Lá bài thứ XII
CHƯƠNG 9 (TIẾP)
Đêm nay, anh và đồng đội sẽ lại gặp nhau ở Galloxvs Heights, cuộc gặp diễn ra ở bên cạnh một tòa lâu đài đang bị vây hãm. Những ngày dài vô tận, và hành trình thì đầy mệt mỏi. Cuộc đời của anh bao gồm cả những thời khắc gay go gian khổ, đến rồi đi dưới sự che chở của màn đêm, và tránh cả những kẻ có thể làm hại mình, có quá nhiều người như vậy – và không chỉ những người nổi loạn cũ; cũng có rất nhiều người ở phương bắc có thái độ thù địch với sự nghiệp của chúng ta. Anh vẫn nhận được sự đe dọa thường xuyên, có những kẻ thì giấu mặt, kẻ thì trắng trợn.
Một cơn ác mộng khác đã dựng anh thức dậy sáng sớm hôm nay. Anh không nhớ nổi những hình ảnh quấy rầy giấc ngủ của mình, nhưng sau khi tỉnh lại, anh không thể nào quay trở lại giấc ngủ một cách thoải mái, ngon lành. Anh cứ nằm thao thức cho đến bình minh, suy nghĩ về những khó khăn biết bao nhiêu khi giữ bí mật này trong lòng mình. Bởi vậy anh khao khát được nói nó ra với thế giới, nhưng anh biết mình không thể. Anh không có một chút nghi ngờ về hậu quả là một tấn bi kịch khi chuyện này được tiết lộ.
Hãy thông cảm cho giọng điệu u sầu của anh. Anh nhớ em và con, và anh đang mệt mỏi khủng khiếp lắm rồi. Ngày mai có thể thấy sự tái sinh của hi vọng. Anh cầu nguyện cho điều đó xảy ra.
Yêu em Charles
Mùng 3 tháng 5 năm 1867
“Ừm”, Rhyme trầm ngâm, “ông ấy nói về bí mật. Nhưng nó là cái gì? Nhất định phải có liên quan đến những cuộc họp ấy ở trên Gallows Heights. ‘Quyền lợi của những người như chúng ta.’ Quyền dân sự hay là. Ông ấy cũng nhắc đến nó ở trong lá thư thứ nhất nữa… Gallows Heights là cái khỉ gió gì vậy?”.
Đôi mắt của anh liếc sang quân bài tarot Người treo ngược, treo lơ lửng trên cái giá treo cổ bằng bàn chân.
“Tôi sẽ tìm kiếm nó”, Cooper nói và lên mạng. Một lát sau anh nói: “Đó là một vùng lân cận Manhattan thế kỷ XIX, ở mạn phía tây, tập trung quanh đường Bloomingdale và phố 18. Bloomingdale đã thành Boulevard và rồi Broadway. Anh ngước mắt lên nhìn với đôi lông mày nhướng cao. Không quá xa chỗ này lắm”.
“Gallows với một dấu móc lửng à?”
“Không dấu móc lửng nào hết. Ít nhất trong tiêu đề tôi tìm thấy.”
“Còn gì nữa về nó không?”
Cooper nhìn một lượt, xem xét trang web lịch sử xã hội. “Một vài điều. Bản đồ của năm 1872”. Anh quay màn hình về phía Rhyme, Rhyme đang nhìn nó, nhận thấy rằng vùng lân cận ấy bao trùm cả một diện tích lớn. Có một vài khu bất động sản được sở hữu bởi những gia đình tài phiệt lâu đời ở New York cũng như hàng trăm những căn nhà và căn hộ nhỏ khác.
“Này, nhìn này, Lincoln”, Cooper nói, chỉ vào một phần bản đồ gần khu Central Park. “Đó là khu vực của anh. Chính là chỗ chúng ta hiện tại. Là một cái đầm lầy từ hồi ấy.”
“Thú vị đây”, Rhyme lẩm bẩm một cách châm chọc.
“Nguồn thông tin tham khảo duy nhất khác là câu chuyện trên tạp chí Times tháng trước về việc hiến tặng một kho lưu trữ ở tổ chức Sanford – đó là một căn biệt thự lớn và cổ kính trên phố 81.”
Rhyme nhớ lại về một toà nhà lớn có kiến trúc thời Victoria nằm bên cạnh khách sạn Sanford – theo phong cách Gothic, cổ kính như bị ma ám và gợi nhớ lại căn biệt thự Dakota, nơi mà John Lenon bị giết.
Cooper tiếp tục: “Người đứng đầu của tổ chức này, William Ashberry, đã có một bài phát biểu trong buổi lễ. Anh ta đã nhắc đến việc khu vực Upper West Side thay đổi như thế nào trong những năm qua từ khi nó được biết đến như là Gallows Heights. Nhưng đó là tất cả. Không có gì đặc biệt”.
Có quá nhiều điểm không liên quan đến nhau, Rhyme ngẫm nghĩ về điều đó. Rồi máy tính của Cooper lại kêu lên một lần nữa, báo hiệu một email mới. Ạnh ta đọc nó rồi nhìn về phía đội phá án. “Nghe này. Nó là thông tin về Tuần báo Minh họa dành cho người da màu. Người phụ trách thư viện của Đại học Booker T. Washington ở Philly mới gửi cho tôi. Thư viện từng có một bộ đầy đủ của tờ tạp chí trong cả nước.”
“Đã từng là sao?” Rhyme cáu kỉnh cắt ngang. “Thế quái nào là ‘đã từng’?”
“Tuần trước, một vụ hỏa hoạn đã phá hủy căn phòng chứa những tài liệu này.”
“Báo cáo về vụ phóng hỏa này nói gì?”, Sachs hỏi. “Không được coi là một vụ cố ý gây hỏa hoạn. Nó có vẻ như là do bóng đèn nổ, và bắt lửa vào vài tờ báo. Không có ai bị thương cả.”
“Chết tiệt, nếu đây không phải một vụ cố ý gây hỏa hoạn. Có ai đó làm điều này. Vậy thì người phụ trách này có gợi ý nào về nơi chúng ta có thể tìm…”
“Tôi đang định tiếp tục.”
“À, tiếp tục đi.”
“Ngôi trường có chính sách là quét chụp tất cả những gì họ có trong kho lưu trữ và lưu lại trên file PDF.”
“Có phải chúng ta đang đến gần tới một thông tin tốt không nhỉ, Mel? Hay là anh chỉ đùa cợt thôi đấy?” Cooper nhấn vào những chiếc nút khác. Anh ra hiệu về phía màn hình. “Nó đây – ngày 23 tháng 7 năm 1868, Tuần báo Minh họa dành cho người da màu.”
“Anh không nói. Nào, đọc cho mọi người nghe, Mel. Đầu tiên là: ông Singleton đó chết đuối trên sông Hudson đúng hay không?”
Cooper gõ phím và một khắc sau anh đẩy cặp kính lên sống mũi mình, nghiêng về phía trước và nói: “Đây rồi. Tiêu đề là: ‘Một nỗi nhục, ghi chép về tội lỗi của một kẻ đã từng là nô lệ – Charles Singleton, cựu binh Nội chiến, phản bội lại sự nghiệp của những người da đen chúng ta bằng một sự vụ đầy tai tiếng’”.
Tiếp tục với những dòng chữ, anh đọc:
Vào thứ Ba, ngày 14 tháng 7, lệnh bắt giữ Charles Singleton, một người từng là nô lệ, cựu binh của Chiến tranh Ly khai, được thông qua bởi tòa án New York, với lời buộc tội ông ta đã lấy trộm một lượng lớn vàng và tiền từ Quỹ giáo dục Quốc gia hỗ trợ những nô lệ tự do nằm trên phố 23 ở Manhattan, New York.
Ông Singleton đã trốn tránh mạng lưới truy bắt của cảnh sát trên khắp thành phố, và được cho là đã trốn thoát, có khả năng là về Pennsylvama, nơi chị gái vợ và gia đình bà ta sống.
Tuy nhiên, vào buổi sáng sớm thứ Năm ngày Mười sáu, ông ta đã bị phát hiện bởi một viên cảnh sát khi đang tìm đường chạy đến cầu tàu trên dòng sông Hudson.
Viên cảnh sát đã phát báo động và ông Singleton bỏ chạy. Cảnh sát đó đã đuổi theo.
Cuộc truy bắt nhanh chóng kéo theo hàng tá cảnh sát và những người công nhân, người nhặt rác Ireland đang thực hiện trách nhiệm công dân của mình là tóm lấy kẻ ăn trộm (với lời xúi giục bởi năm đồng vàng để ngăn kẻ xấu này lại). Hướng trốn chạy của ông ấy là xuyên qua những con hẻm tối tăm ngang dọc của khu ổ chuột bên sông.
Ở chỗ những bức tranh trên phố 23, ông Singleton trượt chân ngã. Một cảnh sát cưỡi ngựa ập đến và có vẻ như ông ta sẽ bị tóm lại. Ông đã lấy lại được thăng bằng và thay vì thú nhận tội lỗi của mình, như một người đàn ông dũng cảm sẽ làm, ông tiếp tục cuộc trốn chạy hèn nhát của mình.
Trong một thời gian ngắn, ông đã tránh được những kẻ truy bắt. Nhưng khoảnh khắc đó không kéo dài lâu. Một người giao hàng da đen trên mái hiên đã nhìn thấy người cựu nô lệ và cầu xin ông hãy dừng lại, nhân danh công lý, quả quyết rằng ông ta đã nghe tới hành động ngu ngốc của Singleton và quở trách ông vì đã gây ra nỗi ô nhục cho những người da màu trên khắp đất nước. Ngay sau đó một người dân, Walker Loakes, đã ném một hòn gạch về phía Singleton nhằm đánh ngã ông. Tuy nhiên, ông Singleton đã tránh được cú ném và hét lên khẳng định sự vô tội của mình, tiếp tục trốn chạy.
Người cựu nô lệ với thân thể cường tráng nhờ công việc lao động trong một vườn táo chạy nhanh như gió. Nhưng người đàn ông tên Loakes kia đã báo với một cảnh sát cưỡi ngựa về việc trông thấy người cựu nô lệ và, ở cầu tàu gần phố 88, gần trụ sở thuyền kéo, con đường trốn chạy của ông ẩy bị chặn lại bởi một đội cảnh sát cần mẫn. Ông ấy dừng lại ở đó, kiệt sức, dựa vào tấm bảng hiệu của công ty Vận chuyển Swiftsure. Ông ấy bị thúc giục yêu cầu đầu hàng bởi người chỉ huy cuộc rượt đuổi trong suốt hai ngày qua, Thám tử William P. Simms, người chĩa khẩu súng ngắn về phía tên trộm.
Tuy nhiên, vừa tìm kiếm một lối thoát liều mạng, vừa cố thuyết phục rằng những tội ác của mình là do bị vu oan và mong muốn kết thúc cuộc đời, ông Singleton, lưỡng lự một chút rồi nhảy xuống dòng sông, nói những lời mà không ai có thể nghe thấy được.
Rhyme ngắt lời: “Đó là đoạn mà Geneva đã đọc tới trước khi cô bé bị tấn công. Quên cuộc Nội chiến đi, Sachs. Đây mới là những gì chúng ta vẫn chưa rõ. Tiếp tục đi.”
Ông ấy biến mất dưới những con sóng và các nhân chứng thì chắc chắn rằng ông ấy đã bỏ mạng. Ba cảnh sát điều khiển một chiếc thuyền nhỏ từ một cầu tàu gần đó và chèo dọc theo những cầu tàu để xác định số phận của người đàn ông da đen.
Cuối cùng họ đã tìm thấy ông ấy, choáng váng sau cú nhảy, ôm chặt một mảnh gỗ trên sông và, với sự cảm động mà nhiều người cho rằng được sắp xếp, gọi tên vợ và con trai.
“Ít nhất thì ông ấy vẫn sống”, Sachs nói. “Geneva hẳn sẽ rất vui vì điều này.”
Ông ấy được một bác sĩ chăm sóc, bị mang đi và đưa ra phiên xét xử, được tổ chức vào một ngày thứ Ba. Ở tòa, ông ấy đã bị chứng thực là ăn trộm một số lượng lớn không thể tưởng tượng nổi gồm tiền và những đồng vàng trị giá tới ba mươi ngàn đô.
“Đó là điều mà tôi đang nghĩ’, Rhyme nói. “Rằng động cơ ở đây là số của cải bị mất. Trị giá hiện tại là bao nhiêu?”
Cooper đóng cửa sổ có bài báo về Charles Singleton trên máy tính và mở cửa sổ tìm kiếm trên mạng, nhấn những con số vào. Anh nhìn lên từ những tính toán của mình, “Hiện tại, nó sẽ trị giá khoảng tám trăm ngàn”.
Rhyme lẩm bẩm: “Không thể tưởng tượng được. Được rồi. Tiếp tục nào.”.
Cooper tiếp tục:
Một người gác cổng ở bên kia phố trụ sở của Quỹ nô lệ tự do đã nhìn thấy ông Singleton tìm đường vào văn phòng bằng cửa sau và rời đi hai mươi phút sau đó, mang theo hai chiếc túi lớn. Khi người quản lý của Quỹ đến cơ quan sau đó, theo lệnh triệu tập của cảnh sát, thì được cho biết chiếc két Exeter Strongbow đã bị phá vỡ bởi một chiếc búa và một thanh xà beng, thứ được nhận dạng là thuộc sở hữu của bị cáo, được tìm thấy ở gần tòa nhà sau đó.
Hơn nữa, bằng chứng cho thấy rằng, ông Singleton đã lấy lòng tin của mọi người, tại những buổi họp ở khu vực Gallows Heights, với những nhân vật có tiếng tăm như Charles Sumner, Thaddeus Stevens cùng với Frederick Douglass và con trai Lewis Douglass. Charles giả vờ góp sức cùng những người cao quý này trong việc xúc tiến đưa ra các quyền của những người da đen trước Quốc hội.
“À, những buổi họp mà Charles nhắc đến trong bức thư của ông ấy. Đó là về các quyền dân sự. Và đó hẳn phải là những đồng đội mà ông ấy nhắc đến. Nghe có vẻ là những nhân vật khá lớn nhỉ. Gì nữa?”
Tuy nhiên, động cơ của ông trong việc giúp đỡ những nhân vật quan trọng này, theo vị công tố viên có thẩm quyển, không phải là để cống hiến cho sự nghiệp của những người da đen, mà để tìm hiểu về Quỹ và những nơi cất giấu mà ông ta có thể ăn trộm được.
“Đó có phải là bí mật không?”, Sachs hỏi.
Tại phiên xét xử của mình, ông Singleton vẫn giữ im lặng trước những cáo buộc này, trừ việc đưa ra một vài lời chối tội chung chung và nói rằng ông ấy rất yêu vợ và con trai.
Đại úy Simms đã tìm ra phần lớn của cải bị lấy trộm. Người ta cho rằng Singleton đã bí mật cất giấu chỗ còn lại trị giá vài nghìn đô ở một nơi kín đáo và từ chối tiết lộ vị trí đó. Không có chút nào trong số tài sản còn sót này được tìm ra, trừ vài trăm đồng tiền vàng được phát hiện có trên người ông Singleton khi bị bắt.
“Vậy là có một giả thuyết về kho báu bị chôn giấu”, Rhyme lẩm bẩm. “Quá tệ. Tôi thích rồi đấy.”
Lời buộc tội được đưa ra nhanh chóng. Theo phán quyết, thẩm phán yêu cầu người cựu nô lệ trả lại phần còn lại của số tiền đã đánh cắp, tuy nhiên ông ấy vẫn từ chối không nói ra địa điểm của nó, vẫn khăng khăng khẳng định sự vô tội của mình và quả quyết rằng những đồng vàng được tìm thấy trên người là do đã được đặt vào đồ đạc sau khi ông bị bắt. Theo đó, vị thẩm phán với trí thông minh của mình đã ra lệnh rằng những gì thuộc về phạm nhân sẽ bị tịch thu và bán để bồi thường cho chỗ bị mất, và án phạt dành cho phạm nhân là phải ngồi tù năm năm.
Cooper ngẳng lên. “Đó là toàn bộ bài báo.”
“Tại sao một kẻ nào đó lại phải giết người chỉ để chôn giấu câu chuyện này?”, Sachs hỏi.
“Đúng, quả là một câu hỏi lớn…” Rhyme nhìn lên trần nhà. “Vậy chúng ta biết gì về Charles? Ông ấy là một thầy giáo và là một cựu binh Nội chiến, sở hữu và làm việc trên một trang trại ở khu phía bắc của bang, bị bắt và bị buộc tội ăn trộm, có một bí mật mà có thể dẫn tới những hậu quả bi thảm nếu như nó được biết đến, đi tới những buổi họp bí mật ở Gallows Heights, tham gia vào cuộc vận động dân quyền cũng như thân thiết với một vài chính trị gia lớn và những người hoạt động cho dân quyền lúc bấy giờ.”
Rhyme lăn chiếc xe tới gần màn hình máy tính, xem xét bài báo. Anh không thấy một sự liên quan nào giữa những sự kiện và Nghi phạm 109.
Điện thoại của Sellito kêu. Anh ta nghe một lúc. Lông mày nhướng lên. “Được rồi. Cảm ơn.” Anh ta ngắt máy và nhìn Rhyme. “Đây rồi!”
“‘Đây rồi’ là sao chứ?”, Rhyme hỏi.
Sellito nói: “Đội dò hỏi thông tin ở Little Italy – nửa dãy phố từ lễ hội Columbus Day – mới tìm ra một cửa hàng bán giảm giá trên phố Mulberry. Nhân viên bán hàng có nhớ ra một người đàn ông da trắng, tầm bốn mươi tuổi có mua tất cả những thứ được tìm thấy trong chiếc túi của hung thủ một vài ngày trước. Cô ấy nhớ ra hắn ta bởi chiếc mũ.”
“Hắn đội mũ?”
“Không, hắn mua một cái mũ. Một chiếc mũ trùm. Lý do cô ấy nhớ bởi vì hắn đã đội thử chiếc mũ và kéo nó trùm qua mặt. Cô ấy nhìn thấy điều đó qua gương an ninh và nghĩ rằng hắn chuẩn bị cướp cửa hàng. Nhưng rồi hắn tháo chiếc mũ ra, nhét nó vào giỏ với những thứ khác và trả tiền rồi đi.”
Hẳn đó chính là vật có giá 5,95 đô la bị thiếu mất trên tờ hóa đơn. Đeo thử chiếc mũ trùm để bảo đảm rằng nó có thể làm một chiếc mặt nạ. “Đó cũng có khả năng là vật hắn dùng để lau sạch các dấu tay của mình. Cô ấy có biết tên hắn không?”
“Không. Nhưng cô ấy có thể miêu tả hắn khá rõ.” Sachs nói: “Chúng ta sẽ thực hiện một bức tranh vi tính tái dựng chân dung và đưa nó cho mọi người”. Chộp lấy chiếc túi của mình, cô nhận ra viên thanh tra to lớn không đi cùng mình khi cô dừng lại ở cửa. Cô dừng lại. Nhìn ra sau. “Lon, anh có đi cùng không?” Sellito có vẻ như không nghe thấy. Cô nhắc lại câu hỏi và viên thanh tra chớp chớp mắt. Anh ta bỏ tay xuống khỏi chiếc má đã bị chà đỏ ửng. Và nhe răng cười. “Xin lỗi. Tất nhiên rồi. Đi tóm cổ thằng khốn này thôi.”
Bảng bằng chứng, hồ sơ vụ 109:
Hiện trường Bảo tàng Mỹ – Phi
+ Gói đồ hiếp dâm:
– Lá bài tarot, số mười hai trong bộ bài, Người treo ngược, có nghĩa là sự tìm kiếm tâm linh.
– Chiếc túi có hình mặt cười.
– Quá chung chung để lần tìm.
– Dao rọc giấy.
– Bao cao su Trojan.
– Băng dính.
– Dầu thơm mùi hoa nhài.
– Vật không xác định, giá 5,95 đô. Có khả năng là chiếc mũ trùm.
– Hóa đơn, cho thấy cửa hàng nằm ở thành phố New York, cửa hàng tạp hóa giảm giá hoặc một hàng dược phẩm.
– Nhiều khả năng được mua từ một cửa hàng trên phố Mulberry, Little Italy. Hung thủ được nhận dạng bởi nhân viên bán hàng.
+ Dấu tay:
– Nghi phạm đeo găng tay cao su.
– Dấu tay trên gói đồ thuộc về một người có bàn tay nhỏ, không có dữ liệu trong hệ thống IAFIS. Nhiều khả năng là của nhân viên bán hàng.
+ Dấu vết:
– Sợi thừng vải bông, một vài sợi có vết máu người. Từ dây để thắt cổ?
– Không có nhà sản xuất.
– Gửi tới CODIS.
– Không tìm thấy DNA trùng khớp ở CODIS.
+ Bỏng ngô và kẹo bông với những dấu vết nước đái chó:
– Liên hệ tới các hội chợ hay lễ hội trên phố? Kiểm tra cùng với Bộ phận Giao thông về các giấy phép gần đây. Các cảnh sát đi nắm bắt thông tin từ các hội chợ trên phố; theo từng thông tin mà bên Giao thông cung cấp.
– Xác nhận đó là lễ hội ở Little Italy.
+ Vũ khí:
– Dùi cui hoặc một chiếc côn.
– Khẩu súng có ổ thuốc lớn, hạt kích nổ vành, kiểu súng ngắn 22 ly, thuộc Quân đội Bắc Mỹ – loại – Black Widow hoặc Minimaster.
– Những viên đạn tự chế, đầu đạn chứa những chiếc kim. Không thấy dữ liệu trong IBIS hay DRUGFIRE.
+ Động cơ:
– Chưa chắc chắn. Hiếp dâm chỉ là động cơ giả.
– Động cơ thật sự có thể là để lấy đi tấm vi phim của bài báo trên tờ Tuần báo Minh họa dành cho người da màu ngày 23 tháng 7 năm 1868, và giết Geneva Settle vì cô quan tâm tới bài báo này bởi một lý do chưa biết. Bài báo viết về một người tổ tiên của Geneva tên là Charles Singleton (xem thông tin bên biểu đồ bên cạnh).
– Người thủ thư – nạn nhân bị giết báo rằng có một ai đó muốn được xem bài báo.
* Yêu cầu có được nhật ký cuộc gọi của người thủ thư để kiểm tra điều này.
* Không có manh mối nào.
+ Yêu cầu cần có thông tin từ những nhân viên thư viện hoặc với những người mong muốn được thấy câu chuyện.
+ Không có manh mối nào.
– Tìm kiếm bản copy của bài báo.
* Một vài nguồn báo cáo về một người đàn ông yêu cầu cùng một bài báo. Không manh mối nào được xác nhận. Phần lớn các ấn bản đều đã mất hoặc bị phá hủy. Xác định được vị trí một ấn bản. (Xem biểu đồ bên cạnh).
* Kết luận: Geneva Settle vẫn còn trong tình trạng nguy hiểm.
– Hồ sơ các vụ việc gửi tới VICAP và NCIC.
* Vụ giết người ở Amarillo, Texas, năm năm trước. Cũng có hiện trường được làm giả (làm như vụ giết người là nghi lễ tôn giáo, nhưng động cơ thật sự vẫn chưa được tìm ra).
* Vụ giết người ở Ohio, ba năm về trước. Cũng có hiện trường được làm giả (làm như đó là một vụ tấn công tình dục đồng giới, nhưng động cơ thật sự có lẽ là được thuê giết). Hồ sơ bị thất lạc.
Hồ sơ về Nghi phạm 109
+ Nam da trắng.
+ 1m8, gần 90kg.
+ Giọng trung.
+ Sử dụng điện thoại để tiếp cận nạn nhân.
+ Mang một chiếc giày Bass cỡ 11 màu nâu sáng, khoảng ba năm hoặc hơn. Bàn chân phải hơi hướng ra ngoài.
+ Mùi hoa nhài.
+ Quần tối màu.
+ Đeo mũ trùm, màu tối.
+ Sẽ nhắm vào những người vô tội để tạo cơ hội hạ gục nạn nhân và trốn thoát.
+ Nhiều khả năng là một kẻ giết thuê.
Hồ sơ về kẻ thuê Nghi phạm 109:
+ Chưa có thông tin gì lúc này.
Hồ sơ về Charles Singleton:
+ Cựu nô lệ, tổ tiên của Geneva Settle. Có gia đình, một con trai. Được ông chủ cho một vườn cây ở tiểu bang New York. Làm việc với vai trò một thầy giáo. Tham gia vào cuộc vận động vì dân quyền từ rất sớm.
+ Charles bị cho là đã thực hiện một vụ ăn trộm năm 1868, chủ đề của bài báo trong tấm vi phim bị lấy trộm.
+ Một cách gián tiếp có một bí mật chưa được hé lộ. Lo lắng rằng sẽ gây ra thảm kịch nếu bí mật bị hé lộ.
+ Tham gia vào các buổi họp bí mật ở Gallows Heights gần New York.
+ Dính líu tới những hoạt động mạo hiểm?
+ Vụ án, theo tờ Tuần báo Minh họa dành cho người da màu:
– Charles bị bắt bởi Thám tử William Simms vì ăn trộm một lượng lớn từ Quỹ Nô lệ tự do ở New York. Đột nhập vào két, nhân chứng nhìn thấy ông ta rời khỏi đó nhanh chóng. Dụng cụ dùng để gây án được tìm thấy ở gần đó. Phần lớn tiền đã không được tìm lại. Bị tuyên án năm năm tù. Không có thông tin gì về ông ấy sau khi bị tuyên án. Bị cho là tận dụng quan hệ với những nhà lãnh đạo trong cuộc vận động dân quyền thời gian đầu để tiếp cận Quỹ.
+ Thư của Charles:
– Bức thư thứ nhất, gửi tới vợ: về cuộc nổi dậy năm 1863, nhắc đến sự chống lại người da đen ở khắp tiểu bang New York, hành hình, đốt phá. Nguy cơ ảnh hưởng tới tài sản mà người da đen sở hữu.
– Bức thư thứ hai, tới vợ: Charles trong trận chiến ở Appromattox vào giai đoạn cuối cuộc Nội chiến.
– Bức thư thứ ba, tới vợ: Tham gia vào cuộc vận động quyền dân sự. Bị đe dọa vì công việc của mình. Đau khổ với bí mật.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.