Kẻ Mạo Danh

CHƯƠNG 29



Một giờ trước khi được vào gặp Toby, Craig đỗ chiếc Porsche đen ở bãi xe dành cho khách. Gã đã nói với Gerald rằng vào trong Belmarsh cũng khó chẳng kém việc trốn ra ngoài, rất nhiều cổng với đường đi bé tí hon, hai lần kiểm tra nhân thân và soát người rất kỹ mới đến được khu tiếp tân.
Sau khi báo tên, Craig và Payne nhận chìa khóa có đánh số và được hướng dẫn để những món đồ giá trị như đồng hồ, nhẫn, dây chuyền và tất cả tiền mặt mang theo vào trong tủ có khóa. Nếu họ muốn thay mặt tù nhân mua bất cứ thứ gì ở căng-tin, họ phải đưa đúng số tiền để đổi lấy những miếng thẻ nhựa ghi 1 bảng, 50 bảng, 20 bảng, 10 bảng, như thế tiền sẽ không được tuồn sang cho tù nhân. Tên của người vào thăm được gọi riêng, và trước khi được phép vào khu vực an ninh, họ còn bị soát người thêm lần nữa, lần này bởi một cai ngục cộng thêm sự trợ giúp của chú chó chuyên đánh hơi ma túy.
“Số một và hai,” giọng nói vang lên qua loa phóng thanh.
Craig và Payne ngồi ở góc phòng chờ, đọc Prison News và Lock and Key giết thời gian.
“Số mười bảy và mười tám,” khoảng bốn mươi phút sau mới đến lượt hai người.
Craig và Payne đứng dậy, đi qua một loạt cổng và phải chịu thêm một lần kiểm tra an ninh nghiêm ngặt nữa trước khi vào tới khu vực thăm tù, nơi họ được bảo ngồi ở dãy G, số 11 và 12.
Craig ngôi xuống chiếc ghế xanh bắt vít vào sàn nhà, còn Payne đi tới căng-tin mua ba cốc trà và hai thanh Mars Bars bằng thẻ tiền của nhà tù. Khi quay lại, gã đặt khay lên trên cái bàn cũng bắt vít vào sàn nhà rồi ngồi xuống ghế bên cạnh.
“Chúng ta phải đợi bao lâu?” gã hỏi.
“Một lúc thôi, tôi nghĩ vậy,” Craig trả lời. “Tù nhân chỉ được phép vào từng người một, và còn bị lục soát kỹ càng hơn chúng ta nhiều.”
“Đừng quay lại,” Beth thì thầm, “Craig và Payne đang ngồi sau anh ba, bốn hàng ghế. Hẳn là bọn này vào thăm ai đó.”
Danny bắt đầu rùng mình, nhưng cố không quay lại. “Nhất định là Mortimer,” anh nói. “Nhưng quá muộn rồi.”
“Muộn cái gì cơ,” Beth hỏi.
Danny nắm tay nàng. “Lúc này anh không nói nhiều được, nhưng Alex có thể sẽ cho em biết khi hai người gặp mặt lần tới.”
“Alex thường nói với em, anh ấy rất vui vì thấy anh bắt đầu cạo râu thường xuyên hơn, và nuôi tóc dài ra. Anh ấy nghĩ như thế sẽ tạo ra sự thay đổi lớn cho phiên kháng án tới.”
“Dạo này ga-ra làm ăn thế nào?” Danny hỏi, thay đổi đề tài.
“Vẫn tệ như thế,” Beth nói. “Em mong mình có thể thuyết phục được bố bỏ thuốc lá. Ông ho suốt, nhưng chẳng bao giờ chịu nghe lời mẹ và em.”
“Ông cho ai làm quản lý?”
“Trevor Sutton.”
“Trvor Sutton? Anh ta thậm chí không vặn nổi một con ốc xoắn.”
“Nhưng không ai tỏ ra muốn làm việc này,” Beth nói.
“Tốt nhất là em nên theo dõi kỹ các đơn hàng.” Danny nói.
“Tại sao? Anh nghi ngờ Trevor giở trò?”
“Không, mà vì anh ta không thể làm chúng tăng lên.”
“Nhưng em phải làm gì bây giờ,” Beth nói. “Bố không bao giờ tin em, và nói thật là em sẽ bị quá sức nếu làm thêm việc đó.”
“Ông Thomas bắt em làm nhiều thế cơ à?” Danny hỏi, và cười rất tươi.
Beth cũng cười. “Ông Thomas đúng là một ông chủ tuyệt vời, anh biết mà. Đừng quên ông ấy đã tốt với em thế nào trong suốt phiên xử trước. Và ông ấy còn tăng lương cho em nữa.”
“Anh không nghi ngờ chuyện đó là một thằng cha tử tế,” Danny nói, “nhưng…”
“Thằng cha tử tế?” Beth cười to.
“Tại Nick đó,” Danny nói, vô tình lùa tay vào mái tóc.
“Nếu anh cứ tiếp tục như thế,” Beth nói, anh sẽ không thể hòa nhập lại với các bạn cũ lúc sau khi được thả đâu.”
“Nhưng em có nhận ra,” Danny nói, phớt lờ lời nhận xét của Beth, “rằng ông Thomas rất thích em không?”
“Anh lại đùa rồi,” Beth nói. “Ông ấy lúc nào cũng cư xử như một quý ông hoàn hảo nhất.”
“Thế cũng không ngăn được việc ông ta thích em.”
 
“Làm sao mà ai đó có thể mang được ma túy vào cái chỗ được bảo vệ kỹ thế này nhỉ?” Payne hỏi, nhìn lên camera và các nhân viên an ninh đang dùng ống nhòm quan sát họ từ trên ban-công.
“Dĩ nhiên la thủ đoạn của những người dám làm việc này cũng ngày càng tinh vi hơn,” Craig trả lời. “Trong tã của trẻ con, tóc giả – có người còn nhét hàng vào bao cao su rồi nhét vào hậu môn, vì biết không phải ai cũng thích khám chỗ đó. Có người thì nuốt hàng vào bụng, nói chung họ liều lắm.”
“Và nếu gói hàng bục ra bên trong người họ?”
“Rất có thể sẽ chết một cách đau đớn. Tôi đã từng có khách hàng có thể nuốt một gói nhỏ heroin, giữ nó trong cổ họng và ho ra khi về tới buồng giam. Anh cho rằng như thế là quá mạo hiểm, nhưng thử hình dung xem, lương tuần chỉ có mười hai bảng, trong khi bán một gói như thế sẽ kiếm được năm trăm bảng – nên họ thấy đáng để mạo hiểm đấy chứ. Lý do duy nhất chúng ta phải trải qua những cuộc khám xét gắt gao thế chính là vì cái thứ đã đẩy Toby vào đây.”
“Cứ thế này thì chúng ta sẽ bị hết giờ mà Toby vẫn chưa kịp xuất hiện mất,” Payne nói, nhìn xuống cốc trà đã nguội ngắt.
“Xin lỗi đã làm phiền ông.” Một nhân viên tới bên cạnh Craig. “Tôi e là Mortimer đang bị ốm, và không thể ra gặp các ông chiều nay.”
“Chó chết, thật là ẩu tả,” Craig nói lúc đứng dậy. “Ít ra thì hắn cũng nên báo cho chúng ta một tiếng chứ.”
 
“Khẩn! Mọi người về buồng giam ngay lập tức, tôi nhắc lại, ngay lập tức!” giọng nói vang lên. Tiếng còi hơi, tiếng còi điện kêu om sòm và các cai ngục đổ ra từ các góc hành lang, lùa tù nhân về buồng giam của họ.
“Nhưng tôi phải đi báo cáo…” Danny vùng vằng khi cánh cửa đóng sập trước mặt.
“Không phải hôm nay, nhóc Danny,” Al Mập nói, và châm thuốc.
“Chuyện này là thế nào?” Nick hỏi.
“Có thể là một hoặc nhiều chuyện đấy,” Al Mập nói, rít một hơi thật sâu.
“Chuyện ra sao?” Danny hỏi.
“Ở khu bên kia có thể có đánh nhau, và đám cai ngục sợ nó có thể lan rộng ra. Hẳn là ai đó đã tấn công cai ngục – Thượng đế hãy phù hộ cho thằng khốn đó. Hoặc là một chú bán ma túy bị bắt tại trận, hoặc có người đốt đuốc trong phòng giam. Có thể lắm,” anh ta nói thêm, sau khi thở ra một cụm khói lớn. “là tự treo cổ.” Anh ta búng mẩu thuốc xuống sàn. “Các cậu nghĩ thế nào cũng được, vì có một điều chắc chắn là – chúng ta sẽ không được ra ngoài trong ít nhất hai mươi bốn giờ tới, cho đến lúc mọi thứ đã được xử lý xong xuôi.”
Al Mập có vẻ đúng, hai mươi bảy giờ sau họ mới nghe thấy tiếng chìa khóa lách cách trong ổ.
“Chuyện này là thế nào đây?” Nick hỏi viên cai ngục khi cửa được mở ra.
“Không biết,” vẫn câu trả lời quen thuộc.
“Có người treo cổ,” một giọng nói từ buồng giam bên cạnh vọng sang.
“Tội nghiệp thằng khốn, hẳn là đã biết đó là cách duy nhất để ra khỏi chỗ này.”
“Có biết là ai không?” Một giọng khác hỏi.
“Một chú nghiện,” giọng khác vang lên, “mới vào với chúng ta được vài tuần.”
 
Gerald Payne hỏi người bảo vệ ở Inner Temple lối tới văn phòng của ông Spencer Craig.
“Góc bên kia của tòa nhà, thưa ông. Số sáu. Văn phòng của ông ấy nằm ở tầng trên cùng.”
Payne đi theo con đường nhỏ, tuân theo bảng chỉ dẫn được viết rất rõ ràng, Không bước lên cỏ. Gã rời khỏi văn phòng ở Mayfair ngay sau khi Craig gọi điện, “Nếu anh tới văn phòng tôi vào khoảng bốn giờ, anh sẽ không phải chịu thêm một đêm mất ngủ nào nữa.”
Khi Payne sang tới phía bên kia của tòa nhà, gã bước lên những bậc thang bằng đá và đẩy cửa vào. Đó là một hành lang lạnh lẽo, thoáng mùi ẩm mốc với những bức tường trắng ảm đạm được trang trí bằng ảnh vài vị thẩm phán già. Cuối hành lang là một cầu thang gỗ, trên tường treo tấm bảng đen bóng ghi tên người và số phòng. Như người bảo vệ đã nói, văn phòng của Craig ở tầng trên cùng. Phải leo lên chiếc cầu thang cọt kẹt này Payne mới thấy mình yếu thế nào – gã đã thở dốc trước khi tới tầng hai.
“Ông Payne?” Người phụ nữ trẻ đứng ngay sát bậc thang trên cùng hỏi. “Tôi là thư ký của ông Craig. Ông ấy vừa gọi điện, nói là đang từ Old Bailey về đây, chắc chỉ vài phút nữa thôi. Ông vui lòng đợi trong văn phòng ông ấy nhé?” Cô ta dẫn gã đi dọc hành lang, mở cửa và mời gã vào.
“Cảm ơn cô,” Payne nói khi bước vào căn phòng lớn, đồ đạc thưa thớt, chỉ có một cái bàn làm việc, hai cái ghế da lưng cao đặt ở hai phía đối diện.
“Ông dùng một tách trà nhé, thưa ông Payne, hay cà phê?”
“Không, cảm ơn cô,” Payne nói khi đang nhìn ngắm quang cảnh xung quanh qua cửa sổ.
Cô ta đóng cửa lại, và Payne ngồi xuống đối diện với bàn của Craig, gần như trống trơn, như thể không có ai làm việc ở đó vậy – không ảnh, không hoa, không vật kỷ niệm, chỉ một tập giấy thấm, một máy cassette và một phong bì lớn, chưa mở ra, ghi Ông S. Craig và đóng dấu “Mật”.
Vài phút sau Craig bước vào, cô thư ký theo sát bên cạnh. Payne đứng dậy bắt tay Craig, như thể là khách hàng chứ không phải bạn cũ.
“Ngồi đi, ông bạn thân,” Craig nói. “Cô Russell, cô có thể bảo đảm chúng tôi không bị làm phiền chứ?”
“Dĩ nhiên, thưa ông Craig,” cô ta trả lời rồi bước ra ngoài, đóng cửa lại.
“Có phải đây là thứ tôi nghĩ không,” Payne hỏi, “chỉ vào chiếc phong bì trên bàn Craig.
“Chúng ta sẽ biết ngay thôi,” Craig nói. “Nó đến sáng nay, lúc tôi còn đang trên tòa.” Gã xé phong bì và dốc thứ bên trong lên tập giấy thấm – một cuộn băng cassette nhỏ.
“Làm sao anh lấy được thứ này?” Payne hỏi
“Thật may là tôi có cả bạn bè ở cả những chỗ chẳng ra làm sao cả.” Gã mỉm cười, cầm cuộn băng lên và nhét nó vào máy. “Chúng ta sắp biết Toby đang nóng lòng chia sẻ điều gì với phần còn lại của thế giới.” Gã nhấn nút play. Craig ngả người vào lưng ghế, còn Payne vẫn ngồi sát mép, đầu gối chạm bàn. Vài giây sau một giọng nói vang lên.
“Tôi không biết ai trong các người đang nghe cuộn băng này.” Craig không nhận ra giọng của ai. “Có thể là Lawrence Davenport – nhưng chắc không phải. Gerald Payne khả dĩ hơn.” Payne cảm thấy cơn ớn lạnh chạy dọc cơ thể. “Nhưng tôi nghĩ nhiều khả năng nhất là Spencer Craig.” Craig không tỏ thái độ gì. “Cho dù đó là người nào trong các anh, tôi cũng muốn để các anh biết rằng, cho dù tốn cả quãng đời còn lại, tôi cũng bằng mọi cách buộc các anh phải vào tù vì tội giết Bernie Wilson, chưa kể đến việc tôi bị tống giam một cách oan ức và trái pháp luật. Nếu các anh vẫn hi vọng sờ được tới cuốn băng các anh đang tìm, để tôi nói luôn, nó ở chỗ mà các anh không bao giờ tìm thấy, cho tới khi các anh cũng bị nhốt trong này.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.