũng đi bộ về trên con đường dọc bờ sông. Cảm giác ngượng ngùng trước người lạ mặt mọi khi chợt tan biến, tôi huyên thuyên với Osamu đủ thứ chuyện trên đời, nào là chuyện bà cụ, nào là chuyện cô Sasaki quẳng đồ ăn cho lũ mèo hoang… Osamu vừa nghe vừa cười khúc khích, những lúc tôi ngập ngừng không biết nói gì, anh ấy lại hỏi chêm vào những câu gợi chuyện.
“Khi nào xong cà ri em đến ăn nhé!”
Osamu mời tôi lúc ở lối đi của khu căn hộ cho thuê. Tôi muốn nói: “Vâng, em sẽ đến! nhưng lại thôi. Không xin phép mẹ trước mà đã đồng ý là hư, tôi nghĩ.
“Thế tối nay đi nhà thờ nhé!”
“Nhà thờ á”
“Thánh lễ Misa đêm Giáng sinh mà.”
Không phải tôi không biết đó là đêm Giáng Sinh. Nhưng khi thấy những người bận đồ ông già Noel đi phát tờ rơi quảng cáo đại hạ giá, tôi đâm ra bối rối. Vì trong lòng tôi, ông già Noel chính là bố.
Bố mất có nghĩa là từ năm nay trở đi sẽ không ăn mừng Giáng sinh nữa, tôi cứ đinh ninh như vậy, nhưng hôm đó mẹ mua về cho tôi một cái bánh kem có dâu tây ở trên. Tôi cắt hai miếng đặt lên đĩa rồi sang gõ cửa căn hộ bên cạnh. Trong phòng, bác Nishioka và anh Osamu ngồi đối diện nhau trước cái bàn gấp be bé đang cùng ăn cà ri.
Bác Nishioka nói cảm ơn lúc nhận bánh rồi hỏi tôi:
“Chiaki đã hỏi mẹ chưa? Cháu có được đến nhà thờ không?”
“Mẹ cháu cũng đi cùng được không bác?”
“Dĩ nhiên là được rồi, đi chứ đi chứ.”
Osamu nhìn tôi, tay vẫn cầm thìa cà ri và mỉm cười. Cà ri ngon thật là ngon, tôi nghĩ.
“Thế Chiaki về ngủ một chút đi. Sẽ phải thức đến khuya đấy cháu ạ.”
Bác Nishioka bảo vậy nhưng tôi nằm thế nào cũng không ngủ được vì trong lòng cứ háo hức mãi về chuyện ra ngoài lúc nửa“Mẹ ơi, vừa nãy nhé, bác Nishioka với anh Osamu ăn cà ri đấy.”
“Thế à.”
“Trông như cắm trại ấy mẹ ạ.”
“Cắm trại á?”
“Vâng, hai người họ im lặng ngồi ăn, mà chỉ ăn mỗi cà ri thôi.”
“Chiaki!”
“Dạ?”
“Không được nhìn chằm chằm lúc người khác đang ăn!”
“Vâng, con biết rồi. Mẹ ơi, thật đấy, trông giống như cắm trại ấy.”
“Ừ ừ.”
Lúc đó, tôi muốn nói rằng tôi rất thích cảnh anh Osamu và bác Nishioka ngồi ăn nhưng ngoài việc so sánh “giống như cắm trại” ấy tôi chẳng tìm được cách nói nào hay hơn. Tôi mới chỉ được thấy cảnh cắm trại đôi lần trên phim truyền hình mà thôi. Giữa bóng đêm, ngọn lửa liu riu cháy, vài người lặng lẽ ngồi dùng một món ăn nhẹ còn âm ấm, tiếng chim đêm, bầu trời đầy sao sáng… Chợt tôi nhớ ra, khi đó tôi chẳng hề nghe thấy giọng kể chuyện cười từ cát xét của bác Nishioka.
Khuya hôm đó, chúng tôi rời trang viên Cây Dương. Bầu trời đêm quang đãng, những ngôi sao trên cao tỏa sáng lung linh trông như mắt của những loài sinh vật sống. Mẹ mặc cho tôi áo len dày, áo khoác và quàng khăn quanh cổ, đội cả mũ len nữa, trông tôi chẳng khác nào một con thú bông căng phồng sắp bục cả ra.
“Bác Nishioka theo đạo à?”
Nghe mẹ hỏi vậy,bác Nishioka bối rối trả lời. “À không, tôi thì không.”
“Thằng bé nhà tôi đã nhận phép rửa tội. Mẹ nó theo đạo.”
Nói đoạn bác đặt lòng bàn tay của mình lên đầu Osamu.
“Cả tôi hồi ấy cũng bị đòi phải theo đạo. Trước khi kết hôn ấy. Nhưng chính ra tôi không theo lại hóa hay.”
“ao thế ạ?”
Bác Nishioka hẳn là rất ngạc nhiên khi mẹ thật thà hỏi: “Sao thế ạ?”
“Bởi vì, thì đấy, chẳng phải thế sao? Đạo Thiên Chúa không cho ly… ly hôn mà.”
“À…”
“Miệng thì bắt người khác phải trở thành con chiên ngoan đạo, nhưng bản thân thì chẳng mấy chốc đã từ bỏ…”
Bác Nishioka như đang tự nói một mình, bác cười không ra tiếng rồi lại nói nhanh líu như mọi khi: “Thôi, đó là chuyện xưa lắm rồi.”
Nhà thờ ở trên đỉnh đồi đối diện khu mua sắm, muốn đến được đó phải đi qua con đường men theo bờ sông tới chỗ trạm cứu hỏa và đoạn đi lên khá dốc. Đứng từ trên đó nhìn lại sẽ thấy rất rõ những quầng sáng đèn nê ông quanh nhà ga hắt xuống dòng sông rộng lớn và đen đặc. Một con tàu điện nhỏ ních đầy người băng qua cây cầu bắc ngang dòng sông. Tôi kéo tay mẹ đang mơ hồ nhìn theo bóng con tàu.
Đó là một khu dân cư sang trọng hơn so với khu chúng tôi đang sống, những tòa nhà sau cánh cổng uy nghiêm đứng im lìm dưới bầu trời đêm. Cây sồi già vươn dài những cánh tay trùm khắp cả khu vườn nhà thờ, nơi nơi như chìm trong bóng tối, những khi cánh cổng gỗ dày mở ra, âm nhạc và ánh sáng ùa tối, cả mẹ và tôi đều há miệng ngỡ ngàng.
Không khí bên trong nhà thờ ấm áp, mọi người đang đứng hát đồng thanh. Anh Osamu nhúng tay vào một thứ trông như cái chậu bằng đá trắng, làm dấu chữ thập trước ngực rồi nhìn tôi hiệu bảo làm theo. Đầu ngón tay tôi chạm vào nước lạnh toát. Osamu cầm tay và chỉ cho tôi cách làm dấu chữ thập.
Căn phòng đầy ắp âm thanh: những khúc hát, tiếng đàn organ, và những lời nói có tiết tấu thanh thản lạ kỳ mà đức cha xướng lên. Với trần nhà cao, nhà thờ chẳng khác gì một chiếc hộp bánh bị lèn chặt tiếng vang. Trong chốc lát, rồi như mụ mị cả người, cứ lặp đi lặp lại các động tác giống mọi người, hết đứng lên lại quỳ gối và ngồi xuống, rồi chẳng biếng từ lúc nào hai mắt đóng dính vào dấu chữ thập ngay trước mặt.
“Ai kia hả anh?”
Tôi thầm hỏi Osamu.
“Đó là Chúa Jesus
Hơi thở của Osamu có mùi kem đánh răng.
“Sao ông ấy không mặc gì?”
Osamu chỉ khẽ nghiêng đầu.
“Ông ấy chết rồi hả anh?”
“Ừ, cũng gần như vậy.”
“Sao lại chết?”
“Để cứu loài người.”
Đúng lúc ấy, tiếng đàn organ vang lên và mọi người lại bắt đầu hát. Với vẻ mặt rất mực trang nghiêm, Osamu hát bằng giọng cao nhưng hơi khàn giống như khi nói chuyện. Bác Nishioka nhìn chăm chú vào quyển thánh ca có bia da màu đen, miệng khẽ mấp máy. Tôi ngước lên nhìn mẹ, mắt mẹ ươn ướt như người say.
Tôi thấy thương cái người được gọi là Chúa Jesus, thân hình ông ấy gầy gò và khuôn mặt trông đau khổ làm sao. Bị mọi người nhìn vào trong bộ dạng không mặc gì như thế thì làm sao mà thoải mái cho được. Thế rồi bỗng nhiên, tôi lại nhớ tới câu chuyện về chú thỏ mà bố đã kể. Chú thỏ ấy tình nguyện chết để cứu một vị thần đóng giả làm một người đói khát, còn anh Osamu bảo cái người tên là Chúa Jesus kia đã chết để cứu cả loài người. Phải chăng bất kỳ ai đó chết đi cũng là vì người khác, vì điều gì đó…? Vậy bố tôi chết vì điều gì? Vì một người đói khát ư? Vì loài người ư? Vì mẹ? Hay vì tôi?
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.