Cách hai dãy nhà phía bắc ga Lyon: đường Parrot. 6 giờ 53 phút tối.
“Rẽ vào đây”, ả phụ nữ nói. “Đậu xe đi”.
“Chẳng có chỗ đậu xe đâu. Đường xá giờ này đông như kiến”.
“Tin tao đi. Chúng ta sẽ tìm được một chỗ đậu xe”.
Đúng lúc đó có một chiếc xe lùi ra khỏi ô đậu xe gần khách sạn Lyon Bastille. Gabriel, không để phí một giây nào, lập tức rẽ vào thế chỗ. Đứa con gái giấu khẩu Tanfolgio vào xắc tay và đeo nó lên vai.
“Mở cốp xe ra”.
“Để làm gì?”
“Cứ làm theo lời tao đi. Nhìn đồng hồ kìa. Chúng ta chẳng còn nhiều thời gian đâu”.
Gabriel kéo cần mở cốp xe, và nắp cốp xe bật lên kèm theo một tiếng “cạch” khô khan. Đứa con gái rút chìa khóa xe ra khỏi ổ khóa và thả nó vào xắc tay cùng với khẩu súng và chiếc điện thoại vệ tinh. Rồi ả mở cửa xe và trèo ra ngoài. Ả đi về phía cốp xe, và ra hiệu cho Gabriel đi theo. Anh nhìn xuống. Bên trong cốp là một chiếc vali lớn hình chữ nhật, bằng vải nylon đen, có bánh xe và tay nắm kéo lên được.
“Cầm lấy nó”.
“Không”.
“Nếu mày không chịu cầm lấy nó, vợ mày sẽ chết”.
“Tôi sẽ không mang một trái bom vào ga Lyon”.
“Mày đang vào một nhà ga. Tốt nhất phải làm ra vẻ là một khách du lịch chân chính. Cầm lấy cái vali đi”.
Anh thò tay xuống tìm cái khóa kéo. Đã khóa.
“Cầm lấy ”.
Trong khoang chứa dụng cụ sửa xe có một ống mở vít dùng để thay bánh xe bằng sắt mạ chrome.
“Mày làm gì vậy? Muốn vợ mày chết sao?”
Hai cú nện mạnh, và ổ khóa của chiếc vali gãy lìa. Gabriel kéo cái khóa kéo để xem những thứ chứa bên trong ngăn chính: những viên giấy vo tròn. Tiếp theo anh xem xét những ngăn phụ. Trống không.
“Mày thỏa mãn rồi chứ? Xem đồng hồ đi. Cầm lấy cái vali mau lên”.
Gabriel nâng cái vali ra khỏi cốp xe và đặt nó xuống lề đường. Đứa con gái đã bắt đầu bước đi. Anh kéo tay nắm chiếc vali lên cao và đóng cốp xe, rồi vội vã bước theo ả. Đến góc đường Lyon, họ rẽ trái. Nhà ga, vốn được xây dựng trên một doi đất, hiện ra trước mặt họ.
“Tôi không có vé”.
“Tao có vé cho mày đây”.
“Chúng ta sẽ đi đâu? Berlin? Geneva? Amsterdam?”
“Cứ đi đi”.
Khi họ đến gần giao lộ với đại lộ Diderot, Gabriel trông thấy các nhân viên cảnh sát tuần tra quanh nhà ga và ánh đèn màu xanh dương của các xe cảnh sát nhấp nháy ở giữa vòng xoay.
“Họ đã được cảnh báo”, anh nói. “Chúng ta đang đi thẳng vào một điểm báo động an ninh”.
“Chúng ta sẽ ổn thôi”.
“Tôi không có hộ chiếu”.
“Mày không cần đến nó đâu”.
“Nhỡ họ chặn chúng ta lại thì sao?”
“Đã có tao. Nếu cảnh sát chặn hỏi giấy tờ của mày, chỉ việc nhìn tao, và tao sẽ lo liệu”.
“Chính cô là lý do khiến chúng ta bị chặn lại thì có”.
Đứng trên lề đường Diderot, họ chờ đèn báo qua đường bật xanh, rồi băng qua đường giữa một rừng người đi bộ. Chiếc vali quá nhẹ. Nó không tạo ra được tiếng động phù hợp khi kéo trên lề đường. Lẽ ra bọn chúng phải cho quần áo vào để tạo trọng lượng phù hợp. Lỡ anh bị chặn lại thì sao? Lỡ người ta khám chiếc vali và phát hiện ra nó chứa toàn những tờ giấy vo viên lại thì sao? Lỡ họ khám chiếc xắc tay của Palestina và phát hiện ra khẩu Tanfolgio? Khẩu Tanfolgio… Anh tự nhủ thầm mình phải tạm quên đi chiếc vali rỗng và khẩu súng trong xắc tay của ả này. Thay vào đó anh tập trung vào cảm giác mà anh đã cảm nhận được hồi chiều, cảm giác rằng chiếc chìa khóa sống còn của anh đang nằm đâu đó trên con đường mà anh đã đi qua.
Có nhiều nhân viên cảnh sát và hai binh sĩ đeo súng tiểu liên trên vai đang đứng trước cửa vào nhà ga. Họ chặn những người qua lại một cách ngẫu nhiên, kiểm tra giấy tờ và khám xét hành lý. Palestina vòng tay qua cánh tay Gabriel và kéo anh đi nhanh hơn. Anh cảm thấy những ánh mắt của các nhân viên cảnh sát chiếu lên người mình, nhưng họ không chặn anh lại.
Khuôn viên bên trong của nhà ga, với mái vòm cuốn cao mở ra trước mắt họ. Họ dừng lại một lát ở đầu một chiếc thang máy đang chạy xuống tầng dành cho xe điện ngầm. Gabriel lợi dụng khoảng thời gian này để quan sát xung quanh. Bên trái anh là một dãy phòng điện thoại công cộng; sau lưng anh là cầu thang dẫn lên nhà hàng Le Train Bleu. Ở đầu bên kia đại sảnh có hai quầy bán báo Relay. Cách anh vài bước chân về phía bên phải là một quán bán thức ăn nhanh, ngay bên dưới tấm bảng điện tử lớn báo giờ tàu chạy. Đúng lúc đó bảng điện tử đổi nội dung. Tự nhiên Gabriel cảm thấy những âm thanh lạch tạch khi các ký tự hiện ra nghe như một tràng pháo tay giành cho trò chơi hoàn hảo của Khaled. Đồng hồ trên bảng điện tử báo giờ: 6 giờ 57 phút.
“Mày có thấy cô gái đang sử dụng điện thoại trong phòng thứ nhất phía bên này không?”
“Cô gái nào?”
“Mặc quần jeans xanh, áo len xám, có thể là người Pháp, cũng có thể là người Arập, giống như tao”.
“Tôi thấy rồi”.
“Khi đồng hồ trên bảng điện tử nhảy sang 6 giờ 58 phút, cô ta sẽ gác máy. Mày và tao sẽ đến đó thế chỗ cô ta. Cô ta sẽ dừng lại một lúc để cho chúng ta có đủ thời gian đến đó”.
“Lỡ có người vào trước chúng ta thì sao?”
“Tao và cô ta sẽ lo liệu. Mày sẽ gọi một số điện thoại. Mày sẵn sàng chưa?”
“Sẵn sàng”.
“Đừng quên những chữ số này đấy. Nếu mày quên, tao sẽ không nhắc lại đâu, và vợ mày sẽ chết. Mày chắc chắn là đã sẵn sàng rồi chứ?”
“Cứ đọc con số khốn nạn đó ra đi”.
Ả đọc một số điện thoại, rồi đưa cho anh vài đồng xu đúng lúc đồng hồ nhảy sang 6 giờ 58. Đứa con gái kia đã rời khỏi phòng điện thoại. Gabriel bước tới, nhấc ống nghe và nhét các đồng xu vào khe nạp tiền. Anh bấm từng số một cách thận trọng, sợ rằng nếu bấm nhầm anh sẽ không thể nhớ lại con số đúng. Ở đâu đó một chiếc điện thoại bắt đầu reo. Một hồi, hai hồi, ba hồi chuông…
“Không có ai trả lời cả”.
“Hãy kiên nhẫn một chút. Sẽ có người trả lời thôi”.
“Nó đã reo sáu hồi chuông rồi. Vẫn không ai trả lời”.
“Mày chắc là gọi đúng số chứ? Có thể mày đã bấm nhầm. Có thể vợ mày sắp phải chết vì mày…”
“Câm mồm”, Gabriel quát.
Điện thoại đã ngừng reo.