Các lính canh tại cổng thành phía Đông nhìn chằm chằm với vẻ ngạc nhiên đoàn tuỳ tùng của tòa án. Lần đầu tiên có đến hai bộ đầu cưỡi ngựa vừa đánh chiêng vừa hô vang:” Tránh đường! Tránh đường! Tránh đường cho Quan án sát!”. Sau hai người lính cưỡi ngựa là hai người khác, mỗi người cầm trên tay một đèn lồng lớn bằng giấy dầu màu đỏ có dòng chữ ” Tòa án của Lan Phương”. Phía sau họ là kiệu chính thức của Địch công được mười người mặc đồng phục khiêng trên vai. Đội trưởng cưỡi ngựa đi bên cạnh kiệu và 12 bộ đầu đi phía sau.
Khi những người khuân vác, những tên vô công rỗi nghề và ăn xin ngồi dọc theo con đường bên ngoài cổng thành thấy đoàn người đi qua họ vội vàng đứng lên để đi theo. Đội trưởng hét vào mặt họ không cho đi theo nhưng cửa rèm kiệu được nâng lên. Địch công nhìn ra ngoài và nói với đội trưởng:
– Hãy để họ đi theo nếu họ muốn!
Địch công và lão Hồng xuống kiệu từ dưới bậc thang cuối cùng của cầu thang. Rút kinh nghiệm từ lần trước, lần này quan án không mặc quan phục chính thức của mình, ông chọn một chiếc áo dài bằng vải màu xám có đường viền đen, một chiếc thắt lưng đen bằng lụa mỏng. Trên đầu đội một chiếc mũ vuông bằng the đen.
Trong khoảng sân trước của ngôi đền, các bộ đầu đặt những chiếc đèn lồng có dấu hiệu của tòa án xuống đất ở hai bên cổng đền. Quan án bảo họ đợi ở đó. Ông đi vào sảnh chính cùng với lão Hồng, đội trưởng và một bộ đầu lớn tuổi, người này mang theo hai chiếc đèn lồng, một chiếc thang dây và một cuộn dây thừng nhỏ.
Họ ở trong hội trường một thời gian dài. Khi Địch công bước xuống sân trước một lần nữa, khuôn mặt ông tái nhợt và buồn bã dưới ánh sáng của những ngọn đèn lồng. Ông nói cộc lốc với đội trưởng nhờ tiếp những người khách của ông và ra lệnh cho họ phải chờ đợi trong sân phía trước. Những bộ đầu đặt các ngọn đuốc trong đại sảnh và quét sàn nhà. Sau khi đã ra các lệnh cần thiết, ông cùng với lão Hồng đi dọc theo con đường dẫn đến Tu viện.
Khi Tu viện trưởng đính thân ra mở cổng, quan án cảm ơn nồng nhiệt bà đã chăm sóc người bộ đầu bị thương và nói rằng ông muốn nhìn thấy anh ta. Tu viện trưởng đã đưa họ đến một căn phòng nhỏ của nhà nguyện, nơi Phương đang nằm trên một chiếc giường bằng tre. Xuân Vân đang ngồi xổm trước một cái lò than đặt trong góc nhà, quạt than để nấu thuốc. Địch công khen ngợi người bộ đầu trẻ tuổi đã phát hiện ra cái đầu bị chôn vùi và chúc anh ta nhanh chóng hồi phục.
– Tôi đang được chăm sóc rất tốt, thưa đại nhân. – Phương nói với lòng biết ơn – Tu viện trưởng đã băng bó vết thương và cứ mỗi hai giờ Xuân Vân lại cho tôi uống thuốc để hạ sốt.
Lão Hồng nhận thấy cái nhìn trìu mến của người bộ đầu trẻ tuổi dành cho Xuân Vân và ông nhìn thấy cô đỏ mặt.
Trở lại sân trước, Địch công nói với Tu viện trưởng:
– Tối nay ta đã mời một vài người đến ngôi đền bỏ hoang để thảo luận về các vụ giết người xảy ra tại đó thời gian gần đây. Ta cũng muốn bà có mặt tại đó. Khu vực này thuộc thẩm quyền tôn giáo của bà nên phải cần sự có mặt của bà.
Tu viện trưởng không bình luận. Bà nghiêng đầu tỏ vẻ đồng ý và kéo khăn trùm đầu lên che đầu của mình. Sau đó theo Địch công và lão Hồng ra ngoài.
Ông Hứa đang đi lại quanh sân, hai tay chắp sau lưng. Trong dịp này ông đã mặc một chiếc áo dài màu xanh lá cây đậm với đường viền màu đen và trên đầu đội một chiếc mũ cao màu đen làm cho ông có dáng vẻ một vị quan chức. Vợ ông mặc một chiếc áo choàng màu đen với tấm mạng che mặt, đang ngồi trên một tảng đá lớn. Ông Lý Mai đứng bên cạnh cô.
Địch công giới thiệu một cách kiểu cách ông Hứa và ông Lý cho Tu viện trưởng. Khi đó mới biết là Tu viện trưởng đã quen biết bà Hứa khi bà này đã đến Tu viện vài lần để thắp hương. Đứng ở trung tâm của sân trước họ trao đổi với nhau những lời chào hỏi lịch sự thông thường. Ánh sáng êm dịu của hai chiếc đèn lồng lớn làm cho các bức tường màu xám của ngôi đền bớt đi vẻ gớm ghiết. Nếu không có những bộ đầu và bảo vệ đứng gần cổng có thể tưởng đây là một nhóm người nhàn nhã đang đứng trong sân đền để thưởng thức một buổi tối mát mẻ.
Địch công băng qua sân. Cánh cửa ra vào sáu cánh được mở toang và họ bước vào đại sảnh chính, bây giờ đã được thắp sáng rực rỡ bằng nhiều ngọn đuốc lớn. Những bộ đầu đã cắm chúng vào những cái lổ trên tường, được tạo ra cho mục đích đó. Đi bộ lên chiếc bàn thờ ở phía sau, Địch công nghĩ rằng trong những ngày xa xưa, khi các bức tường vẫn còn được bao phủ bởi các bức tranh tôn giáo tuyệt đẹp và bàn thờ được để đầy các vật nghi lễ thì đại sảnh sẽ xuất hiện với một vẻ ấn tượng nhất. Ông đã đi đến bàn thờ và đứng quay lưng lại với nó. Ông ra hiệu cho ông bà Hứa đứng đối mặt trực tiếp với ông. Sau đó yêu cầu Tu viện trưởng đứng bên phải họ và Lý Mai bên trái họ. Trong khi đó, đội trưởng đi đến bên trái bàn thờ và người bộ đầu lớn tuổi bên phải. Họ đứng yên tại đó. Lão Hồng ở phía sau những cây cột cùng với sáu người lính.
Quan án nhìn bốn người đang đứng trước mặt mình với đôi mắt buồn rầu, chậm rãi vuốt ve bộ râu dài màu đen của ông. Sau đó, ông nói với ông Hứa một cách nghiêm trọng:
– Ta rất lấy làm tiếc khi phải thông báo cho ông là cô Ngọc, đứa con gái của ông đã chết. Cô ta đã qua đời tại đây, trong hội trường này.
Sau khi nói xong, ông nhanh chóng bước qua bên trái. Khi đi ngang qua đội trưởng, ông quát vào người này:
– Di chuyển cái bàn!
Đội trưởng nắm chặt đầu bên trái cái bàn bằng cả hai tay, người bộ đầu phía bên kia cũng làm tương tự. Địch công nhìn chăm chú vào bốn người ở phía trước bàn thờ. Ông bà Hứa trao đổi với nhau một cái nhìn ngơ ngác, Lý Mai nhìn chằm chằm vào quan án với đôi lông mày nhướn lên, Tu viện trưởng đứng cứng nhắc và quan sát đội trưởng cùng người bộ đầu với đôi mắt to của bà. Họ đã nghiêng cái bàn đi một chút sau đó giữ nguyên ở vị trí đó.
Sau một khoảng thời gian ngưng đọng khó chịu, Địch công nói với đội trưởng:
– Dừng lại!
Khi họ cho cái bàn quay lại vị trí ban đầu, quan án quay lại vị trí cũ phía trước bàn. Một lần nữa ông nói với Hứa.
– Con gái của ông, ông Hứa, đã trở nên say mê người thư ký của ông, Giang Mậu Tề. Ông không thể đổ lỗi cho điều đó. Cô đã mất đi người mẹ vào cái tuổi cần có mẹ nhất, và cô đã đọc quá nhiều để đưa mình vào những tư tưởng lãng mạn. Cô dễ dàng trở thành nạn nhân của một người đàn ông trẻ tuổi, phóng đãng và nhiều kinh nghiệm như Giang. Anh ta đã chiếm một vị trí trong trái tim của cô, ông Hứa. Sau khi cô đã nói với ông vào cái đêm định mệnh ấy, cô đã chạy ra khỏi nhà. Không phải chạy đến nhà người dì như ông đã nghĩ mà chạy đến ngôi đền hoang vắng này. Cô biết rằng Giang thường đến đây. Cô muốn nói với anh ta là ông đã từ chối không cho cô kết hôn với anh ta và muốn anh ta tư vấn cho cô họ nên làm như thế nào. Tuy nhiên, Giang không có ở đây vào đêm đó. Cô tìm thấy tại đây một người đàn ông khác. Một kẻ giết người, một người chỉ nhìn vào kết quả tội ác ghê tởm của mình.
Người đàn ông này đã tổ chức việc trộm 50 thỏi vàng của người Thủ quỹ Hoàng gia, việc đánh cắp này xảy ra tại đây gần một năm trước vào ngày 2 tháng 8 năm Tỵ. Để đột nhập vào phòng ngủ của người Thủ quỹ và ăn cắp vàng, anh ta đã sử dụng một người thợ khóa lành nghề tên là Minh Ao.
Có một tiếng kêu tắt nghẹn. Bà Hứa đưa tay lên miệng. Chồng bà đưa một cái nhìn về phía bà và định đi đến để hỏi vợ mình chuyện gì đã xảy ra nhưng Địch công đưa tay ngăn lại.
– Ông cần phải biết một thực tế, ông Hứa, rằng trước khi lấy ông thì vợ của ông đã có một cuộc sống khó khăn. Một thời gian trước đó cô ta sống với Minh Ao. Em trai ông ta báo với tòa án là anh mình mất tích vào ngày 6 tháng 9. Đó là năm tuần sau khi hành vi trộm cắp vàng xảy ra và bốn ngày trước khi cô Ngọc biến mất. Người chủ mưu đã ra lệnh cho Minh Ao giấu vàng tại ngôi đền bỏ hoang này và Minh Ao đã giấu nó rất chuyên nghiệp vì ông ta là một thợ khóa lành nghề, quá quen thuộc với những bức tường bí mật, các ngăn kéo ẩn và tất cả những thứ như thế. Ông nghĩ rằng ông phải được hưởng nhiều hơn số vàng được chia sẻ mà người chủ mưu đã hứa nên từ chối tiết lộ cho người này vị trí chính xác nơi ông đã giấu vàng. Ta cho rằng lúc đầu tên chủ mưu đã cố gắng để làm cho Minh Ao tiết lộ nơi giấu vàng và khi ông ta từ chối thì hắn bắt đầu đe dọa và…
Ông quận trưởng Hứa và Tu viện trưởng trước Địch công
– Tất cả những điều này có vẻ chẳng liên quan gì đến tôi – ông Hứa ngắt lời với vẻ sốt ruột – Tôi muốn biết ai đã giết con gái của tôi và bằng cách nào.
Địch công quay qua ông chủ ngân hàng Lý Mai.
– Kẻ giết người là em trai của ông, họa sĩ Lý Cố.
Khuôn mặt tròn của Lý Mai trở nên nhợt nhạt.
– Em…em của tôi? – ông lắp bắp – Tôi biết rằng nó không tốt… Nhưng thề có trời đất, một vụ giết người…
– Em trai của ông – quan án tiếp tục – đã thường xuyên đến ngôi đền này trong nhiều năm qua để nghiên cứu các hình ảnh Phật giáo ở đây. Bằng cách nào đó anh ta biết được sự tồn tại của một hầm mộ sâu dưới bàn thờ này. Như ông đã biết, hầu hết các ngôi đền lớn đều có một hầm mộ bí mật để cất giấu các vật dụng nghi lễ có giá trị của họ trong thời kỳ biến động và là nơi ẩn nấp cho các tu sĩ. Lý Cố có lẽ đã lừa Minh Ao vào hầm mộ sau đó nói với ông ta là sẽ để cho ông chết đói nếu ông không tiết lộ nơi cất giấu vàng. Điều này xảy ra vào đêm 6 tháng 9, đêm Minh Ao biến mất. Bốn ngày sau, vào ngày thứ mười, Lý Cố mở hầm mộ. Anh ta đã bỏ Minh Ao ở đó quá lâu, người thợ khóa đã chết mà không cần phải tiết lộ bí mật. Con gái ông, ông Hứa, đã nhìn thấy Lý Cố đứng trước cửa hầm mộ mở ra và anh ta đã ném cô vào bên trong. Thi thể họ vẫn còn tại đó. Hãy đến gần đây, tất cả các người!
Địch công đi đến bên cạnh người đội trưởng và nói cộc lốc:
– Mở hầm mộ!
Một lần nữa đội trưởng và người bộ đầu nghiêng bàn thờ. Sau đó với một nỗ lực họ đẩy nó ra khỏi tường từng phân một. Khi khoảng cách là năm tấc, một phần sàn đá khoảng một mét đột nhiên nhô lên, quay quanh một trục nằm dọc theo chân tường nơi trước kia là chỗ đặt bàn thờ. Một mùi thối kinh tởm bốc lên từ cái lỗ hổng tối tăm.
Theo sự ra dấu của quan án, đội trưởng thắp sáng một cái đèn lồng và buộc vào một sợi dây thừng mảnh. Trong khi ông ta thả nó xuống hầm mộ, quan án ra hiệu cho ông Hứa đến sát mép hầm. Họ cùng nhau nhìn xuống.
Các bức tường gạch hoàn toàn nhẵn nhụi sâu xuống trong gần năm mét. Bên dưới chứa đầy rác thải: hộp gỗ nhỏ và lớn, một vài cái lọ bằng đất nung và chân nến bị hỏng. Ở bên trái là hài cốt của một phụ nữ nằm úp mặt xuống đất. Mái tóc dài bao phủ xung quanh cái sọ, xương lộ ra từ chiếc áo màu nâu bị mục nát. Ở phía bên kia, gần bức tường, là những gì còn lại của một người đàn ông nằm úp mặt xuống đất, cánh tay vung ra. Qua những lổ hổng trong tay áo bị rách, những thỏi vàng lấp lánh trong ánh sáng của ngọn đèn lồng.
– Ta cần một cái thang dây – Địch công nói. Giọng nói của ông bị bóp nghẹt qua chiếc khăn được ông kéo lên che mũi và miệng của mình – Trên bức tường cạnh thi thể Minh Ao có một hộc ẩn. Trong giây phút cuối cùng khủng khiếp của Minh Ao tại đây, ông ta đã phát điên vì đói khát nên đã mở cái hộc ẩn này, ông lấy từ đó các thỏi vàng và nhét chúng vào tay áo của mình. Sau đó ông ngã ra và chết. Trước khi kẻ giết người đẩy Minh Ao vào hầm mộ, hắn ta tất nhiên đã kiểm tra rất cẩn thận nơi này xem có phù hợp với việc cất giấu vàng. Tuy nhiên hắn ta thất bại trong việc tìm chiếc hộc ẩn giấu bên trong các bức tường. Và khi hắn ta mở cửa hầm mộ và thấy Minh Ao đã chết, hắn ta cũng không nhìn thấy vàng. Chúng ta có thể nhìn thấy vàng bởi vì bây giờ chiếc áo của Minh Ao đã bị mục nát và vàng lộ ra. Vì thế kẻ giết người không biết rằng vàng nằm tại đây và hắn ta đã bỏ ra một thời gian dài tìm kiếm không kết quả bên trong ngôi đền.
Ông Hứa quay lại, khuôn mặt tái mét.
– Con quỷ độc ác đã giết chết đứa con gái tội nghiệp của tôi ở đâu? – ông ta hỏi bằng giọng khàn khàn.
Địch công gật đầu với đội trưởng, Ông ta rời hội trường bằng cách cửa hẹp phía sau. Sau đó, quan án chỉ vào cánh cửa bẫy.
Như các người đã thấy, cửa bẩy được làm bằng gỗ rất dày. Chúng được bao phủ bởi một lớp vữa và các tấm đá thêm vào bên trên. Cánh cửa rất nặng và khi đóng cửa không phát ra tiếng động. Ở đầu kia có một đối trọng nằm ngầm bên ngoài. Hai cái nêm giữ nó cân bằng. Nếu nghiêng cái bàn thờ và đẩy nó về phía trước song song với bức tường thì cái nêm được giải phóng. Một cái cửa bí mật rất tinh xảo.
Đội trưởng bước vào bên trong với một người đàn ông cao lớn. Mã Tông theo sát phía sau.
Ngay khi người đàn ông nhìn thấy hầm mộ mở ra và có nhiều người đứng đó, anh ta dùng cánh tay che mặt lại. Nhưng đã quá muộn.
– Giang! – Bà Hứa khóc – Tại sao…
Người đàn ông quay người định bỏ chạy nhưng Mã Tông đã nắm lấy và ghìm chặt tay anh ta bằng một đòn khóa tay của đô vật. Đội trưởng xích anh ta lại bằng dây xích.
Thân hình cao lớn của Giang chùng xuống. Sau đó anh đứng thẳng lên với đôi mắt tuyệt vọng, khuôn mặt nhợt nhạt như một xác chết.
– Em trai của tôi ở đâu? – Lý Mai hét lên.
– Em trai của ông đã chết, ông Lý – quan án nói nhẹ nhàng – Anh ta là thủ phạm của hai vụ giết người và sau đó đã bị giết chết.
Ông ra hiệu cho đội trưởng. Cùng với người bộ đầu lớn tuổi, đội trưởng đã chuyển cái bàn trở về vị trí ban đầu của nó sát bức tường. Cánh cửa hầm từ từ đóng lại một lần nữa. Địch công trở lại vị trí của mình trước bàn thờ.
– Ông có quyền được nghe toàn bộ câu chuyện, ông Lý. Ta sẽ kể toàn bộ câu chuyện theo cách của ta. Kể từ khi người em của ông đã chết, một phần những gì ta kể chỉ là phỏng đoán. Nhưng Giang Mậu Tề sẽ kể tiếp những gì còn thiếu. Phải, sau khi Lý Cố giết chết Minh Ao và cô Ngọc, anh ta bắt đầu việc tìm kiếm tại ngôi đền. Nhưng từ khi anh ta biết tất cả những tên đê tiện của thị trấn thường xuyên đến đây vào ban đêm và việc tìm kiếm của mình cũng bao gồm cả khu vườn, anh ta cần có sự giúp đỡ. Vì vậy anh ta đã nhờ đến sự giúp đỡ của Giang. Lý Cố đã nói gì với ngươi, Giang?
Người đàn ông bị xích nhìn lên với đôi mắt hoảng hốt.
– Anh ta nói rằng các tu sĩ đã giấu một kho báu tại đó – anh lẩm bẩm – Tôi…tôi nghi ngờ về điều đó. Tôi tìm thấy một tờ giấy chi chú trong phòng của Lý về 50 thỏi vàng và…
– Và ngươi nghĩ rằng ngươi có thể tự tìm lấy cho mình tốt hơn là những gì Lý đã hứa – Địch công ngắt lời anh ta – Ngươi đã thuê tên trấn lột chuyên nghiệp Trịnh San và cùng nhau lập ra kế hoạch dụ Lý đến ngôi đền và giết anh ta. Trịnh San siết cổ Lý từ phía sau. Sau đó ngươi thực hiện kế hoạch giết người độc ác thứ hai của ngươi. Ngươi chờ đợi cho đến khi Trịnh San đã kết thúc cuộc sống của Lý và đứng cúi xuống nạn nhân của mình. Sau đó, ngươi đâm con dao của ngươi vào lưng Trịnh San. Tại sao ngươi phải chờ đợi một tuần trước khi giết Lý? Và tại sao ngươi lại cố gắng đến hai lần để giết phụ tá của ta trong hai đêm liên tiếp? Tại sao ngươi không chờ đợi một vài ngày, cho đến khi chúng ta từ bỏ ý định tìm kiếm trong ngôi đền? Nói ngay, Giang!
Đôi môi của Giang di chuyển nhưng không có âm thanh nào được phát ra.
– Nói sự thật! – quan án quát.
– Tuần trước… Tôi đã lục lọi giấy tờ của Lý một lần nữa khi anh ta đi ra ngoài. Anh ta đi đến hiệu sách cũ gần như mỗi ngày…. Cuối cùng anh ta đã tìm thấy cái anh cần tìm. Đó là một bộ sưu tập những lá thư được viết bởi trụ trì của ngôi đền cách đây hơn trăm năm. Một lá thư trong đó nói về việc xây dựng một căn hầm bí mật nằm trong ngôi đền. Khi Lý đã mua một cái thang dây… Tôi phải tiến hành mọi việc thật nhanh chóng vì tôi không thể mạo danh Lý thêm vài ngày nữa. Tôi phải nhanh chóng lấy được số vàng và biến khỏi đây…
– Ngày mai, ngươi sẽ trả lời đầy đủ về tội ác của ngươi tại tòa án – Địch công ngắt lời – Dẫn tù nhân đi, đội trưởng, và cho sáu người áp giải hắn ta vào tù! Ông Hứa, ngày hôm qua ông hỏi ta đã tìm ra manh mối gì về sự biến mất của con gái ông và phát hành một cáo thị. Bây giờ ta trả lời câu hỏi của ông. Ta đã tìm thấy một bức thư cầu cứu ký tên con gái của ông nói rằng cô ta bị giam giữ tại đây. Nó được bỏ vào một cái hộp bằng gỗ mun cũ. Nắp hộp được trang trí một hình tròn màu xanh ngọc, chạm khắc thành hình thức cách điệu của chữ “Thọ”. Ai đó đã khắc một bên của chữ Thọ từ “lối vào” và ở phía bên kia từ “bên dưới”. Bây giờ thì hình dạng của chữ Thọ đó tương đồng với sơ đồ của ngôi đền này. Hình chữ nhật ở trung tâm tượng trưng cho đại sảnh, các đường bị móp bên cạnh là phòng của các tu sĩ, hai hình vuông tượng trưng cho hai tòa tháp. Cái hộp rõ ràng được lựa chọn bởi vì sự giống nhau này, nó bổ sung cho các thông tin của lời nhắn. Các thông báo đã nêu rõ thời gian và vị trí của cái hộp. Vị trí được chỉ ra một cách chính xác bởi từ “bên dưới” được khắc vào bên cạnh bức tường phía sau đại sảnh: nó chỉ ra rõ ràng có một hầm mộ dưới bàn thờ!
– Con gái tôi đã tìm thấy cái hộp trong hầm mộ – Hứa lẩm bẩm – nhưng làm thế nào nó…
Địch công lắc đầu.
– Tin nhắn bên trong được ký với tên con gái ông, ông Hứa, nhưng không phải do cô ấy viết. Khi rơi vào hầm mộ này cô ta đã bị gãy cổ và chết ngay lúc đó. Chiếc hộp là một trò lừa bịp phức tạp, nó được tạo ra không phải để phục vụ cho vụ án này. Nhưng trò lừa bịp này đã giúp ta, tất nhiên, để tái tạo lại hành vi tội phạm và thu hút sự chú ý của ta đến một hầm mộ. Chiếc hộp được tìm thấy gần một hố thỏ, trên sườn đồi phía sau ngôi đền. Đó là một điểm để đưa không khí vào hầm mộ. Hầm mộ này có tất cả bốn đường thông khí, để giúp các tu sĩ không bị nghẹt thở khi họ trú ẩn trong đây vài ngày. Những hũ lớn trong hầm mộ chứa nước và gạo khô. Ta sẽ không giữ ông lâu hơn nữa, ông Hứa. Ta có trách nhiệm thu thập những gì còn lại của con gái ông cho vào quan tài và sẽ gởi đến ông để mai táng. Ta rất tiếc khi không thể cứu sống được cô ấy. Nhưng thượng đế đã trừng phạt kẻ giết cô ta. Và bây giờ những nghi ngờ về việc biến mất của con gái ông đã được giải quyết.
Ông Hứa cúi đầu thật sâu để thi lễ. Sau đó, ông quay lại và đi thẳng ra cửa, theo sau là vợ của ông. Quan án nhanh chóng đi vượt qua bà ta và nói nhỏ:
– Ngày hôm qua chồng bà đến tòa án không phải để tố cáo, bà Hứa. Ông ta muốn bảo vệ bà. Bây giờ bà có thể bắt đầu cuộc sống gia đình của bà một lần nữa. Đừng để mình bị cuốn vào những trò giải trí tầm thường. Bà đã thấy rằng nó có thể dẫn đến cái chết nhục nhã.
Bà gật đầu và nhanh chóng đi theo chồng mình.
Khi Địch công quay trở lại bàn thờ, ông thấy Lý Mai đang đứng tại đó, đầu cúi xuống nhìn chằm chằm vào cánh cửa bẫy khép kín.
– Xin vui lòng chấp nhận những biểu hiện cho sự thông cảm chân thành của ta, ông Lý.
Ông chủ ngân hàng cúi đầu chào.
– Tôi vô cùng thương tiếc vị hôn thê của tôi, thưa đại nhân. Tôi đã luôn hy vọng là cô ta vẫn còn sống. Và tôi vô cùng đau khổ vì đứa em trai đã đem lại sự ô nhục cho dòng họ của tôi.
– Ta rất tôn trọng nhân cách và con người của ông, ông Lý – quan án nói một cách nghiêm trọng – Một gia đình mà có một người đàn ông như ông có thể vượt qua được tất cả mọi chuyện.
Lý Mai cúi chào một lần nữa và vượt qua hành lang của lối vào.
Tu viện trưởng, người đã quan sát tất cả những việc này bằng đôi mắt lớn của bà, bây giờ từ từ lắc đầu và nói:
– Ngôi đền định mệnh này đã trở thành nơi diễn ra những sự kiện khủng khiếp nhất, bởi vì nó đã bị xúc phạm bằng những nghi lễ không chính thống. Đức Phật đã rời bỏ nơi đây và những linh hồn ma quỷ và ma quỷ đến trú ngụ. Tôi phải chuẩn bị thật kỹ lưỡng một buổi lễ cầu siêu. Tạm biệt, thưa ngài.
– Hãy đưa Tu viện trưởng đáng kính về nhà, Mã Tông! – Địch công ra lệnh. Sau đó ông quay sang đội trưởng – Cho bốn người thuộc hạ của ông đến cổng phía đông thị trấn để lấy thang tre, hai chiếc quan tài, cuốc, xẻng và dây. Đầu tiên chúng ta sẽ thu dọn các xác chết sau đó là vàng. Cuối cùng là làm sạch hầm mộ. Hãy đi ra ngoài và chờ đợi trong sân, bác Hồng. Bầu không khí ẩm mốc ở đây đã trở thành không thể nào chịu đựng nổi!
Quan án ngồi trên một tảng đá lớn dưới một trong những chiếc đèn lồng của tòa án, lão Hồng ngồi trên một cành cây. Từ phía bên kia của bức tường vang lên những giọng nói thì thầm xôn xao. Những người ăn xin và kẻ vô công rỗi nghề đi theo đoàn tuỳ tùng từ cổng thành phía đông đã háo hức đặt câu hỏi với những người bảo vệ, người đã mang tù nhân đi. Bây giờ thì họ đang túm tụm lại thảo luận về những sự việc đáng kinh ngạc vừa xảy ra.
Lão Hồng hít thở bầu không khí trong lành với lòng biết ơn. Ông cố gắng sắp xếp các sự kiện đã nối tiếp diễn ra một cách chóng mặt nhưng ông không thể sắp xếp các mảnh với nhau, theo suy nghĩ của ông dường như Địch công đã cố ý để lại một số thiếu sót. Cái chính là, tất nhiên, quan án đã thu hồi lại được số vàng. Ông mỉm cười mãn nguyện. Điều này chắc chắn sẽ làm cho các nhà chức trách ở Thủ đô có sự đánh giá cao đối với quan án. Nó có nghĩa là sẽ có một nơi bổ nhiệm tốt hơn là cái thị trấn ảm đạm này.
– Làm thế nào để vận chuyển vàng của triều đình, thưa ngài? – lão Hồng hỏi.
– Chúng ta có trách nhiệm đóng gói nó trong giấy dầu tại đây, bác Hồng, sau đó mang nó về tòa án trong kiệu của ta. Tại đó, chúng ta sẽ tiến hành kiểm kê chính xác số lượng vàng trước sự chứng kiến của những nhân chứng đáng tin cậy.
Quan án rơi vào im lặng. Khoanh tay trong tay áo rộng của mình, ông nhìn lên hình bóng đối xứng hoàn hảo của ngôi đền in bóng trên nền trời đêm. Lão Hồng trầm tư vuốt chòm râu thưa thớt của ông. Sau một thời gian dài, ông nói:
– Chiều nay, đại nhân đã đặt thẻ của Giang lên trên thẻ của Lý Cố. Ngài đã nghi ngờ Giang mạo nhận là họa sĩ?
Địch công nhìn xung quanh lão Hồng.
– Phải, ta đã nghi ngờ, bác Hồng. Điều làm ta chú ý là mặc dù người tự xưng là họa sĩ có thể tiến hành một cuộc trò chuyện thông minh về lý thuyết của ảnh nghệ thuật, nhưng một người có học cũng có thể làm được điều đó, cái chính là anh ta không thể vẽ được một bức tranh mà ta đã yêu cầu. Lời bào chữa của anh ta thật là vô nghĩa. Một họa sĩ, người đã vẽ được những bức tranh tuyệt vời, chúng tôi đã nhìn thấy trong xưởng vẽ những bức tranh anh ta vẽ cảnh quan biên giới, một chủ đề mà anh ta hoàn toàn quen thuộc và ta đã trả một mức giá cao. Và ta chưa bao giờ nghe từ người vợ thứ ba của ta về việc giấy vẽ tốt rất khó khăn để mua tại Lan Phương. Ngoài ra, khi ta bất ngờ đến thăm anh ta, cùng với Mã Tông, ta nhận thấy màu vẽ trong đĩa đã khô cứng và phủ đầy bụi, chứng minh là nó đã không được sử dụng trong ngày hoặc lâu hơn. Hắn nói với chúng ta rằng Giang không phải là người truỵ lạc đã xác nhận sự nghi ngờ của ta, mặc dù ta phải thừa nhận một điểm Mã Tông từng nói là các ông chủ quán thường đưa ra thông tin sai lệch. Cuối cùng, bác Hồng, đã có sự bùng phát bạo lực trong ba ngày qua. Ba người thiệt mạng và có hai vụ tấn công nhằm giết chết Mã Tông! Ta có cảm giác là có một người khác đã bước vào vụ án, một người nào đó hoàn toàn mới đã biết về số vàng, một người đàn ông đã có một lý do gì đó để cố gắng rời khỏi nơi đây càng sớm càng tốt. Giả thuyết của ta là đã có một sự mạo danh. Mặc dù cả hai người, hoạ sĩ và Giang được biết đến là những kẻ có thói quen thất thường, vẫn có nguy cơ chủ tiệm hay người bán hàng của khu phố nơi họ sinh sống đặt những câu hỏi khó trả lời. Sau khi thử nghiệm với cửa bẫy đã chứng minh rằng ông bà Hứa, Lý Mai và Tu viện trưởng vô tội, ta biết rằng Giang Mậu Tề chính là người chúng ta cần.
Viên chấp sự gật đầu.
– Có thể thấy rõ một cố gắng phi thường tự kiềm chế để không nhảy ngược trở lại khi biết mình đang đứng trên cánh cửa bẫy, sẽ mở ra hầm mộ sâu năm thước!
– Chính xác. Một định mệnh kỳ lạ đã xui khiến cả Giang và Lý đều không mở hộp gỗ mun và ta đã tìm thấy nó cùng với bức thư và bản sơ đồ ngôi đền của Xuân Vân. Và kỳ lạ hơn nữa là Giang, vì mong muốn bù đắp cho thất bại trong việc vẽ tranh, đã cố gắng tạo ấn tượng tốt với ta bằng cách nói cho ta biết làm thế nào anh ta nhận được chiếc hộp, không hề nghi ngờ những hậu quả nặng nề từ hành động đơn giản đó! Một trường hợp kỳ lạ, bác Hồng. Một trường hợp thực sự kỳ lạ!
Quan án lắc đầu và bắt đầu vuốt ve bộ râu dài của mình.
Lão Hồng liếc xéo Địch công. Sau một lúc do dự, ông hắng giọng và nói:
– Ngài đã giải thích tất cả mọi thứ, thưa đại nhân. Ngoại trừ bóng ma.
Địch công sực tỉnh ra khỏi trạng thái mơ màng của mình. Nhìn dán chặt vào lão Hồng ông chậm rãi nói:
– Bóng ma của ngôi đền sẽ không bao giờ xuất hiện ở đây một lần nữa, bác Hồng. Các mối quan hệ kỳ lạ, huyền bí và khác nhau xung quanh ngôi đền cổ này đã bị cắt đứt. Thế là tốt. Đến đây với chúng ta, Mã Tông!
Thấy khuôn mặt đầy vẻ thất vọng của người phụ tá cao lớn, quan án vội vã hỏi:
– Tình trạng của Phương đã trở nên tồi tệ hơn?
– Ồ không, thưa đại nhân. Tôi đã nhìn qua anh ta sau khi đưa Tu viện trưởng về nhà. Anh ấy đang rất tốt!
Địch công đứng dậy.
– Tốt! Có rất nhiều công việc cần phải thực hiện, Mã Tông. Chúng ta sẽ trở lại đại sảnh và mở hầm mộ. Những bộ đầu sẽ sớm có mặt tại đây với tất cả mọi thứ cần thiết để lấy hai xác chết và vàng.
Quan án vượt qua sân, hai người phụ tá theo sau.
Mã Tông thở ra một tiếng thở dài.
– Phụ nữ – anh nói với lão Hồng đầy vẻ u sầu – là sinh vật hay thay đổi.
– Đó là điều mọi người thường nói – viên chấp sự trả lời lơ đãng.
Mã Tông đặt bàn tay to lớn của mình trên cánh tay ông.
– Thanh niên tìm kiếm thanh niên, lão Hồng. Sống và học hỏi. Nhưng quá đau khổ.
Lão Hồng đột nhiên nhớ đến cái nhìn trìu mến mà người bộ đầu trẻ bị thương đã nhìn Xuân Vân và sự đỏ mặt bất ngờ của cô ta. Vì vậy, ông chỉ gật đầu và nhanh chóng bước đi.