Lá bài thứ XII
CHƯƠNG 42
“Chúng tôi tìm thấy một bản vẽ về Gallows Heights trong những năm 1800 cho thấy có ba khu đất lớn được trồng cây. Một trong các khu đất ấy bao gồm tòa nhà này và vài dãy phố xung quanh. Bên kia con đường trước đây là một ngôi trường miễn phí dành cho người da đen. Phải chăng đó chính là ngôi trường mà ông ấy dạy? Và ở trên dòng sông Hudson…” Rhyme nhìn ra ngoài cửa sổ. “Ở ngay chỗ này, trên con phố 81, là một vũng tàu cạn và một xưởng đóng tàu. Có thể nào những người công nhân ở đó chính là những người mà Charles đã bán rượu táo?”
“Nhưng liệu khu đất có phải của ông ấy không? Có một cách đơn giản để tìm ra điều đó. Thom đã kiểm tra ở văn phòng lưu trữ Manhattan và tìm thấy giấy tờ, văn bản ghi chép từ ông chủ của Charles cho ông ấy. Đúng vậy, mảnh đất thuộc về ông ấy. Rồi chúng tôi hiểu ra tất cả mọi việc. Mọi tài liệu mà chúng tôi tìm thấy liên quan đến những buổi họp ở Gallows Heights – với các chính trị gia và những nhà lãnh đạo nhân quyền? Đó là nhà của Charles, là nơi mà họ gặp gỡ. Đó là bí mật của ông ấy – là việc ông ấy sở hữu mười lăm mẫu đất đẹp nhất ở Manhattan.”
“Nhưng tại sao đó lại là một bí mật chứ?”, Hanson hỏi.
“Ồ, ông ấy không dám nói với một ai rằng mình là chủ sở hữu. Tất nhiên là ông ấy muốn. Đó là điều thực sự giày vò và khiến ông ấy băn khoăn, ông ấy tự hào rằng mình sở hữu một trang trại lớn trong thành phố. Ông ấy tin rằng mình có thể trở thành hình mẫu cho những người cựu nô lệ khác. Cho họ thấy rằng họ đều có thể được đối xử như một người đầy đủ quyền lợi, và được coi trọng. Rằng họ có thể sở hữu đất đai và làm việc trên đó, là những thành viên của cộng đồng. Nhưng ông ấy đã nhìn thấy những vụ nổi loạn do việc cưỡng bức quân dịch, những vụ hành hình người da đen, đốt phá. Vậy nên ông ấy và vợ mình đã giả vờ là những người cai quản đất, sợ rằng sẽ có ai đó phát hiện ra một cựu nô lệ sở hữu một mảnh đất lớn có giá trị và sẽ phá hủy nó. Hoặc, đúng hơn là, lấy nó đi từ ông ấy.”
“Mà”, Geneva nói: “Chính xác là việc đó đã xảy ra.”
Rhyme tiếp tục: “Khi Charles bị buộc tội, tất cả tài sản của ông ấy đã bị tịch thu – bao gồm cả trang trại – và bán đi… Giờ, chúng ta có một giả thuyết thú vị: Dựng tội một ai đó với những lời cáo buộc giả dối để lấy đi tài sản của người đó. Nhưng có bằng chứng nào không? Quả là một nhiệm vụ khủng khiếp – một trăm bốn mươi năm sau đó – về một vụ án chưa có lời giải đáp… Chà, có một vài bằng chứng. Những két sắt của Exeter Strongbow – loại mà Charles bị buộc tội phá hủy tại Quỹ Nô lệ tự do – được làm ở Anh nên tôi đã gọi cho một người bạn ở Sở cảnh sát Scotland. Anh ấy nói với một thợ khóa hình sự, anh ta nói rằng không thể nào phá vỡ một cái két Exeter thế kỷ XIX chỉ bằng một cái búa và một cái đục, những dụng cụ được tìm thấy tại hiện trường. Ngay cả những chiếc máy khoan hơi nước thời kỳ đó cũng mất ba đến bốn giờ đồng hồ – và bài báo về vụ trộm nói rằng Charles chỉ ở bên trong tòa nhà đó vẻn vẹn hai mươi phút đồng hồ”.
“Những kết luận tiếp theo là: Có một ai khác đã cướp chỗ đó, và đặt vài dụng cụ của Charles ở hiện trường rồi mua chuộc một nhân chứng để bịa đặt về ông ấy. Tôi nghĩ rằng tên trộm thực sự là gã mà chúng tôi tìm thấy bị chôn bên dưới tầng hầm của quán Potter’s Field.” Anh giải thích về chiếc nhẫn Winskinskie và người đàn ông đeo nó – rằng đó là một nhân viên thuộc bộ máy chính trị tham nhũng Tammany Hall.
“Đó là một trong những người thân cận với Boss Tweed. Một người khác đó là William Simms, viên thanh tra đã bắt Charles. Simms sau đó bị truy tố vì hối lộ và đặt bằng chứng giả chống lại các nghi phạm. Simms, gã Winskinskie, quan tòa và công tố viên tất cả đều sắp đặt việc buộc tội Charles. Tất cả họ giữ trong tay số tiền bị ăn trộm mà đã không được tìm lại.”
“Vậy chúng ta đã khẳng định rằng Charles sử hữu một khu đất lớn ở Gallows Heights và ông ấy đã dựng chuyện để ai đó có thể lấy đi mảnh đất.” Lông mày anh rướn lên. “Câu hỏi logic tiếp theo là gì? Câu hỏi lớn?” Không có ai hỏi.
“Rõ ràng: Hung thủ thực sự là kẻ nào chứ?”, Rhyme nói. “Ai đã cướp của Charles? Chà, cho rằng động cơ là lấy trộm trang trại của ông ấy, tất cả những gì tôi phải làm là tìm ra ai đứng tên mảnh đất.”
“Đó là ai?”, Hanson hỏi, nghe có vẻ khó chịu nhưng vẫn nắm được vài tình tiết lịch sử.
Cô thư ký vuốt váy và nói: “Boss Tweed?”.
“Không, đó là một đồng nghiệp của ông ta. Một người thường được nhìn thấy ở quán rượu Potter’s Field, cùng với vài kẻ tai tiếng khác lúc đó – Jim Fisk, Jay Gould và Simms.” Anh nhìn từng khuôn mặt bên kia chiếc bàn. “Tên ông ta là Hiram Sanford.”
Người phụ nữ chớp chớp mắt. Sau một lát cô ta nói: “Người thành lập ngân hàng chúng tôi”.
“Người duy nhất.”
“Thật là lố bịch”, Cole, vị luật sư nói. “Làm sao mà ông ấy có thể làm điều đó? Ông ấy là một trong những người có ảnh hưởng lớn nhất ở New York.”
“Cũng như William Ashberry?”, nhà tội phạm học hỏi một cách mỉa mai. “Thế giới cạnh tranh làm ăn lúc đó thực sự không hề khác đi chút nào so với bây giờ. Có rất nhiều nhà đầu cơ tích trữ tài chính – một trong những bức thư của Charles có trích từ New York Tribune đề cập đến ‘sự bùng nổ các bong bóng’ ở phố Wall. Đường sắt là mạng công nghệ thông tin của những năm 1800. Cổ phiếu của họ đã được đánh giá quá cao và bị phá sản. Sanford hầu như mất hết tiền bạc khi chuyện đó xảy ra và Tweed đồng ý trợ giúp ông ta. Nhưng, là Tweed, về bản chất ông ta muốn sử dụng tiền của người khác để làm điều đó. Vậy nên cả hai người bọn họ đã dựng chuyện cho Charles, và Sanford đã mua vườn cây trong một phiên đấu giá đã được sắp đặt với một phần nhỏ giá trị thực của nó. Ông ta phá ngôi nhà của Charles và xây dựng tòa dinh thự của mình trên đó, nơi mà chúng ta đang ngồi đây.” Một cái hất đầu ra ngoài cửa sổ về phía những dãy phố gần đó. “Và rồi ông ta cũng như con cháu và những người thừa kế sau đó đã phát triển mảnh đất hoặc bán nó đi từng ít, từng ít một.”
“Chẳng lẽ Charles không hề phản bác rằng mình vô tội sao, nói với họ những chuyện đã xảy ra?”, Hanson hỏi.
Rhyme chế giễu: “Một cựu nô lệ chống lại một bộ máy Tammany Hall phản đối người da đen? Liệu nó có bao nhiêu phần thành công? Hơn nữa, ông ấy đã giết gã đàn ông trong quán rượu”.
“Vậy ông ta là kẻ giết người”, Cole lập tức chỉ ra.
“Tất nhiên là không”, Rhyme đáp lời luôn, “Ông ấy cần gã Winskinskie sống – để chứng minh rằng mình vô tội. Cái chết của hắn là vì tự vệ. Nhưng Charles không có lựa chọn nào ngoài việc che giấu cái xác và giấu giếm vụ nổ súng. Nếu họ tìm ra, ông ấy sẽ bị treo cổ.”
Hanson lắc đầu. “Chỉ có một điều chả có ý nghĩa gì cả: Tại sao việc ông Hiram Sanford làm từ rất lâu rồi lại có thể ảnh hưởng tới Bill Ashberry? Cứ cho đó là một hình thức quảng bá tồi tệ đi – một nhà sáng lập ngân hàng lấy trộm tài sản của một cựu nô lệ? Đó sẽ là mười phút xấu xí trên bản tin buổi tối. Nhưng thẳng thắn các trợ lý có thể giải quyết những vấn đề kiểu như vậy. Nó không đáng để giết một ai đó vì điều này.”
“À”, Rhyme gật đầu. “Một câu hỏi rất hay… Chúng tôi đã làm một nghiên cứu. Ashberry chịu trách nhiệm cho bộ phận Bất động sản của các ông, đúng không?”
“Đúng vậy.”
“Nhưng nếu bộ phận này sụp đổ thì ông ta sẽ mất công việc và hầu hết tài sản đúng không?”
“Tôi nghĩ vậy. Nhưng tại sao mà nó có thể sụp đổ chứ? Đó là bộ phận mang lại phần lớn lợi nhuận cho chúng tôi.”
Rhyme nhìn vào Wesley Goades. “Đến lượt anh.”
Vị luật sư nhìn lướt qua những người ngồi bên kia bàn, rồi lại nhìn xuống, ông ta đơn giản không thể giữ ánh mắt. Cũng như việc ông ta bị đuối lý, bị cuốn theo những lời giải thích được nhấn mạnh của Rhyme – và thỉnh thoảng anh hay đi lạc đề một chút. Anh nói một cách đơn giản: “Chúng tôi ở đây để thông báo với các ông rằng quý cô Settle đây có ý định lập hồ sơ kiện ngân hàng quý vị để lấy lại những mất mát của cô ấy”.
Hanson cau mày và nhìn Cole, người đang nhìn họ với ánh mắt cảm thông. “Dựa trên những gì các vị nói với chúng tôi, đưa ra những cáo buộc có hại cho ngân hàng về việc gây ra những khó khăn về mặt tinh thần hẳn là sẽ không mang lại kết quả gì đâu. Các vị biết đấy, vấn đề là Ashberry hành động một mình, không phải với vai trò một lãnh đạo ngân hàng. Chúng tôi không chịu trách nhiệm cho những hành động của ông ta.” Nhìn vào Goades, mà ông ta thì có thể hoặc không nhún nhường lắm. “Như vị luật sư ở đây sẽ nói cho các anh.”
Hanson cũng nhanh chóng nói thêm với Geneva rằng: “Nhưng, chúng ta thực sự hiểu những gì mà cháu đã trải qua”, Stella Tumer gật đầu. Họ có vẻ như muốn nói điều này một cách rất thành thật: “Ta nghĩ cháu sẽ cảm thấy chúng ta khá rộng rãi”.
Luật sư thấy cần thiết phải thêm vào: “Một cách hợp lý”.
Rhyme quan sát vị chủ tịch ngân hàng một cách kỹ lưỡng. Gregory Hanson có vẻ khá tốt bụng. Trẻ hơn so với tuổi năm mươi, một nụ cười phóng khoáng. Hẳn là típ người sinh ra để làm một doanh nhân – kiểu ông chủ tốt bụng và là người đàn ông của gia đình, thực hiện công việc một cách xuất sắc, làm việc hàng giờ cho những cổ đông, đi máy bay với ghế thường bằng từng xu của công ty, nhớ sinh nhật của nhân viên mình.
Nhà tội phạm học hầu như cảm thấy tồi tệ về những gì sắp diễn ra.
Tuy nhiên, Wesley Goades không hề tỏ ra một chút thương xót với những gì anh ta nói: “Thưa ngài Hanson, sự mất mát mà chúng ta đang nói đến ở đây không phải là vụ việc một cán bộ của các ngài cố gắng giết hại quý cô Geneva Settle – theo cách mà chúng ta gọi cho sự việc ở đây – không phải là ‘nỗi đau tinh thần’”. Không, vụ tố tụng của cô ấy là trên danh nghĩa những người thừa kế hợp pháp của ông Charles Singleton, để lấy lại tài sản đã bị lấy trộm bởi Hiram Sanford, cũng như những thiệt hại về tiền bạc…”
“Đợi đã”, vị chủ tịch thều thào, nở nụ cười yếu ớt.
“… những thiệt hại tương đương với khoản thuê và những lợi ích mà ngân hàng của các ngài đã có được từ tài sản đó từ ngày tòa án chuyển giao tên chủ sở hữu.” Ông ta nhìn vào một mẩu giấy: “Đó là ngày mùng 4 tháng 8 năm 1868. Số tiền sẽ được đưa vào một quỹ vì lợi ích của tất cả con cháu của ông Charles Singleton, với việc sử dụng, phân chia sẽ được giám sát bởi tòa án. Chúng tôi vẫn chưa có con số cụ thể.” Cuối cùng Goades ngước lên nhìn vào mắt Hanson. “Nhưng chúng tôi ước tính một cách dè dặt là vào khoảng chín trăm bảy mươi triệu đôla.”
NÓ sẽ ở Đại học Columbia chiều nay, làm về một bài khóa nào đó.”
“Đại học Columbia?”
“Đúng. Thử tìm Giáo sư Mathers xem. Tôi không có tên riêng của ông ấy, rất tiếc.”
Giọng của ông hiệu phó nghe có vẻ không rảnh rỗi lắm, nhưng để bảo đảm rằng ông ta không gọi cho cảnh sát chỉ để kiểm tra về cuộc gọi, Ashberry nói bằng cách gạt bỏ sự nghi ngờ: “Được rồi, tôi chỉ cần gọi cho đồng chí cảnh sát đang bảo vệ cô bé là được, cảm ơn”.
“Vâng, xin chào.”
Ashberry dập máy và dừng lại, quan sát con phố đông đúc. Hắn chỉ cần địa chỉ của con bé nhưng điều này có khi lại có hiệu quả hơn – mặc dù ông hiệu phó không có vẻ ngạc nhiên khi Ashberry nói đến việc con bé được bảo vệ, điều đó có nghĩa là có thể vẫn còn ai đó đang bảo vệ nó. Hắn sẽ phải cân nhắc kỹ lưỡng về điều này. Hắn gọi cho tổng đài Đại học Columbia và biết được rằng giờ làm việc của Giáo sư Mathers ngày hôm nay tại văn phòng là từ 1 giờ đến 6 giờ.
Geneva sẽ ở đó bao lâu nhỉ? Ashberry tự hỏi. Hắn hi vọng rằng sẽ là cả ngày; hắn có rất nhiều việc cần phải làm.
Lúc 4 giờ 30 phút chiều, William Ashberry đang lái chiếc BMW M5 qua Harlem, nhìn xung quanh. Hắn không nghĩ tới một địa điểm này với ý niệm về chủng tộc hay văn hóa. Hắn nhìn nhận điều này như một cơ hội. Đối với hắn thì giá trị của một người đàn ông được quyết định bởi khả năng thanh toán những món nợ đúng hẹn – đặc biệt xuất phát từ quan điểm vì lợi ích cá nhân – khả năng của một người đàn ông trả tiền thuê hay thế chấp cho một trong những dự án tái phát triển mà ngân hàng Sanford đang thực hiện ở Harlem. Dù người mượn là da đen hay da trắng, người nói tiếng Tây Ban Nha hay người châu Á, là một kẻ buôn bán ma túy hay một nhà điều hành cơ quan quảng cáo… không là vấn đề. Miễn là người đó ký vào tấm séc đều đặn hằng tháng.
Lúc này, ở trên phố 135, hắn đi qua chính một trong những tòa nhà mà ngân hàng của hắn đã cải tạo lại. Những hình vẽ graffĩti đã được xóa đi, bên trong đã được phá hủy, vật liệu xây đựng được chất đống ở tầng trệt. Những người thuê trước đó đã được tạo động lực để đi tới nơi khác sinh sống. Một vài người dân lưỡng lự thì đã được “thúc giục” để đi và hiểu ý. Một vài người thuê mới đã ký mức thuê đắt đỏ, mặc dù việc xây dựng vẫn chưa được hoàn thành trong vòng sáu tháng.
Hắn quay trở lại con phố thương mại đông đúc, nhìn vào các cửa hàng. Không phải là thứ hắn cần. Hắn tiếp tục tìm kiếm – nhiệm vụ cuối cùng trong buổi chiều còn thú vị một chút, ít nhất là thế. Sau khi rời văn phòng ở tổ chức Sandford, hắn đã nhanh chóng lái xe tới ngôi nhà nghỉ dưỡng cuối tuần ở New Jersey. Ở đó, hắn mở khóa ngăn đựng súng và lấy khẩu súng hoa cải hai nòng. Trên chiếc ghế ở ga ra hắn đã cắt nòng đi, biến khẩu súng dài chỉ còn 54cm – một công việc nặng nhọc một cách ngạc nhiên, đã khiến hắn tiêu tốn mất nửa tá lưỡi cưa điện. Ném những mẩu nòng bị cưa đứt vào chiếc hồ phía sau ngôi nhà. Hắn dừng lại, nhìn quanh, nghĩ tới việc cái hồ này là nơi mà con gái lớn của hắn sẽ làm đám cưới vào năm tới, sau khi tốt nghiệp từ Vassar.
Hắn đã ở lại đó một lúc lâu, nhìn chằm chằm vào mặt trời vỡ nhòa trong dòng nước màu xanh lạnh giá. Rồi hắn nạp đạn vào khẩu súng và đặt nó cùng với một tá đạn vào một chiếc hộp các tông, che lên trên là vài quyển sách cũ, báo và tạp chí. Hắn không cần một đồ dùng nào khác nữa để che đậy tốt hơn những thứ này, vị giáo sư và Geneva không sống đủ lâu để thậm chí nhìn vào bên trong cái hộp.
Mặc lên một bộ vest và áo khoác thể thao lệch tông, tóc chải ngược ra sau, với cặp kính lão trí thức – vẻ cải trang tốt nhất mà hắn có thể nghĩ ra – sau đó Ashberry lái xe thật nhanh qua cầu George Washington vào Harlem, nơi hắn đang ở đó, tìm kiếm lý do cuối cùng cho màn kịch.
À, ở đó…
Hắn đỗ xe và bước ra ngoài. Đi bộ lên những quầy hàng vỉa hè của cộng đồng Hồi giáo và mua một cái mũ, một chiếc mũ trùm Hồi giáo, không phát ra một tia nhìn ngạc nhiên. Ashberry, lấy chiếc mũ với bàn tay đeo găng (cảm ơn một lần nữa, Thompson), rồi quay lại chiếc xe. Khi không có ai nhìn, hắn cúi xuống và cọ chiếc mũ lên nền đất bên dưới quầy điện thoại công cộng, mà hắn đoán chừng là đã có rất nhiều người đứng ở đó trong ngày trước hoặc trước đó. Chiếc mũ sẽ lấy một ít đất bẩn và các bằng chứng khác – lý tưởng nhất là một hoặc hai sợi tóc – mà có thể mang lại cảnh sát thậm chí còn nhiều manh mối giả hơn về vụ khủng bố. Hắn chùi mặt trong của chiếc mũ vào ống nói của chiếc điện thoại để lấy mẫu DNA từ nước bọt và mồ hôi. Ném chiếc mũ vào trong cái hộp với khẩu súng và đống tạp chí, sách vở, hắn leo lên xe và lái về Momingside Heights và vào khuôn viên Đại học Columbia.
Hắn giờ tìm thấy tòa nhà bộ môn cũ kỹ có văn phòng của Mathers và nhận ra một chiếc xe cảnh sát đang đậu ở trước, một cảnh sát đang ngồi ở ghế lái, quan sát con phố một cách cẩn thận. Vậy là cô bé thực sự có người bảo vệ.
Chà, hắn có thể xoay xở được. Hắn đã từng sống sót qua những tình huống còn khó nhằn hơn thế này – trên những con phố của South Philly và trong phòng họp kín trên phố Wall. Bất ngờ là lợi thế tốt nhất – chứng ta có thể đánh bại bất cứ thứ gì quá sức nếu ta làm một điều bất ngờ.
Tiếp tục đi hết con phố, hắn quay ngược lại và đậu xe phía sau tòa nhà, chiếc xe của hắn nằm ngoài tầm nhìn và hướng về phía đường cao tốc sẵn sàng cho một cuộc tẩu thoát nhanh chóng. Hắn bước ra và nhìn quanh. Đúng rồi, nó sẽ có tác dụng, hắn có thể tiếp cận văn phòng từ bên hông, rồi lẻn vào qua cửa trước khi viên cảnh sát nhìn đi đâu đó.
Để chạy trốn… có cửa ra sau tòa nhà. Hai cửa sổ ở tầng trệt nữa. Nếu viên cảnh sát chạy tới tòa nhà ngay khi nghe thấy tiếng súng, Ashberry có thể bắn anh ta từ một trong những cửa sổ trước. Trong bất cứ trường hợp nào, hắn sẽ có đủ thời gian để vứt lại chiếc mũ như là một tang vật và chạy tới chiếc xe trước khi bất cứ cảnh sát nào khác đi tới.
Hắn tìm thấy một quầy điện thoại công cộng. Gọi cho tổng đài của ngôi trường.
“Đại học Columbia”, một giọng nói trả lời.
“Làm ơn cho gặp Giáo sư Mathers.”
“Xin vui lòng đợi một chút”,
Một giọng người da đen trả lời: “Xin chào?”.
“Giáo sư Mathers?”
“Đúng vậy.”
Sử dụng cái tên Steve Macy một lần nữa, Ashberry giải thích rằng hắn là một tác giả từ Philadelphia, đang làm một nghiên cứu ở thư viện Lehman – một Cơ sở thuộc Đại học Columbia đóng góp vào khoa học xã hội và báo chí (tổ chức Sanford đã đầu tư rất nhiều tiền vào các thư viện và trường học như thế này. Ashberry đã từng kiếm lợi ở đó; hắn có thể nói về nó nếu hắn phải nói). Rồi hắn nói rằng một trong những người thủ thư có nghe nói rằng Mathers đang tìm kiếm tài liệu chuyên sâu về lịch sử New York thế kỷ XIX, đặc biệt là thời đại Phục hưng. Có đúng không?
Vị giáo sư cười một cách ngạc nhiên. “Đúng thế, sự thật là thế. Nhưng không phải cho tôi, thực tế. Tôi đang giúp đỡ một cô bé học sinh trung học. Cô bé đang ở đây với tôi.”
Cảm ơn Chúa. Con bé vẫn ở đó. Ta có thể kết thúc tất cả ngay lúc này, tiếp tục với cuộc sống của mình.
Ashberry nói rằng mình có mang theo một ít tài liệu từ Philly. Liệu ông ấy và cô bé học sinh có muốn xem qua không?
Vị giáo sư nói họ chắc chắn là muốn xem, cảm ơn anh ta rồi hỏi lúc nào thì tiện cho hắn ghé qua.
Khi mới mười bảy tuổi, Ashberry đã từng nắm một con dao rọc giấy gí vào đùi một người bán hàng cao tuổi và nhắc nhở ông ta rằng khoản tiền bảo kê đã quá hạn. Lưỡi dao sẽ cắt đến ba centimet cho mỗi ngày khoản tiền chưa được trả trừ khi ông ta trả ngay lập tức. Giọng của hắn bình thản như lúc này, khi nói với Mathers: “Tôi sẽ rời đi đêm nay nhưng có thể ghé qua lúc này. Ông có thể copy nếu ông cần. Ông có máy Xerox chứ?”.
“Vâng, tôi có.”
“Tôi sẽ có mặt trong vài phút nữa.”
Họ tắt máy. Ashberry lần vào trong chiếc hộp và nhấn chiếc nút an toàn trên khẩu súng vào vị trí sẵn sàng nổ súng. Rồi hắn nhấc chiếc thùng các tông lên và hướng về tòa nhà, bước qua những chiếc lá mùa thu đang cuộn lên xoay vòng trong trận gió xoáy lạnh buốt.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.