Lá bài thứ XII

CHƯƠNG 6



“Phân tích bằng máy sắc ký khí những chấm màu trắng ở đó.” Rhyme ra lệnh. “Chúng là cái quỷ gì thế nhỉ?”

Mel Cooper lấy ra một vài mẫu vật từ con lăn và đưa chúng qua hệ thống sắc ký khí, một công cụ có thể làm được cả một núi công việc cần thiết khó nhằn trong mọi phòng xét nghiệm pháp y. Nó phân tích các vật chứng chưa rõ thành các thành phần cấu tạo và sau đó xác định chúng. Mất mười lăm phút hoặc hơn để có kết quả phân tích, và trong khoảng thời gian chờ đợi ấy Cooper ghép những mảnh đạn mà các bác sĩ trong phòng cấp cứu đã lấy ra khỏi chân của người phụ nữ mà hung thủ đã bắn trúng. Sachs đã nói khẩu súng phải là một khẩu côn, không phải loại tự động, bởi nó không có các vỏ đạn đồng rơi ra ở hiện trường vụ nổ súng bên ngoài bảo tàng.

“Ồ, thật là kinh khủng”, Cooper nói với kinh ngạc, khi đang kiểm tra những mảnh vỡ với một chiếc nhíp. “Khẩu súng này loại nhỏ, sử dụng đạn 22 li. Nhưng đó là những viên đạn loại có ổ thuốc nổ lớn.”

“Tốt”, Rhyme nói. Anh tỏ vẻ vui mừng vì phiên bản ổ thuốc nổ lớn đầy uy lực của loại đạn 22 ly với hạt kích nổ ở vành chân là một loại đạn khá hiếm và do đó sẽ dễ dàng hơn để lần tìm dấu vết. Trên thực tế, nếu đó là một khẩu côn thôi cũng vẫn là hiếm rồi. Điều đó có nghĩa là họ có khả năng tìm ra nhà sản xuất loại súng này một cách dễ dàng.

Sachs, vốn là một xạ thủ súng ngắn đầy tính hơn thua, thậm chí không cần phải truy tìm câu trả lời.

“Hãng sản xuất vũ khí Bắc Mỹ – North American Arms – là nhà sản xuất loại này duy nhất mà tôi biết. Có thể đó là mẫu Black Widow của họ, nhưng tôi sẽ đoán đó là mẫu Mini Master. Nó có nòng súng dài khoảng mười centimet. Như thế sẽ chính xác hơn và có thể tập trung các phát bắn khá sát nhau.”

Rhyme hỏi nhà khoa học hình sự, anh ta đang nghiền ngẫm trên chiếc bảng xét nghiệm: “Ý anh là sao khi nói ‘kinh khủng’?”.

“Hãy nhìn xem.”

Rhyme, Sachs và Sellito tiến lên phía trước. Cooper đang nhấn nhấn xung quanh những mẩu kim loại dính máu bằng chiếc nhíp. “Nhìn có vẻ như là hắn tự làm ra những thứ này.”

“Đạn nổ?”

“Không, hoàn toàn không hay. Có thể còn tồi tệ hơn. Cái vỏ ngoài của đầu đạn làm bằng chì mỏng, ở bên trong, được nhồi đầy những thứ này.”

Có đến nửa tá những chiếc kim nhỏ xíu, vào khoảng ba phần tám chiều dài của một inch[1]. Khi trúng mục tiêu, đầu đạn sẽ nổ và những chiếc kim này sẽ bắn tung tóe theo hình chữ V bên trong cơ thể. Dù những viên đạn nhỏ nhưng có thể tạo ra sức phá hoại lớn hơn nhiều với viên đạn nổ bình thường. Nó được thiết kế không phải để ngăn chặn kẻ tấn công hay để phòng thù, mục đích của nó chỉ đơn giản là để phá hoại những mạch máu, tế bào bên trong. Nếu như không có ảnh hưởng tê cứng mất cảm giác do tác động của một viên đạn cỡ lớn, những viên đạn này sẽ mang lại những vết thương đau đớn vô cùng.

[1] Một inch = 2.54cm

Lon Sellito lắc đầu, đôi mắt vẫn dán chặt vào những cái kim, và gãi nhẹ vệt máu vô hình trên mặt anh ta, hẳn là đang nghĩ tới việc anh ta suýt bị bắn trúng bởi một trong những viên đạn này. “Lạy Chúa”, anh ta lẩm bẩm. Tiếng nói vỡ ra và anh hắng giọng, cười để giấu nó, rồi đi ra khỏi chiếc bàn.

Một cách kỳ lạ, phản ứng của viên trung úy có nhiều vấn đề phiền phức hơn là phản ứng của cô bé. Geneva có vẻ như ít quan tâm tới những chi tiết về những phát súng khủng khiếp của kẻ tấn công cô. Cô lại nhìn vào đồng hồ của mình và ngồi thườn thượt một cách thiếu kiên nhẫn.

Cooper quét mảnh lớn nhất của viên đạn và chạy những thông tin về loại đạn này thông qua Hệ thống nhận dạng đạn đạo tích hợp (IBIS), hệ thống có gần một ngàn sở cảnh sát trên khắp đất nước đăng ký, cũng như hệ thống DRUGFIRE của FBI. Những cơ sở dữ liệu khổng lồ này có thể ghép một viên đạn, những mảnh vỡ hoặc những vỏ đạn bằng đồng với những viên đạn hoặc vũ khí đã có trong dữ liệu. Ví dụ như, khẩu súng được tìm thấy ở kẻ tình nghi ngày hôm nay, có thể nhanh chóng được tìm ra khớp với một viên đạn được ghép lại từ một nạn nhân năm năm trước đây.

Mặc dù kết quả trên những viên đạn này, không được khả quan lắm. Chính những chiếc kim trong viên đạn này được bẻ ra từ đuôi của những chiếc kim khâu, loại mà ta có thể mua ở bất cứ đâu. Không thể tìm được dấu vết.

“Không bao giờ dễ dàng, đúng không?”, Cooper lẩm bẩm. Theo hướng của Rhyme, anh cũng đã tìm kiếm thông tin về những người có đăng ký sở hữu súng loại Mini Master và khẩu Black Widow nhỏ hơn, với cỡ nòng 22 ly, đưa ra kết quả gần một ngàn người và không một ai trong số họ từng có hồ sơ phạm tội. Về mặt luật pháp, các cửa hàng không được yêu cầu lưu giữ thông tin của những người mua súng đạn và do đó, họ không bao giờ làm việc này. Lúc này đây thì, thứ vũ khí đó vẫn dẫn tới một ngõ cụt.

“Pulaski?”, Rhyme nói lớn. “Có được gì với con bọ rồi?”

“Cái xác – có phải đó là cách ngài gọi nó không? Ý ngài là thế phải không ạ?”

“Đúng, đúng, đúng. Có gì về nó?”

“Chưa có dữ liệu trùng. Chính xác thì một cái xác côn trùng có ý nghĩa gì?”

Rhyme không trả lời. Anh nhìn vào màn hình và nhìn thấy chàng trai trẻ mới đi được một đoạn nhỏ tới bộ Bọ cánh nửa trong dữ liệu về côn trùng. Anh ta vẫn còn cả một chặng đường dài phía trước. “Tiếp tục làm đi.”

Chiếc máy tính của máy sắc ký khí kêu một tiếng bíp; nó đã hoàn thành việc phân tích những đốm trắng, ở trên màn hình là một biểu đồ nhấp nhô, bên dưới là những khối chữ.

Cooper nghiêng về trước và nói: “Chúng ta có Curcumin[2], demethoxycurcumin[3], bis Demethoxycurcumin[4], một loại tinh dầu nguyên chất, acid amin, lizin[4] và tryptophan[4], theronine[4] và isoleucine[4], clorua, một loạt các loại protein có thể để lại dấu vết và một tỷ lệ lớn các tinh bột, dầu, các chất béo trung tính, natri, các glucid phức… Chưa bao giờ thấy hợp chất nào như thế này”.

[2] Một chất trong củ nghệ thuộc họ gừng.

[3] Một dẫn chất của Curcumin.

[4] Một loại acid amin.

Phương pháp sắc ký khí GC/MS[5] thực sự là một phép màu trong việc tách và nhận dạng vật chất, nhưng không cần thiết phải tuyệt đến mức nói cho ta biết những gì thêm vào đó. Rhyme thường có thể suy luận được những vật chất hay gặp, như xăng hay các chất nổ, chỉ dựa vào danh sách các thành phần của nó. Nhưng những thứ này thì lại mới đối với anh. Anh gõ đầu mình và bắt đầu xếp loại những chất này vào danh sách mà, là một nhà khoa học, anh biết rằng có thể và không thể được tìm thấy cùng nhau một cách logic. “Chất curcumin, những thành phần của nó và các gluxít phức rõ ràng là hợp với nhau.”

[5] Phương pháp phân tích sắc ký khí kết hợp với khối phổ – thường được dùng để định danh các chất chưa biết – giúp nhận biết chất nổ, chất cháy, ma túy,…

“Rõ ràng”, câu trả lời với một cái nhăn mặt của Amelia Sachs, người vẫn thường trốn lớp học Khoa học ở trường trung học để đi chơi trò đua xe siêu tốc.

“Chúng ta sẽ gọi nó là Nhóm chất số một. Rồi đến acid amin, các protein khác, tinh bột và chất béo tự nhiên – chúng cũng thường được tìm thấy với nhau. Chúng ta sẽ gọi nó là Nhóm chất số hai. Clorua..

“Chất độc, đúng không?” Pulaski hỏi.

“… và Natrium”, Rhyme lầm bẩm: “Gần như là giống với muối.” Một cái liếc nhìn sang chàng cảnh sát trẻ. “Chỉ nguy hiểm với những người có huyết áp cao. Hoặc nếu như cậu là một con ốc sên.”

Chàng trai trẻ quay trở lại với kho dữ liệu về côn trùng.

“Như vậy – với acid amin và tinh bột cộng với dầu – Tôi đang nghĩ Nhóm chất số hai là một loại thực phẩm, đồ ăn mặn. Lên mạng, Mel, và hãy tìm ra xem curcumin có trong cái thứ khỉ gì nào.”

Cooper làm điều đó. “Anh nói đúng. Đó là chất nhuộm có nguồn gốc tự nhiên được sử dụng trong sản xuất thực phẩm. Thường được tìm thấy có liên quan với những thứ nằm trong Nhóm chất số một. Các tinh dầu nguyên chất nữa.”

“Các loại thực phẩm thuộc loại nào?”

“Có hàng trăm thức ăn loại này.”

“Cho một vài ví dụ xem nào!”

Cooper bắt đầu đọc tên trên một danh sách dài lê thê. Nhưng Rhyme cắt ngang. “Khoan đã, bắp rang bơ có trong danh sách không?”

“Để xem nào… À, đúng thế.”

Rhyme quay sang và gọi Pulaski: “Cậu có thể dừng lại rồi.”

“Dừng lại?”

“Đó không phải một cái vỏ xác côn trùng. Nó là cái vỏ ngoài của hạt ngô.”

Muối, dầu và bắp rang. Đáng lẽ phải nghĩ ra nó ngay trước rồi. Chết tiệt.” Tuy nhiên, câu chửi thêm vào lại là một tiếng hân hoan. “Viết lên biểu đồ, Thom. Nghi phạm của chúng ta thích ăn đồ ăn vặt.”

“Tôi có nên viết điều đó lên không?”

“Tất nhiên là không. Hắn có thể ghét bắp rang. Có thể hắn làm việc cho một công ty bắp rang bơ hoặc một rạp chiếu phim. Chỉ cần thêm vào chữ “bắp rang”. Rhyme nhìn vào biểu đồ. “Giờ thì hãy lần theo những dấu vết khác nào. Những thứ có màu trắng ngà.” Cooper lại chạy thí nghiệm GC/MS một lần nữa. Kết quả chỉ ra rằng đó là đường mía và acid uric.

“Acid cô đặc”, anh ta nói. “Đường mía thì nguyên chất – không có thực phẩm nào khác – và cấu trúc kết tủa như pha lê rất độc đáo. Tôi chưa từng nhìn thấy nó bị nghiền nhỏ lại như thế này.”

Rhyme cảm thấy không hay với thông tin này. “Gửi nó tới những chuyên gia bom mìn của FBI.”

“Bom?”, Sellito hỏi.

Rhyme nói: “Chưa từng đọc sách của tôi à? Hừm.”

“Chưa”, viên thanh tra to béo đáp lại. “Tôi bận đi tóm cổ những kẻ xấu xa.”

“Chịu thua. Nhưng nó sẽ có ích nếu ít nhất nhìn vào cái tiêu đề lần này qua lần khác. Như trong quyển ‘Những thiết bị nổ tự tạo’. Đường thường là một thành phần trong đó. Trộn lẫn nó với Natrium Nitrate và ta sẽ có một quả bom khói. Với thuốc tím, đó là một trái bom nho nhỏ – nhưng vẫn có thể tạo ra sức phá hoại nếu như anh nhồi nó vào trong một cái ống. Tôi không biết chắc bằng cách nào mà mà acid uric xuất hiện, nhưng Cục điều tra liên bang FBI có cơ sở dữ liệu tốt nhất trên thế giới. Họ sẽ trả lời cho chúng ta.”

Phòng thí nghiệm của FBI sẵn sàng xử lý những vật chứng phân tích cho các sở cảnh sát bang và địa phương, mà không tính phí, điều kiện là các cơ quan yêu cầu đồng ý với hai điều: chấp nhận kết quả của FBI là kết luận cuối cùng và đưa nó cho luật sư của bị cáo thấy. Bởi vì sự hào phóng của Cục – và cả tài năng nữa – các nhân viên nhận được quá nhiều yêu cầu giúp đỡ; họ thực hiện hơn bảy trăm ngàn phân tích trong một năm.

Ngay cả một viên cảnh sát thuộc Sở cảnh sát New York cũng sẽ đứng xếp hàng như bao người khác để loại đường này được đưa vào phân tích. Nhưng Lincoln Rhyme thì có một tay trong – Fred Dellray, một đặc vụ thuộc văn phòng FBI Manhattan, thường làm việc với Rhyme và Sellito đồng thời có tầm ảnh hưởng rất lớn trong Cục. Một điều quan trọng không kém là sự thật rằng Rhyme đã giúp FBI thiết lập hệ thống PERT[6] của họ. Sellito gọi cho Dellray, người hiện đang làm việc cho lực lượng cảnh sát đặc nhiệm điều tra những báo cáo về các nguy cơ đánh bom khủng bố ở New York. Dellray gọi cho Sở chỉ huy FBI ở Washington D.C., và chỉ trong vài phút, chuyên gia kỹ thuật đã được triệu tập để giúp đỡ trong chuyên án Nghi phạm 109. Cooper gửi cho anh những kết quả của các phân tích và nén những bức ảnh kỹ thuật số của các bằng chứng thông qua một email an toàn.

[6] Hệ thống trung tâm xử lí bằng chứng thực.

Không quá mười phút trôi qua trước khi điện thoại reo lên.

“Lệnh, trả lời”, Rhyme mở hệ thống điều khiển nhận dạng giọng nói của mình lên.

“Thanh tra Rhyme…”

“Tôi nghe đây.”

“Tôi là chuyên gia xét nghiệm Phillips trên phố 9.” Phố 9 ở Washington, ý anh ta là như vậy. Sở chỉ huy FBI.

“Anh có gì cho chúng tôi nào?”, Rhyme hỏi một cách nhanh chóng.

“Và cảm ơn vì đã hồi đáp nhanh như vậy”, Sachs nói nhanh. Đôi khi cô phải xen vào bởi sự bất lịch sự của anh.

“Không vấn đề gì, thưa bà. Ừm, tôi đang nghĩ rằng nó khá là lạ, những gì mà các ngài gửi xuống. Bởi vậy tôi đã gửi chúng tới Trung tâm Phân tích chất liệu. Họ đã thực hiện thủ thuật phân tích. Theo như chất đó, chúng tôi có được kết quả chắc chắn đến 97%.”

Chất nổ này nguy hiểm tới mức nào? Rhyme tự hỏi. Anh nói: “Tiếp tục đi. Nó là cái gì vậy?”.

“Kẹo bông.”

Đó không phải là tên một phố mà anh biết. Nhưng có hàng đống loại chất nổ thế hệ mới có tốc độ kích nổ lên tới hơn chín cây số một giây, gấp mười lần vận tốc của một viên đạn. Liệu đây có phải là một trong số đó hay không? Anh hỏi: “Những đặc tính của nó là gì?”.

Dừng lại một chút. “Nó có vị dễ chịu.”

“Đó là gì?”

“Ngọt. Và dễ chịu.”

Rhyme hỏi: “Ý anh là nó là kẹo bông thực sự, giống như loại ta có thể mua ở chợ?”.

“Vâng, vậy ông nghĩ rằng tôi ám chỉ cái gì?”

“Không cần quan tâm đâu.” Thở dài, nhà tội phạm học hỏi: “Và cái acid uric là trên đôi giày của hắn khi hắn giẫm phải bãi nước đái của một con chó nào đó trên vỉa hè chăng?”

“Không thể trả lời được hắn giẫm vào ở đâu”, chuyên viên xét nghiệm nói, thể hiện sự chính xác cao mà Cục vốn nổi tiếng về điều đó. “Nhưng mẫu vật này có phản ứng dương tính dành cho xét nghiệm thử với nước đái chó.”

Anh cảm ơn người chuyên gia và ngắt máy. Rồi quay lại với đội phá án. “Bắp rang bơ và kẹo bông ở trên đôi giày của hắn cùng một lúc?” Rhyme trầm ngâm. “Nó đã dây vào hắn ở đâu được?”

“Một trận bóng?”

“Các đội New York chưa có trận sân nhà nào gần đây. Tôi đang nghĩ rằng có thể nghi phạm của chúng ta đi qua một khu gần nhà mà ở đó mới có hội chợ hay hội tiệc ngày hôm qua hoặc gì đó.” Anh hỏi Geneva: “Cháu có vừa đi vào một hội chợ nào không? Hắn có thể nào thấy cháu ở đó?”.

“Cháu á? Không. Cháu không hề tới hội chợ.” Rhyme nói với Pulaski: “Bởi cậu đã xong việc với những con bọ, Cảnh sát tuần tra, cậu hãy gọi bất cứ ai cậu cần và đi tìm từng giấy phép được cấp cho một hội chợ, đám tiệc, lễ hội, yến tiệc tôn giáo, bất cứ gì”.

“Tôi sẽ làm việc đó”, chàng cảnh sát trẻ nói.

“Chúng ta còn có những gì nữa?” Rhyme hỏi. “Những mảnh vụn từ tấm đựng vi phim trong chiếc máy đọc vi phim, những chỗ mà hắn ta đập bằng một vật cứng.”

“Mẩu vụn?”

“Những mẩu vernis nhỏ, tôi đoán vậy, từ bất cứ thứ gì đó mà hắn sử dụng.”

“Được rồi, kiểm tra chúng thông qua Maryland.” Cục điều tra Liên bang có một cơ sở dữ liệu khổng lồ về những mẫu sơn hiện tại và trước đây, được đặt ở một trong những cơ sở của Cục ở Maryland. Nơi này hầu như được dùng để khớp các vật chứng bằng màu sơn với những chiếc ôtô. Nhưng cũng có đến hàng trăm mẫu vernis. Sau một cuộc gọi khác từ Dellray, Cooper gửi phân tích thành phần cấu thành từ xét nghiệm GC/MS và các dữ liệu khác trên những mảnh vụn gỗ sơn tới Cục. Chỉ trong vòng vài phút, điện thoại đã đổ chuông, và chuyên gia xét nghiệm của FBI báo cáo rằng mẫu vernis khớp với một sản phẩm được bán riêng cho các nhà sản xuất thiết bị liên quan tới võ thuật, giống như côn và dùi cui. Anh thêm vào một thông tin không được vui vẻ lắm đó là cái chất màu đó không có bất kỳ dấu hiệu của nhà sản xuất nào và được bán ra với số lượng lớn – có nghĩa rằng nó hoàn toàn không để lại một dấu vết nào.

“Được rồi, chúng ta có một tên hiếp dâm với khẩu côn, những viên đạn khiếp đảm, một sợi dây thừng dính máu… gã này quả là một cơn ác mộng biết đi.”

Tiếng chuông cửa vang lên và chỉ lát sau Thom dẫn vào một người phụ nữ khoảng hai mươi tuổi, tay anh choàng quanh vai cô gái.

“Nhìn xem ai đây nào”, người phụ tá nói lớn.

Người phụ nữ mảnh khảnh có mái tóc ngắn màu tím dựng đứng và một khuôn mặt xinh xắn. Chiếc quần dài bó sát và cái áo len cho thấy một thân hình khỏe mạnh – trên thực tế, đó là thân hình của một diễn viên, Rhyme biết điều đó.

“Kara”, Rhyme nói. “Thật tốt được nhìn thấy cô. Tôi suy luận rằng cô chính là chuyên gia mà Sachs gọi đến.”

“Chào.” Người phụ nữ trẻ ôm choàng Sachs, chào những người khác và vòng tay quanh Rhyme. Sachs giới thiệu cô với Geneva, cô bé đang nhìn cô gái với một khuôn mặt e dè.

Kara (đó là một nghệ danh; cô sẽ không hé lộ tên thật của mình) là một nghệ sĩ ảo thuật và biểu diễn, người đã từng giúp Rhyme và Sachs với vai trò cố vấn trong một vụ giết người gần đây, trong đó tên giết người sử dụng những kỹ năng của hắn như là một ảo thuật gia và một nghệ sĩ với bàn tay ma thuật để tới gần nạn nhân, giết họ và biến mất.

Cô sống ở làng Greenwich, nhưng đang thăm mẹ tại một cơ sở chăm sóc y tế ngay khu ngoại ô thành phố khi Sachs gọi, cô giải thích. Họ mất một vài phút để trò chuyện – Kara đang kết hợp chuyến đi với một show diễn cho một Trung tâm biểu diễn ở Soho, và cô đang hẹn hò với một diễn viên xiếc nhào lộn – rồi Rhyme nói: “Chúng tôi cần những ý kiến chuyên môn.”

“Chắc chắn rồi”, cô gái trẻ đáp. “Bất cứ điều gì mà tôi có thể làm được.”

Sachs giải thích về vụ án. Cô cau mày và thì thầm “Tôi rất tiếc” với Geneva khi nghe kể về ý đồ đen tối của tên hung thủ.

Cô bé chỉ nhún vai một cái.

“Hắn có thứ này”, Cooper nói, giơ lá bài tarot hình Người treo ngược từ trong gói đựng đồ gây án.

“Chúng tôi nghĩ rằng cô có thể nói cho chúng tôi biết đôi điều về nó.”


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.