Lá bài thứ XII
CHƯƠNG 27 (TIẾP)
Cô cảm thấy một luồng điện chạy dọc sống lưng, nhận ra rằng mình vừa gọi anh bằng tên riêng. Cả hai người họ đều chẳng ai mê tín nhưng có một quy tắc mà họ gắn vào: Đó sẽ là điềm gở nếu như dùng tên riêng của họ trong công việc.
Sự do dự cho thấy cả anh cũng đã nhận ra cô vừa phá vỡ quy tắc. Cuối cùng anh nói: “Tiếp tục đi”.
Sỏi và đất khô tiếp tục rớt xuống một bên của đường hầm và phủ xuống vai và cổ. Nớt xuống bộ Tyvek, làm âm thanh càng rõ. Cô bật lùi ra sau, cảm giác như bức tường đang sụp xuống. Thở dốc một hơi.
“Sachs? Em không sao chứ?”
Cô nhìn xung quanh. Không, bức tường vẫn đang đứng vững. “Em ổn.” Cô tiếp tục cạo đất bẩn ra khỏi cái bể nước bằng tường gạch tròn. Với cái cuốc chim, cô đào những mảng vữa rồi hỏi Rhyme: “Có ý tưởng nào khác về cái vật bên trong không?” Câu hỏi chỉ phần lớn nhằm vào cảm giác an tâm khi được nghe giọng anh.
Một khối cầu với cái đuôi.
“Chẳng có ý tưởng nào hết.”
Một cú đánh mạnh với cái cuốc. Một viên gạch rớt ra. Rồi hai. Đất chảy xuống từ bên trong cái giếng và phủ đầy đầu gối.
Khốn kiếp, tôi ghét điều này.
Nhiều gạch, nhiều cát, đá cuội và đất bẩn hơn. Cô dừng lại, rũ sạch cái đống nặng trịch đất đá khỏi đôi chân đang quỳ của mình và quay lại với nhiệm vụ.
“Em sao rồi?”, Rhyme hỏi.
“Kẹt ở đây”, cô nói một cách yếu đuối và lôi ra vài viên gạch nữa. Có cả đống gạch đã nằm rải rác xung quanh. Cô quay đầu, chiếu ánh sáng vào thứ nằm phía sau những viên gạch: Một bức tường đất đen xì, tro bụi, một vài mẩu than đá và những mảnh gỗ.
Cô bắt đầu đào vào bên trong cái lớp đất khô cứng và chặt chẽ bên trong cái giếng. Chả có gì gọi là kết dính với đống đất phải gió này, cô nghĩ, nhìn dòng màu nâu xốp chảy xuống, lấp lánh trong ánh sáng từ chiếc đèn trên mũ.
“Sachs”, Rhyme hét lên. “Dừng lại!”
Cô thở dốc. “Cái gì..?”
“Anh mới xem lại lịch sử vụ phóng hỏa một lần nữa. Người ta nói rằng có tiếng nổ ở tầng hầm của quán rượu. Lựu đạn thời bấy giờ có hình cầu và có dây dẫn nổ. Charles hẳn phải mang theo hai quả. Đó chính là khối cầu trong chiếc giếng! Em đang ở ngay sát quả mà đã không phát nổ. Quả bom này có thể dễ bị kích động như nitroglycerine. Đó chính là thứ mà con chó đã đánh hơi thấy, chất nổ! Ra khỏi đó nhanh lên.”
Cô ấn mạnh vào thành giếng để đẩy thân mình về phía chân.
Nhưng viên gạch mà cô dựa vào đột ngột long ra, khiến cô ngã ngửa và một trận mưa đất khô từ bên trong giếng tràn ra đường hầm. Đá, sỏi và đất bẩn chảy quanh, kẹt chặt chân cô và nhanh chóng trải lên ngực và mặt.
Cô hét lên, cố gắng vùng vẫy một cách liều mạng để nhổm dậy với chân mình. Nhưng cô không thể; cơn lũ đất đã tràn đến lấp đầy những cánh tay.
“Sa…”, cô nghe thấy tiếng Rhyme khi sợi dây tai nghe tuột ra khỏi chiếc điện đàm.
Nhiều đất hơn nữa chảy xuống tràn qua người, đông cứng và không bấu víu được dưới cái sức nặng đè bẹp tăng dần lên như nước lũ.
Rồi Sachs thét lên một lần nữa – khi cái khối cầu, được mang ra bởi dòng chảy của đất, rớt xuống từ cái lỗ hổng ở bức tường gạch và lăn xuống thân thể bất động.
Jax đã ra khỏi khu vực của gã.
Bỏ lại Harlem phía đằng sau, cả về địa lý lẫn trạng thái tinh thần. Bỏ lại đằng sau những khu đất trống đầy những chai Malt, bỏ lại sau lưng những vỉa hè trước các cửa hàng mà gã thường trú chân, những bức poster quảng cáo nhãn hiệu nước tẩy rửa Red Devil cũ sờn vì thời tiết, thứ mà những người đàn ông da đen sử dụng để kéo tóc thẳng ra ở thời đại Malcolm X; bỏ lại đằng sau những rapper tuổi mới lớn thích được nổi tiếng và những nhóm gõ trống bằng xô ở công viên Marcus Garvey, những gian hàng bán đồ chơi và dép xăng đan cùng những đồ phụ kiện lấp lánh với những cái móc treo tường vải kente. Bỏ lại phía sau tất cả những công trình xây dựng mới được tái thiết, bỏ lại đằng sau những chiếc xe buýt chạy tour.
Giờ gã đang ở một trong số ít những nơi mà mình chưa từng tàn phá với dòng chữ Jax 157, chưa bao giờ vẽ một hình bừa bãi. Một phần thanh lịch ở phía tây Central Park.
Nhìn chằm chằm vào tòa nhà mà lúc này Geneva Settle đang ở bên trong.
Sau sự việc xảy ra ở con hẻm, gần nhà cô bé trên phố 118, với Geneva và người đàn ông trên chiếc xe màu xám, Jax đã nhảy vào một chiếc taxi khác và đi theo những chiếc xe cảnh sát tới đây. Gã không biết nơi này để làm gì: hai chiếc xe cảnh sát ở phía trước, và từ trên cầu thang xuống vỉa hè là một đường dốc thoải, giống như họ làm cho những người đi xe lăn.
Đi khập khiễng, chậm rãi qua công viên, xem xét kỹ ngôi nhà từ bên ngoài. Con bé đang làm gì ở bên trong chứ? Gã cố gắng nhòm vào trong. Nhưng những chiếc rèm đã được thả xuống.
Một chiếc ô tô khác – chiếc Crown Vic, loại mà cảnh sát sử dụng rất nhiều – dừng lại và hai cảnh sát bước mang theo một cái va li rẻ tiền được dán băng dính và những hộp đựng sách. Hẳn là của Geneva, hắn đoán. Con bé sẽ chuyển sang sống ở đây.
Họ bảo vệ cô bé thậm chí còn vững chắc hơn, gã nghĩ và cảm thấy nản lòng.
Gã bước vào một bụi rậm để có được tầm nhìn tốt hơn khi cánh cửa mở, nhưng ngay lúc đó một chiếc xe cảnh sát khác đi qua, chậm rãi. Có vẻ như là tên cớm bên trong đang quan sát công viên cũng như các vỉa hè. Jax ghi nhớ số nhà, rồi quay đi và biến mất vào trong công viên. Gã hướng lên phía bắc, bước ngược về Harlem.
Cảm thấy khẩu súng nằm trong tất của mình, cảm thấy sự kéo giật lại của viên sĩ quan giám sát cách hai trăm dặm về phía bắc, người có thể đang nghĩ tới một chuyến viếng thăm bất ngờ tới căn hộ ở Buffalo của gã ngay lúc này, Jax vẫn nhớ câu hỏi mà Ralph – vị Pharaoh – đã hỏi: Liệu việc gã đang làm có đáng để mạo hiểm không?
Gã đang suy nghĩ về điều đó, khi quay về nhà.
Gã nghĩ: Liệu nó có đáng cho sự mạo hiểm hai mươi năm trước, bám vắt vẻo trên cái gờ sắt rộng 12cm của chiếc cầu vượt trên đại lộ Grand Central, chỉ để vẽ cái hình Jax 157 ở độ cao 9m bên trên dòng xe cộ với tốc độ sáu mươi dặm một giờ?
Liệu có đáng cho sự mạo hiểm sáu năm trước, nhét một viên đạn 12 ly vào trong khẩu súng và gí cái họng súng ấy vào mặt một người lái xe buýt có vũ khí, chỉ để lấy số tiền 50.000 hay 60.000 đô la? Đủ để giúp gã vượt qua khó khăn, đưa cuộc đời gã trở lại như ngày trước.
Và gã biết rằng, câu hỏi của Ralph không phải là một câu hỏi có chút ý nghĩa nào cả, bởi vì nó gợi ý rằng có một sự lựa chọn. Lúc ấy và bây giờ, đúng hay sai, không quan trọng. Alonzo “Jax” Jackson đang đi thẳng về phía trước. Nếu việc này thành công, gã có thể quay trở lại với cuộc sống đáng lẽ phải có ở Harlem, ngôi nhà của gã, nơi mà cả những người xấu và tốt đã tạo nên gã bây giờ – nơi mà chính gã đã góp phần hình thành, với hàng ngàn bình sơn xịt. Gã chỉ đơn giản đang làm điều đã phải làm.
Cẩn thận.
Trong nơi ẩn nấp ở Queens, Thompson Boyd đang đeo chiếc mặt nạ phòng chống khí độc và đôi găng tay dày. Hắn đang chậm rãi pha trộn acid và nước, rồi kiểm tra nồng độ.
Cẩn thận…
Đây chính là phần rắc rối phức tạp. Chắc chắn bột kali cyanide ở gần đó nguy hiểm rồi – đủ để giết ba mươi hoặc bốn mươi người – nhưng ở thể rắn thì nó tương đối ổn định. Giống như thứ mà hắn đặt vào trong chiếc xe cảnh sát, cái chất bột trắng ấy cần phải được pha trộn với acid sulfuric để tạo ra cái khí độc chết người (chất độc Zyklon-B bỉ ổi được sử dụng trong cơn mưa bởi Đức quốc xã để hủy diệt dân chúng).
Nhưng cái từ “nếu” to đùng ấy là acid sulfuric.
Nồng độ quá thấp sẽ tạo ra khí độc chậm, có thể tạo cơ hội cho những nạn nhân phát hiện ra mùi và chạy trốn. Nhưng acid quá mạnh – nồng độ quá 20% – sẽ khiến cho chất xyanua ấy phát nổ trước khi hòa tan, làm hỏng mục đích mong muốn về tác dụng chết người.
Thompson cần nồng độ càng gần với 20% càng tốt – với một lý do đơn giản: Địa điểm mà hắn chuẩn bị đặt thiết bị này – ngôi nhà nằm ở khu phía tây Central Park cổ kính mà Geneva Settle đang ở trong đó – nơi khó có khả năng kín gió. Sau khi biết được đó là nơi cô bé ẩn nấp, Thompson đã tiến hành việc quan sát ngôi nhà và phát hiện ra những cửa sổ chưa được bịt kín cũng như hệ thống điều hòa và lò sưởi đã cũ kỹ. Nó sẽ là một thử thách để biến cấu trúc to lớn thành một căn phòng chết chóc.
…con sẽ hiểu về thứ chúng ta đang làm ở đây. Nó giống như mọi thứ khác trong cuộc sống. Chẳng có cái gì là hoàn toàn đúng 100% cả. Chẳng có cái đi theo con đường mà nó phải…
Ngày hôm qua, hắn đã nói với ông chủ của hắn rằng lần tấn công tiếp theo vào Geneva sẽ thành công. Nhưng giờ thì hắn không chắc chắn về điều đó. Cảnh sát quá giỏi.
Chúng ta chỉ dựng lại và tiếp tục. Chúng ta không thể có cảm xúc về nó.
Chà, hắn không hề xúc động và day dứt. Nhưng hắn cần phải sử dụng những biện pháp quyết liệt – trên vài phương diện. Nếu như cái khí độc trong ngôi nhà ấy giết chết Geneva, tốt. Nhưng đó không phải mục tiêu chính của hắn. Hắn buộc phải hạ ít nhất vài người bên trong đó – những nhà điều tra đang tìm kiếm hắn và ông chủ của hắn. Giết họ, khiến họ hôn mê, gây ra những tổn thương trong não – điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là làm họ tiêu hao lực lượng.
Thompson kiểm tra nồng độ một lần nữa, và thay đổi một cách nhẹ nhàng, điều chế làm sao để không khí có thể thay đổi độ cân bằng pH. Đôi tay hắn hơi run, nên hắn bước lùi một chút để bình tâm lại.
Wsst…
Bài hát mà hắn bắt đầu thổi sáo là bài Stainvay to Heaven.
Thompson dựa ra sau và nghĩ về cách để nhét quả bom khí này vào bên trong ngôi nhà. Một vài ý tưởng xuất hiện – bao gồm cả một hay hai cách mà hắn khá chắc chắn rằng sẽ có hiệu quả. Hắn kiểm tra nồng độ của acid một lần nữa, thổi sáo một cách vô thức qua phần miệng của chiếc mặt nạ chống độc. Chiếc máy phân tích báo rằng nồng độ đạt 19,99394%.
Hoàn hảo.
Wsst…
Giai điệu mới nảy ra trong đầu hắn là Ode to Joy từ bản giao hưởng số chín của Beethoven.
Amelia Sachs đã không bị đè bẹp đến chết bởi đất thịt và đất sét cũng như không bị thổi bay xác vì quả mìn không ổn định từ thế kỷ XIX ấy.
Cô giờ đang đứng đây, đã tắm rửa và đóng bộ quần áo sạch sẽ, ở trong phòng thí nghiệm của Rhyme, xem xét cái vật đã lăn xuống từ cái giếng khô cạn vào vạt áo của mình một giờ trước đó.
Đó không phải là một quả bom cũ. Nhưng có một chút nghi vấn lúc này về việc nó đã bị bỏ lại trong giếng bởi Charles Singleton vào đêm ngày 15 tháng 7 năm 1868.
Chiếc xe lăn của Rhyme đang đứng ở trước chiếc bàn khám nghiệm bên cạnh Sachs, và họ đang nhìn ngó, xem xét bên trong cái hộp thu vật chứng bằng bìa các tông. Cooper ở đó với họ, đeo găng tay cao su.
“Chúng ta sẽ phải nói với Geneva”, Rhyme nói.
“Có cần thế không?”, Sachs nói một cách lưỡng lự. “Em không muốn.”
“Nói với cháu điều gì cơ?”
Sachs quay lại rất nhanh. Rhyme lùi lại khỏi chiếc bàn, lưỡng lự rồi nghĩ rằng: Khốn nạn. Cần phải cẩn thận hơn nữa.
Geneva Settle đứng ở thềm cửa.
“Các cô chú tìm ra điều gì đó về Charles trong căn hầm của quán rượu, phải không? Mọi người phát hiện ra rằng ông ấy thực sự đã lấy trộm tiền. Đó có phải là bí mật của ông ấy không, sau tất cả?”
Nhìn Sachs, rồi Rhyme nói: “Không, Geneva. Không phải. Chúng ta tìm ra việc khác cơ”. Hất đầu về phía cái hộp. “Đây. Nhìn đi.”
Cô bé bước tới gần hơn rồi dừng lại, chớp mắt, nhìn chằm chằm vào cái đầu lâu màu nâu của một người. Đó là thứ họ đã nhìn thấy trên bức ảnh sóng siêu âm, thứ đã lăn ra và chảy vào vạt áo của Sachs. Với sự giúp đỡ của Vegas, chú chó giống Briard của Gail Da người thanh tra đã khai quật được các mẩu xương còn lại. Những mẩu xương này – Sachs đã nghĩ rằng đó là những mẩu gỗ từ cái rương – là của một người đàn ông, Rhyme đã xác định. Cái xác rõ ràng đã bị nhét thẳng xuống giếng ở căn hầm của quán Potter’s Field ngay trước khi Charles châm lửa cho vụ hỏa hoạn. Việc ghi hình ảnh bằng sóng siêu âm đã chụp được đỉnh của chiếc sọ não và một cái xương sườn bên dưới nó, tạo ra dáng vẻ của một sợi dây dẫn cháy của một quả mìn.
Những cái xương nằm ở trong chiếc hộp thứ hai trên chiếc bàn khám nghiệm.
“Chúng ta khá chắc chắn rằng đó là người đàn ông mà Charles đã giết.”
“Không!”
“Và rồi ông ấy đốt cháy quán rượu để che giấu tội ác.”
“Chú không thể biết điều đó được.” Geneva ngắt lời.
“Chúng ta không. Nhưng đó là một suy luận hợp lý.” Rhyme giải thích: “Lá thư nói ông ấy đang trên đường tới Potter’s Field, mang theo khẩu côn Navy Colt. Đó là khẩu súng ngắn từ thời Nội chiến. Nó không giống như súng thời hiện đại, nạp một viên đạn vào phía sau của ổ đạn tròn. Ta phải nhét từ phía trước với một viên bi và thuốc nổ”.
Cô gật đầu. Đôi mắt nhìn vào những chiếc xương màu nâu đen và cái sọ não không mắt.
“Chúng ta đã tìm ra vài thông tin về súng giống như của ông ấy trong hồ sơ lưu trữ. Đó là một khẩu 36 ly nhưng phần lớn các chiến sĩ Nội chiến học cách sử dụng những viên bi cỡ 39. Nó to hơn một chút và nhét vào khít hơn. Khiến cho phát bắn chính xác hơn.”
Sachs nhấc một chiếc túi nhựa nhỏ lên. “Cái này nằm trong hộp sọ”. Bên trong là một đầu đạn hình tròn. “Đó là viên bi cỡ 39 được bắn ra từ một khẩu súng nòng cỡ 36 ly.”
“Nhưng điều đó không chứng minh cái gì cả.” Cô bé nhìn chằm chằm vào cái lỗ trên trán của chiếc sọ.
“Không”, Rhyme nói một cách nhẹ nhàng. “Nó gợi ý. Nhưng nó gợi ý một cách mạnh mẽ rằng Charles đã giết ông ta.”
“Ông ta là ai?” Geneva hỏi.
“Chúng ta không có ý tưởng nào hết. Nếu ông ta có bất cứ giấy tờ tùy thân nào trên người thì nó đã bị đốt cháy hoặc đã bị phân hủy cùng với quần áo rồi. Chúng ta tìm thấy viên đạn, một khẩu súng nhỏ ông ấy chắc hẳn đã mang theo, một vài đồng tiền vàng và chiếc nhẫn với từ… Đó là từ gì nhỉ Mel?”
“Winskinskie.” Anh giơ chiếc túi nhựa với chiếc nhẫn vàng bên trong. Bên trên chữ khắc là một bản lí lịch của một người da đỏ.
Cooper đã nhanh chóng tìm ra nghĩa của từ đó là “người gác cửa” hay “người giữ cửa” trong ngôn ngữ người da đỏ ở tiểu bang Delaware. Đây có thể là tên của người đàn ông đã chết này, mặc dù cấu trúc xương sọ cho thấy ông ta không phải một người Mỹ chính gốc. Rhyme cảm thấy rằng nó giống với kiểu khẩu hiệu của một hội kín, trường học hoặc một tổ chức và Cooper đã gửi email để nhờ một số nhà nhân chủng học và các chuyên gia về lịch sử để xem liệu họ có biết cái từ đó không.
“Charles không làm điều đó”, hậu duệ của ông ta nói với một giọng sụt sùi. “Ông ấy không thể giết hại một ai cả.”
“Viên đạn được bắn vào trước trán ông ấy”, Rhyme nói. “Không phải từ đằng sau. Và khẩu Derringer – khẩu súng mà Sachs tìm thấy trong giếng có thể thuộc về nạn nhân. Điều này gợi ý cho thấy phát đạn có thể là để tự vệ.”
Dù cho sự thật vẫn còn đó là Charles đã tự nguyện đi tới quán rượu với khẩu súng, ông ấy chắc cũng đã tiên liệu trước cuộc ẩu đả.
“Đáng lẽ ra cháu không bao giờ nên bắt đầu những điều này ngay từ đầu”, Geneva lầm bầm. “Thật là ngu ngốc. Cháu thậm chí không hề thích quá khứ. Nó thật là vô nghĩa. Cháu ghét nó.” Cô bé quay lưng và chạy vào hành lang, rồi lên tầng.
Sachs đi theo rồi trở lại vài phút sau đó. “Cô bé đang đọc sách. Nó nói muốn được ở một mình. Tôi nghĩ rằng nó sẽ ổn thôi.” Dù sao, giọng của cô vẫn không có vẻ nào là chắc chắn cả.
Rhyme xem xét những thông tin về hiện trường lâu đời nhất anh từng làm việc – một trăm bốn mươi năm. Tất cả mục đích của cuộc tìm kiếm là để tìm ra điều gì đó có thể đưa họ tới bất cứ kẻ nào có thể đã thuê Nghi phạm 109. Nhưng kết quả là gần như giết chết Sachs và làm Geneva thất vọng với thông tin rằng ông tổ của cô bé đã giết một người đàn ông khác.
Anh nhìn vào bản copy của lá bài Người treo ngược, nhìn chằm chằm một cách điềm tĩnh, bình thản trên chiếc bảng bằng chứng, chế nhạo sự thất bại của Rhyme.
Cooper nói: “Này, có gì đó đấy”. Anh đang nhìn vào màn hình máy tính của mình.
“Cái từ winskinskie ấy hả?”, Rhyme hỏi.
“Không. Nghe này. Câu trả lời cho cái chất huyền bí của chúng ta – cái mà Amelia tìm thấy ở nơi ẩn náu của hung thủ trên phố Elizabeth và gần nhà bà cô của Geneva. Cái chất lỏng ý.”
“Cuối cùng thì cũng có. Nó là cái quỷ gì vậy? Có phải độc chất toxin không?” Rhyme hỏi.
“Hung thủ của ta có đôi mắt khô và hay rát”, Cooper nói.
“Gì cơ?”
“Đó là Murine.”
“Thuốc nhỏ mắt á?”
“Đúng vậy. Thành phần giống hệt.”
“Được rồi. Thêm điều đó vào bảng”, Rhyme yêu cầu Thom. “Có thể chỉ là tạm thời thôi – bởi hắn đã phải làm việc với acid. Trong trường hợp này, thì có vẻ không có nhiều tác dụng. Nhưng nó có thể là bệnh kinh niên. Như thế thì tốt.”
Nhà tội phạm học thích những tên hung thủ mắc bệnh hoặc tật về thể chất. Rhyme có hẳn một chương riêng trong quyển sách về việc lần tìm dấu vết người khác thông qua đơn thuốc hoặc những loại thuốc được bán không cần đơn, những kim tiêm đã được sử dụng bị vứt bỏ, kính đeo mắt được chỉ định của bác sĩ, những dấu giày đặc trưng từ các nghi phạm có vấn đề về phẫu thuật chỉnh hình…
Đó là lúc điện thoại của Sachs đổ chuông. Cô nghe một lúc. “Được rồi. Tôi sẽ ở đó mười lăm phút nữa.” Nữ cảnh sát tắt máy, nhìn Rhyme. “Chà, chuyện này thú vị đây.”
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.