Lá bài thứ XII
CHƯƠNG 5
Sau hai mươi lăm phút dài như vô tận, Sachs và Sellito về đến văn phòng của Rhyme, đi theo là một cảnh sát tuần tra trẻ, tóc vàng tên là Pulaski.
Sellito giải thích rằng anh ta đã yêu cầu chàng trai trẻ mang bằng chứng về cho Rhyme và làm cộng tác cho cuộc điều tra. Rõ ràng là một tân binh, anh ta có chữ “hăng hái” trên cái trán nhẵn thín của mình. Anh ta hẳn là đã được nói vắn tắt về tình trạng của nhà tội phạm học, thành ra đã lờ đi một cách thái quá sự thật là Rhyme bị liệt. Rhyme ghét những phản ứng giả tạo như vậy. Anh cảm thấy thích cái cách xử sự thẳng đuột của Lakeesha hơn.
Chỉ là, bạn biết đấy, chán chết…
Hai viên thanh tra cảnh sát chào những cô bé.
Pulaski nhìn chúng một lượt đầy cảm thông và hỏi thăm bằng một giọng đầy thân thiện với lũ trẻ. Rhyme thấy được vết hằn của chiếc nhẫn cưới trên ngón tay anh ta và suy đoán một cuộc hôn nhân từ thời học sinh trung học; chỉ khi đã có con của riêng mình thì mới có ánh mắt nhìn như vậy.
Lakeesha đáp lại câu hỏi: “Phá phách là kiểu của tôi. Thật khó chịu… Một vài kẻ khốn nạn gây lộn với cô bạn của tôi. Anh nghĩ sao chứ?”.
Geneva thì nói cô vẫn ổn.
“Cô biết là cháu đang ở cùng một người họ hàng, đúng không?”, Sachs hỏi.
“Bác của cháu, ông ấy sẽ ở nhà cháu đến khi bố mẹ cháu trở về từ London.”
Rhyme bất chợt nhìn vào Lon Sellito. Có gì đó không đúng. Anh ta đã thay đổi một cách đáng kinh ngạc trong hai tiếng qua. Thái độ vui vẻ đã biến mất. Đôi mắt anh ta ánh lên nỗi sợ hãi và có vẻ bồn chồn. Rhyme cũng để ý thấy những ngón tay của anh ta liên tục chà vào cùng một vị trí trên má. Anh ta đã chà xát nó đến nỗi đỏ ửng lên.
“Bị mấy viên đạn làm giật mình à?”, Rhyme hỏi, nhớ lại rằng viên cảnh sát này đã đứng ngay cạnh người thủ thư khi hung thủ bắn ông ấy. Có lẽ Sellito đã bị một mảnh vỡ của viên đạn văng vào hoặc có thể là một mẩu đá nếu như viên đạn đi xuyên qua người Barry và bắn trúng vào tòa nhà.
“Gì cơ?” Sellito chợt nhận ra mình đã chà ngón tay lên da và buông tay xuống. Anh nói bằng một giọng nhỏ, để cho những cô bé không nghe thấy: “Tôi đã ở khá gần nạn nhân. Bị một chút máu văng vào người. Chỉ có thế thôi. Chứ không sao cả.”
Nhưng chỉ một chút xíu sau đó anh lại vô thức đưa tay lên cọ má mình.
Điệu bộ đó khiến Rhyme liên tưởng đến Sachs, bởi cô có thói quen gãi đầu và nhay nhay móng tay mình. Sự thôi thúc bất chợt, bằng một cách nào đó liên quan tới nỗ lực, khát vọng của cô, sự xáo động không thể định nghĩa được bên trong hầu hết những người cảnh sát. Các cảnh sát thường làm tổn thương chính mình theo hàng trăm cách khác nhau. Và sự nguy hại thì có từ những hành động nhỏ như kiểu của Sachs, cho đến những trường hợp phá hỏng hạnh phúc gia đình và tâm hồn của những đứa trẻ với những từ ngữ tàn nhẫn, cho đến những việc như ngậm miệng quanh cái nòng sặc mùi khói của chính khẩu súng mình được phát. Dù sao thì anh chưa bao giờ thấy một điều như thế này ở Lon Sellito.
Geneva hỏi Sachs: “Không có nhầm lẫn gì hả cô?”.
“Nhầm lẫn?”
“Về tiến sĩ Barry.”
“Cô rất tiếc, không. Ông ấy chết rồi.”
Cô bé đứng im bất động. Rhyme có thể cảm thấy nỗi đau của lúc này.
Và cả sự tức giận nữa. Đôi mắt của cô bé là hai chấm đen đầy giận dữ. Rồi cô nhìn vào đồng hồ của mình, nói với Rhyme: “Những bài kiểm tra mà cháu nói đến thì sao?”.
“Ừm, hãy trả lời một số câu hỏi trước rồi chúng ta sẽ xem xét điều đó sau, Sachs?”
Với những vật chứng đã được bày ra trên chiếc bàn khám nghiệm và một bản bảo đảm tính pháp lý cho các bằng chứng đã được hoàn thành, Sachs kéo ghế xuống ngồi cạnh Rhyme và bắt đầu phỏng vấn hai cô bé. Cô hỏi Geneva chính xác những gì đã xảy ra. Cô bé giải thích rằng mình đang tìm một bài báo trong một tạp chí cũ khi hắn bước vào thư viện. Cô đã nghe thấy những tiếng chân ngập ngừng chậm rãi. Rồi một tiếng cười. Tiếng của người đàn ông kết thúc cuộc hội thoại và tiếng gập của một chiếc điện thoại.
Cô bé nheo mắt. “À, những gì cô chú có thể làm là kiểm tra tất cả các công ty viễn thông trong thành phố. Để xem những ai đang nói chuyện điện thoại lúc đó.” Rhyme đáp lại bằng một tiếng cười. “Đó là một ý kiến hay. Nhưng thực tế là ở bất cứ một thời điểm xác định nào tại Manhattan có khoảng năm mươi ngàn cuộc gọi được thực hiện hoặc đang được kết nối. Bên cạnh đó, chú không dám chắc rằng liệu có phải hắn đang gọi điện hay không.”
“Ý chú là hắn giả vờ á? Làm sao chú biết được điều đó?” Lakeesha hỏi, lén lút nhét hai thanh kẹo cao su vào miệng.
“Chú không biết điều đó. Chú nghi ngờ điều đó. Cũng như tiếng cười. Có nhiều khả năng hắn làm vậy để khiến Geneva mất cảnh giác. Ta sẽ thường không để ý đến những người đang nói chuyện điện thoại. Và hiếm khi ta nghĩ rằng đó sẽ là một mối đe dọa.”
Geneva gật gật đầu. “Vâng. Đúng thế! Lúc đầu cháu đã cảm thấy sợ hãi khi hắn bước vào thư viện. Nhưng khi cháu nghe tiếng hắn nói chuyện điện thoại, thế là, cháu đã nghĩ thật bất lịch sự khi nói chuyện điện thoại ở trong thư viện nhưng cháu cũng không cảm thấy sợ hãi nữa.”
“Rồi sau đó chuyện gì xảy ra?”, Sachs hỏi.
Cô bé giải thích rằng mình đã nghe thấy tiếng “cách” thứ hai – và nghĩ rằng âm thanh ấy nghe giống như tiếng một khẩu súng – rồi cô nhìn thấy một người đàn ông đội mũ trùm kín mặt. Cô bé sau đó kể lại việc mình đã tháo quần áo của một ma nơ canh và mặc cho nó áo và mũ của mình như thế nào.
“Tuyệt!”, Lakeesha chìa tay ra một cách tự hào. “Người chị em của cháu ở đây, thật là quá thông minh!”
Cô bé chắc chắn là như vậy, Rhyme nghĩ trong đầu.
“Cháu đã trốn trong những chồng sách cho đến khi hắn tiến lại chiếc máy đọc vi phim và rồi chạy về phía cửa thoát hiểm.”
“Cháu không nhìn thấy gì nữa về hắn à?”, Sachs hỏi.
“Không.”
“Chiếc mũ trùm màu gì?”
“Tối màu. Cháu không biết chính xác nữa.”
“Còn quần áo thì sao?”
“Thực sự cháu không nhìn thấy gì khác nữa. Cháu không nhớ những điều đó. Cháu đã khá là sợ hãi.”
“Cô biết cháu đã sợ.” Sachs nói. “Khi cháu đang nấp ở sau những giá sách, cháu có quan sát hướng đi của hắn không? Để có thể biết khi nào thì bỏ chạy?”
Geneva cau mày một chút. “À, vâng, đúng thế. Cháu đã quan sát hắn. Cháu quên mất điều đó. Cháu quan sát qua gầm kệ sách để có thể chạy khi hắn đến gần ghế cháu ngồi.”
“Vậy có thể cháu sẽ nhìn thấy gì khác nữa ở hắn?”
“À, cô biết đấy, cháu có. Cháu nghĩ rằng hắn đi đôi giày màu nâu. Đúng rồi, màu nâu. Nâu sáng, chứ không phải đậm tối.”
“Được rồi. Còn quần thì sao?”
“Tối màu. Cháu khá chắc chắn. Nhưng đó là tất cả những gì cháu có thể thấy, chỉ gấu quần mà thôi.”
“Cháu có ngửi thấy mùi gì không?”
“Không… Khoan đã. Hình như là cháu có. Một mùi gì đó ngọt, giống như những bông hoa.”
“Và…?”
“Hắn bước tới cái ghế và cháu nghe thấy một tiếng nứt rồi vài tiếng động ầm ầm nữa. Có cái gì đó bị đập nát.”
“Chiếc máy đọc vi phim”, Sachs giải thích. “Hắn đã đập nát nó.”
“Sau đó cháu cố hết sức chạy thật nhanh, về phía cửa thoát hiểm. Cháu chạy xuống cầu thang và khi ra tới phố gặp Keesh và chúng cháu bắt đầu chạy tiếp. Nhưng cháu nghĩ rằng có thể hắn sẽ tiếp tục làm hại một ai đó khác. Do đó, cháu quay lại và…”, cô bé nhìn về phía Pulaski, “Bọn em nhìn thấy anh”.
Sachs hỏi Lakeesha: “Cháu có nhìn thấy kẻ tấn công không?”.
“Chẳng có gì cả. Cháu chỉ đang đứng chơi và rồi Gen đến, chạy rất nhanh và lôi tha lôi thôi, chú hiểu cháu nói gì không? Cháu chả nhìn thấy gì cả.”
Rhyme hỏi Sellito: “Hung thủ giết Barry bởi ông ấy là một nhân chứng – vậy ông ấy thấy gì?”
“Ông ấy nói không thấy điều gì khác thường, ông ấy đưa cho tôi danh sách tên những nhân viên nam da trắng của thư viện trong trường hợp hung thủ là một trong số họ. Có hai người nhưng họ đã được kiểm tra và có chứng cứ ngoại phạm. Một người thì đang đưa con gái đến trường và một người thì ở văn phòng chính có mọi người xung quanh, vào thời điểm vụ việc xảy ra.”
“Vậy thì hung thủ là một kẻ cơ hội”, Sachs trầm ngâm. “Nhìn thấy cô bé đi vào và rình rập đằng sau.”
“Bảo tàng?” Rhyme nói: “Một sự lựa chọn kỳ cục”.
Sellito hỏi hai cô gái: “Các cháu có thấy ai đi theo mình ngày hôm nay không?”.
Lakeesha trả lời: “Chúng cháu xuống từ trên tàu C trong giờ cao điểm. Tuyến Đại lộ 8… đông đúc và bẩn thỉu. Chẳng thấy ai có biểu hiện kỳ lạ hết. Cậu thì sao?”.
Geneva lắc lắc đầu.
“Thế còn bây giờ thì sao? Có ai đang quấy rối, có thù hằn gì với cháu không? Đánh cháu chẳng hạn?”
Cả hai cô bé chẳng nghĩ được một ai có vẻ như là mối đe dọa với họ. Ngượng ngùng, Geneva nói: “Không có nhiều người theo đuổi xung quanh cháu. Họ phải rình rập những cô gái trông thu hút hơn. Nuột hơn”.
“Nuột?”
“Ý của cậu ấy là xinh xắn, gợi cảm”, Lakeesha giải thích, người rõ ràng là hình mẫu điển hình cho những cô gái gợi cảm và xinh xắn. Cô cau mày và liếc nhìn Geneva. “Tại sao cậu phải lên đó, nhóc? Đừng nói những thứ vớ vẩn về mình đấy.”
Sachs nhìn về phía Rhyme, anh cau mày. “Anh nghĩ sao?”
“Có gì đó không đúng. Hãy xem qua một lượt chứng cứ thu thập được trong khi Geneva ở đây. Có thể sẽ có gì đó mà cô bé giải thích được.”
Cô bé lắc lắc đầu. “Còn bài kiểm tra thì sao?” Cô giơ chiếc đồng hồ lên.
“Sẽ không lâu đâu mà.” Rhyme nói.
Geneva nhìn bạn mình. “Cậu có thể đến phòng học.”
“Tớ sẽ ở lại đây với cậu. Tớ không thể ngồi hàng tiếng đồng hồ ở trong lớp với đống bài kiểm tra mà tâm trí thì lo lắng cho cậu và tất cả mọi việc.”
Geneva cười nhăn nhở. “Còn lâu, nhóc.” Cô hỏi Rhyme: “Chú không cần bạn ấy, đúng không ạ?”
Anh nhìn Sachs, cô đang lắc đầu. Sellito ghi lại địa chỉ và số điện thoại của cô bé. “Chúng tôi sẽ gọi cháu nếu như có gì cần hỏi.”
“Cháu vẫn qua các bài kiểm tra, cô bé.” Cô nói. “Quên nó đi và về nhà nghỉ ngơi.”
“Tớ sẽ gặp lại cậu ở trường.” Geneva nói một cách kiên quyết. “Cậu sẽ đến trường chứ?” Rồi nhướng mày. “Hứa chứ?”
Hai tiếng nhóp nhép kẹo cao su lớn. Thở dài một tiếng. “Hứa”. Lưỡng lự một chút tại cửa, cô bé quay lại, nói với Rhyme: “À, thưa chú, sẽ còn bao lâu nữa thì chú có thể bước ra khỏi cái xe lăn này?”
Không một ai nói gì để lấp đi cái phút đầy khó xử ấy. Khó xử với tất cả mọi người nhưng không với Rhyme, anh cho là như vậy.
“Có lẽ sẽ là một khoảng thời gian dài”, anh đáp lại cô gái.
“Ồ, thế thì thật khó chịu chết!”
“Ừ”, Rhyme nói. “Đôi lúc thật chán chết.”
Cô quay đầu bước về phía sảnh lớn, theo hướng cửa trước. Họ nghe thấy: “Chết tiệt, phải chú ý chứ, ông chú”. Tiếng cửa ngoài sập mạnh.
Mel Cooper bước vào phòng, quay lại nhìn cái chỗ mà anh suýt nữa bị đè bẹp bởi một cô gái trẻ nặng hơn anh đến hai mươi lăm kilogram. “Được thôi”, anh tự nói với mình. “Tôi không định hỏi.” Anh kéo chiếc áo khoác gió màu xanh lá cây ra và gật đầu chào mọi người.
Người đàn ông mảnh khảnh, hói đầu đã từng làm việc với vai trò một nhà khoa học hình sự pháp y cho Sở cảnh sát New York ở khu phía bắc một vài năm trước đây khi anh nói với Rhyme, lúc đó đang là chỉ huy đơn vị Khám nghiệm pháp y của Sở cảnh sát New York, một cách lịch sự nhã nhặn nhưng rất dứt khoát rằng, một trong những phân tích của anh là sai. Rhyme tôn trọng những người biết chỉ ra khuyết điểm hơn nhiều những kẻ nịnh bợ – tất nhiên, trong trường hợp họ nói đúng, như Cooper đã từng làm được. Rhyme ngay lập tức đã bắt đầu một chiến dịch để kéo anh ta về New York – một thử thách khó khăn mà cuối cùng anh cũng đã thành công.
Cooper sinh ra để làm một nhà khoa học nhưng quan trọng hơn cả là để làm một nhà khoa học pháp y, một ngành hoàn toàn khác biệt. Người ta thường nghĩ rằng “pháp y” liên quan tới công việc ở hiện trường vụ án, nhưng thực tế, từ này có nghĩa là mọi mặt của những vấn đề nóng bỏng gây trước tòa và luật pháp. Để là một nhà tội phạm học thành công ta phải dịch được những thông tin trần trụi thành một dạng thể mà nó hữu ích cho các công tố viên. Lấy ví dụ, việc xác định một cách đơn giản sự hiện diện của các vật chất có trong cây mã tiền ở một nơi được nghi ngờ là hiện trường vụ án vẫn là chưa đủ – các vật chất này đã được sử dụng rất nhiều trong các mục đích y tế vô hại như để chữa bệnh viêm tai. Một nhà khoa học pháp y thực sự như Mel Cooper có thể biết ngay lập tức được những vật chất như vậy sẽ tiết ra chất độc chết người strychine.
Cooper có vẻ bề ngoài của một con nghiện trò chơi máy tính. Anh sống với mẹ của mình, bà vẫn mặc những chiếc áo sơ mi kẻ ca rô rực rỡ và trông giống Woody Allen[1]. Vẻ bề ngoài lại đánh lừa tất cả. Người bạn gái từ bao lâu nay của Cooper là một cô gái tóc vàng cao và xinh đẹp dịu dàng. Họ có thể cùng nhau lướt qua sàn của một hội trường trên nền hợp xướng trong một cuộc thi khiêu vũ, mà trong đó họ thường là người chiến thắng. Mới đây nhất, họ đã tham gia cuộc thi bắn đĩa bay và cuộc thi nấu rượu vang nho (mà trong đó Cooper đã phải vận dụng một cách tỉ mỉ những nguyên tắc – nguyên lý hóa học và vật lý).
[1] Woody Allen: một diễn viên, đạo diễn, biên kịch nổi tiếng người Mỹ
Rhyme tóm tắt vụ án cho anh và họ quay sang làm việc với các chứng cứ. Rhyme nói: “Hãy nhìn vào cái gói.”
Trong khi đeo vào tay những chiếc găng cao su, Cooper nhìn về phía Sachs, cô đang chỉ ra những chiếc túi giấy có chứa gói đồ của hung thủ. Anh mở nó ra trên một tờ giấy lớn – để có thể tìm ra dấu vết xung quanh- và lấy ra những đồ vật trong đó. Đó là một cái túi nhựa mỏng. Không có logo cửa hàng nào được in lên đó, chỉ có một hình mặt cười màu vàng lớn. Người chuyên gia mở chiếc túi và dừng lại. Anh nói: “Tôi ngửi thấy mùi gì đó…”. Hít một hơi thật sâu. “Có mùi hoa. Cái gì thế?” Cooper đưa cái túi lên cho Rhyme và anh ngửi nó. Có mùi giống với mùi nước hoa, nhưng anh không thể nhận ra đó là mùi gì. “Geneva?”
“Dạ?”
“Có phải đây là mùi mà cháu đã ngửi thấy trên thư viện?”
Cô bé khịt khịt mũi. “Vâng. Đúng là nó.”
Sachs nói: “Hoa nhài. Tôi nghĩ đó là hương hoa nhài.”
“Trên bảng biểu đồ”, Rhyme nói.
“Bảng biểu đồ nào?”, Cooper hỏi, nhìn xung quanh.
Trong mỗi một vụ án của mình, Rhyme đều có một biểu đồ trên tấm bảng trắng ghi chép các bằng chứng được tìm thấy tại hiện trường và hồ sơ thông tin về các đối tượng. “Bước đầu tiên”, anh đề nghị. “Và chúng ta cần phải gọi hắn là gì đó. Một ai đó cho tôi một cái tên xem.”
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.