Bàn Tay Gã Đao Phủ

CHƯƠNG 1



Họ phải chôn gã đao phủ!
Gọi là đắp điếm qua loa thì đúng hơn. Chẳng một ai mong muốn mang lại cho tay đao phủ một nấm mộ tử tế, theo đúng khuôn phép của đạo Thiên Chúa giáo, bởi một gã đàn ông kiếm ăn bằng nghề đẩy người sống vào cái chết là một kẻ đáng bị khinh bỉ. Kể cả từ phía những người ra lệnh cho gã hành động.
Thậm chí đến cả người đào huyệt trong nghĩa trang cũng không muốn chấp nhận xác chết của gã. Vì thế mà nhân viên hữu trách trong Tòa Thị chính đã phải bước chân ra bến cảng, đến nói chuyện với đám dân bụi đời ở đó, mong tìm cho ra một hai người đàn ông thích hợp làm việc này. Ở đây luôn có đủ những kẻ sẵn sàng bán cả mẹ đẻ của mình lấy tiền, vì thế mà ngay lập tức có tới mười cánh tay giơ lên nhận việc.
Thật ra thì nhân viên của Tòa Thị chính không nói cụ thể đây là việc gì. Ông ta chỉ hứa hẹn sẽ thưởng một đồng tiền bằng bạc khi xong việc, và chọn hai người khỏe mạnh nhất trong cả đám nọ.
Họ phải ký hợp đồng, bởi họ không biết viết nên người ta để cho họ đánh dấu hình chữ thập. Chỉ sau đó họ mới được biết người ta đã chọn họ cho công việc gì.
Không còn đường lui, mặc dù khi hiểu ra họ rất muốn bỏ cả số tiền hứa hẹn, thế nhưng nhân viên của Tòa Thị chính cư xử thẳng tay và bắt họ thực hiện hợp đồng đã ký.
Họ nhận được một con ngựa, một xe kéo đồ và phải tự tay nâng cái quan tài làm bằng gỗ thông rẻ tiền lên trên sàn xe. Người ta chỉ cho phép họ phủ lên trên một lần vải che. Vải được chăn xuống ở hai phía bằng những dụng cụ nặng nề mà người ta trao cho hai người đàn ông.
Vậy là họ rời thành phố.
Đó là một ngày mùa đông u ám. Một ngọn gió đông lạnh giá từ phía Đại Tây Dương lồng lộng tràn về. Trời đầy tuyết, nước trong bến sủi bọt giận dữ đập vào cầu cảng, và ngọn gió tru lên trong những tàn cây giống hệt tiếng của những con chó sói đói.
Cả hai người đàn ông co ro ngồi trên ghế xà ích. Giống như con ngựa đen đằng trước, cả họ cũng phải gồng mình chống lại làn gió tàn nhẫn. Cổ áo bành tô cũ kỹ được họ kéo cao lên, dây cương được kẹp thật chắc để họ có thể đút tay vào túi cho đỡ lạnh.
Trước khi họ đến rìa thành phố trời đã bắt đầu mưa. Đó không phải là thứ mưa phùn thường gặp của mùa đông, mà những lớp mây rất dày bên trên đang nhả xuống một hỗn hợp của nước và tuyết. Chỉ trong chớp mắt, cả hai người đàn ông trên ghế xà ích đã ướt như chuột lột.
Giờ thì họ cất tiếng chửi thành lời. Họ chửi thời tiết, chửi cuộc đời của họ và chửi luôn cái công việc khốn nạn.
Thêm vào đó, trời tối sụp xuống. Họ hầu như không thể nhờ cậy vào những chiếc đèn đang lúc lắc ở trước các cửa ngôi nhà bên đường, bởi ánh sáng của những ngọn đèn ấy không xuyên qua được màn mưa tuyết.
Người ta ra lệnh cho họ phải chôn gã đao phủ ở gần bãi biển, nơi có một dải đất dài ra như một chiếc lưỡi rắn thập thò trên mặt nước. Điều đó có nghĩa là họ phải đi khá xa.
Trong thời tiết như thế này và với một món hàng như vậy, hai người đàn ông hoàn toàn chẳng muốn đi lâu.
Họ nói chuyện và thỏa thuận với nhau rằng hễ tìm thấy một vị trí thuận tiện nào đó là họ sẽ trút cái của nợ xuống ngay.
Một người nhảy xuống ghế xà ích. Người khác cầm dây cương và để con ngựa chầm chậm đi tiếp, cho người kia theo kịp. Và anh ta tìm thấy một chỗ. Nó thậm chí lại nằm rất thuận lợi. Một hàng cây sẽ che không cho người đi trên đường biết họ đang làm gì. Thêm vào đó là lớp màn mưa tuyết dày đặc như một tấm rèm. Quá thuận tiện.
Khi người đàn ông ngồi trên ghế xà ích nghe tiếng gọi của bạn mình, anh ta kéo cương cho ngựa dừng lại. Người đàn ông thứ hai đến bên cạnh anh.
– Tao tìm thấy chỗ rồi! – Anh ta kêu lên và ngước mặt lên chỗ ghế xà ích.
– Chỗ tốt chứ?
– Tốt, bọn mình có thể khiêng quan tài ra đó.
Người đàn ông thứ hai xoa hai bàn tay ướt sũng rồi nhảy ra khỏi ghế xà ích ở phía bên kia. Anh ta hạ chân xuống một vũng nước, nước bắn tóe lên. Hai người đàn ông lại gặp nhau ở khoảng hở phía sau xe. Họ kéo tấm vải phủ ra. Một người vác hai cái xẻng đi trước, người kia dừng lại và nhìn xuống cái quan tài cũ kỹ, được đóng bằng những tấm ván méo mó xiên xẹo.
Nước mưa, bây giờ trộn lẫn cả nước đá, đập rào rào xuống nền gỗ. Gió tru lên như một bầy chó sói, rung lắc những cành cây không lá. Đâu đó trong màu xám của bầu trời và thật xa ở ngoài khơi, có những tia chớp lóe lên. Đứng ở đây không nghe thấy tiếng sấm.
Một không khí rờn rợn phủ xuống người đàn ông cô độc đứng trong mưa. Thời tiết này, cái hợp đồng này, chiếc quan tài, đó là những thứ mà anh ta sợ. Và anh ta hy vọng người bạn nhanh quay trở lại để họ có đôi.
Vì nắp quan tài không kín, nước mưa chảy lọt qua những kẻ hở và chắc chắn cũng sẽ hắt xuống mặt của kẻ đã chết.
– Ông không còn cảm thấy gì nữa. – Người đàn ông đứng cạnh lẩm bẩm và thò tay vào túi lục lọi tìm lấy một mẫu thuốc lá.
Anh hy vọng thuốc không bị ướt quá, tay anh vẫn còn đút trong túi thì đột ngột tai nghe thấy một tiếng rên rỉ khẽ khàng.
Người đàn ông cứng đờ ra. Một làn tuyết lạnh chạy trên gương mặt đẫm nước mưa, hai mắt mở lớn, anh nhìn trân trối xuống cái hòm của tử thần. Tiếng rên rỉ kia phát ra từ quan tài!
Nhưng lão đao phủ chết rồi. Lão đâu có nói được nữa, không nói được mà cũng chẳng thể rên rỉ.
Khi nghe thấy những tiếng chân trầm nặng đằng sau lưng mình, người đàn ông xoay lại, giơ cả hai tay lên cao và thét lớn.
Như một bóng ma, thân hình kia nhô ra từ những đám mưa trầm nặng. Người kia cúi lom khom, và khi tiếng chửi rủa cất lên, người đàn ông thở ra nhẹ nhõm, bởi dáng người trong mưa kia là Fred, bạn anh ta.
– Mày làm sao thế? Link? – Fred hỏi – Chẳng lẽ vừa nhìn thấy quỷ sứ hả?
Link hối hả gật đầu.
– Nói thế cũng đúng.
– Vậy trông Satan thế nào? – Giọng Fred hơi khàn khàn – Nó có đuôi không? Nó có nhổ ra lửa không?
– Không, không. Nhưng mà người chết rên lên!
Link nói điều đó với một vẻ quả quyết khiến cho Fred quay sang nhìn anh trân trân, đầu lắc lia lịa. Thế rồi anh ta giơ tay gõ lên trán.
– Cái xác chết này rên rỉ phải không?
– Đúng. Cậu tin hay không thì kệ cậu. Nhưng lão đao phủ đã chết mà thốt ra tiếng rên. Mình nghe rất chính xác. Thề với cậu như thế.
– Thôi, đừng nói nữa. Mày đang say rượu. Người chết là người chết. Có thế thôi, xong việc!
– Không phải thế – Link hào hển – Tao đã từng có thời đi biển, ở đó tao đã nghe rất nhiều chuyện…
– Có kể thì cũng chẳng ai tin đâu. Giờ thì im mồm đi và phụ một tay nào. Tao đang muốn phi cái quan tài đáng nguyền rủa này đi càng nhanh càng tốt. Thật là khó chịu bởi cái thời tiết khốn nạn này.
Link biết rằng anh ta không thể thuyết phục được bạn mình. Anh ta nhún vai và đứng nhìn Fred kéo cái quan tài chạy dọc khuôn đựng đồ.
Khi nó chỉ còn ghé trên xe bằng một cạnh, cả Link cũng mó tay vào. Trước khi đặt hai bàn tay vào chiếc quan tài, anh ta nhìn nó thêm một lần nữa bằng ánh mắt rụt rè.
– Làm đi, đồ ngu!
– Vâng, vâng. – Link sờ tay vào lần gỗ.
Quan tài không nhẹ. Lão đao phủ vốn là người to béo. Để làm những ông việc như thế, người ta chỉ có thể cần tới những người đàn ông lực lưỡng. Dân vùng này đồn rằng, thời sống lão giết nạn nhân của lão bằng chỉ một bàn tay phải. Một bàn tay phải tròng dây thòng lọng vào cổ tội phạm để rồi sao đó cũng với một bàn tay phải kéo họ lên giá. Vì lý do đó mà lão đao phủ đã được dân vùng này đặt cho một bí danh: “Bàn tay thòng lọng”!
Tên thật của lão là Gatano, nhưng cái tên “Gatano – bàn tay thòng lọng” đã trở thành một cái tên độc trong thành phố.
Hai người đàn ông phải đi ngang qua con đường phủ đầy bùn, họ sang phía bên kia và súyt nữa thì bị ngã, bầu trời tối quá khiến họ không nhìn thấy rãnh nước.
Fred bị trượt chân xuống dưới hào, nước đột ngột ngang đến đầu gối anh ta, trong khi Link vẫn còn đứng ở phía bên trên và gắng gượng tóm lấy cái quan tài bây giờ nằm chênh chếch.
– Bám chặc vào! – Fred kêu lên – Tao không muốn cái quan tài rơi xuống và vỡ tan tành ra.
– Thế mày nghĩ tao muốn hả? Trong khi cái xác chết này còn sống.
– Đừng có sợ quá mà khiến tao nổi điên, nếu không tao đập vào mõm mày đấy! – Fred chửi.
– Mày cũng sợ phải không?
– Không, tao không sợ, giờ chú ý này. Tao đi tiếp đây.
Fred trèo lên khỏi hào nước, ngưởi kia đi theo và chẳng bao lâu cả chân anh ta cũng ngập tới tận gối vào nước.
Link thậm chí chẳng thèm bực bội. Anh ta đã quá quen với cảnh này rồi. Trong đôi bạn thì Fred luôn là kẻ mạnh mẽ hơn. Nhưng nỗi sợ vẫn ở lại. Mà rõ là anh ta đã nghe thấy những gì anh ta quả quyết.
Xác chết còn sống…
Họ đi tiếp, hai người đàn ông bước chân trên một khoảng đất ruộng đầy bùn đã được cày xới sẵn. Mưa bây giờ còn nặng hạt hơn ban nãy. Dù có giơ tay lên trước mặt thì họ cũng chẳng nhìn thấy được bàn tay của mình. Bàn chân của họ sục trong bùn, chốc chốc nước lại bắn tóe lên mỗi lần họ dẫm vào vũng nước.
– Sắp tới nơi chưa? – Link hỏi.
– Còn vài mét nữa.
Họ dừng lại trước một dãy bụi cây dày kín. Đây là nơi Fred đã đặt hai cái xẻng xuống sẵn. Giờ họ có thể bắt tay vào việc.
Cẩn thận, họ đặt quan tài xuống. Chính ở chỗ họ vừa đặt nó xuống là một luống cày, và cái quan tài hơi nghiêng sang bên trái. Nhưng nó không bị lật nhào.
– Vào việc đi!
Link nghe giọng ra lệnh của người bạn và giơ tay cầm lấy xẻng. Đất mặc dù mềm nhưng nặng, và cả hai người đàn ông phải lao động cật lực như hai con bò giữa trời mưa xối xả, hai con bò đương kéo cày trên cánh đồng.
Chốc chốc lại có tiếng nguyền rủa bay khỏi bờ môi họ. Họ nguyền rủa bản thân mình, nguyền rủa thời tiết, nguyền rủa lão đao phủ đã chết, nguyền rủa hợp đồng đã ký với Tòa Thị chính và cuối cùng họ nguyền rủa cả thế giới.
Thế rồi họ cũng đào được một nấm huyệt, thế nhưng nước mưa rất nhanh chóng chảy vào trong và đe dọa lấp đầy hố. Họ khẩn trương hơn nữa, bởi họ không muốn thả người đã chết xuống một hồ nước.
Cuối cùng huyệt đã sâu đến mức độ họ có thể thả quan tài xuống được.
– Thế là xong. – Fred nói – Giờ vội lên! – Anh ta thêm vào khi thấy Link dừng lại, há miệng ra thở. – Ta sắp xong đến nơi rồi, rồi sau đó mình sẽ uống rượu tha hồ cho sướng đời.
Họ đi sang bên, khiêng cái quan tài lên, giơ nó lên cao. Giờ nó đã đứng rất lâu trong nước mưa. Gỗ không thuộc loại tốt, nó đã bắt đầu mục, thêm vào đó là lớp bùn đã phủ lên một phần nào khiến cho quan tài trơn nhẫy.
Họ giơ quan tài lên, nhưng Link tỏ ra vụng về. Cái quan tài trượt khỏi những ngón tay anh. Bởi không kịp nhảy sang bên, nó đập xuống cả chân anh, ngón chân cái đau điếng, và Link bắt đầu la thét như một người điên.
– Khốn nạn, cái gì thế… – Fred không nói tiếp được nữa. Anh ta nhìn trân trối xuống dưới cái hòm tử thần rẻ tiền, và mắt anh ta như muốn vọt lên cao, ra khỏi hố, khi anh ta ý thức được cái bức tranh rùng rợn đang bày ra trước mặt mình. Qua cú đập xuống dưới, nắp quan tài bật ra.
Người chết nằm trước mặt họ.
Giờ họ có thể nhìn vào cái gương mặt màu xám xịt, méo mó và ướt sũng, nhìn vào khoang miệng mở ngoác ra. Nhưng đó không phải là điều kinh khủng nhất, họ đã không ít lần nhìn thấy người chết. Nhưng khủng khiếp nhất bây giờ là cơ thể của lão đao phủ.
Lão đã mất đi cánh tay phải!
Link giơ cả hai bàn tay lên che lấy mặt, âm tần rên lên, rồi xoay người muốn bỏ chạy. Thế nhưng anh ta vấp phải một gò đất. Anh ta mất thăng bằng trên nền đất trơn, và cuối cùng ngã đập mặt xuống dưới lớp bùn của cánh đồng.
Anh ta nằm lại ở đó và la thét. Cho tới khi Fred cúi xuống và đập vào gáy anh ta.
– Này, mày điên chưa? – Anh ta sừng sộ với bạn – Mày không giở cái trò la thét đó với tao ở đây được, hiểu chưa!
– Nhưng mà bàn tay….
– Thây kệ cái bàn tay đó. Nó bị mất rồi, cánh tay cũng thế.
Link cố nhỏm người lên, đưa tay vuốt nước và bùn ra khỏi mặt.
– Đúng, tao cũng nhìn thấy rồi, cánh tay phải không có ở đây. Thế nó ở đâu, quỷ quái!
– Sao mày hỏi tao? Làm sao tao biết được? – Fred cười lớn – Có lẽ nó ở chỗ mày vừa nhắc đến đấy, chỗ của quỷ Satan!
– Nhưng lão đã rên lên…
– Thôi đi nào! Bọn mình đẩy cái quan tài này xuống huyệt và thế là xong. Mày nghĩ sao, mày tưởng tao muốn ở đây lâu hơn hả? Chắc là bọn họ đã cắt cánh tay của tên đao phủ rồi, có thế thôi!
– Tại sao họ lại làm điều đó?
– Bởi lão chính là Gatano, lão đao phủ. Thế đấy!
Link tóm chặt lấy người bạn mình.
– Khốn nạn, Fred! – Anh thì thào – Khốn nạn, tao sợ lắm. Tao sợ gần chết! Mày hiểu không? – Cả người anh ta run bắn lên, nhưng không phải run vì lạnh.
– Thế thì vội lên, ta làm thật nhanh – Fred giằng người ra khỏi đôi bàn tay Link thật mạnh. Cả anh ta cũng thấy nôn nao, nhưng anh ta không thích thú nhận.
Hai người đàn ông quay trở lại. Nước mưa đang tuôn xối xả vào quan tài để mở. Xác chết vẫn còn nằm đó, đúng như họ ban nãy vừa nhìn thấy. Không một ai thèm vuốt mắt cho kẻ đã chết. Hai con ngươi trông như hai hòn đá sáng màu, chết chóc.
– Giờ đẩy cái này xuống dưới huyệt! – Fred ra lệnh.
Link vâng lời. Qua lực ấn của cả hai người đàn ông, chiếc quan tài chui từ từ về phía cái huyệt đang mở ra, nó đến bên thành huyệt, nghiêng rồi cuối cùng đổ xuống.
Một đầu quan tài đập xuống, nước bắn tóe lên thật cao, thế rồi cái quan tài vừa trượt xuống vừa dần dần nghiêng sang bên, xúyt nữa thì nó làm rơi mất xác chết bên trong, nhưng xác chết không rơi hẳn ra ngoài mà chỉ trượt đi, cuối cùng nằm lại, thò một phần ra khỏi khúc dưới của cái hòm thần chết.
Nhưng hai người đàn ông chẳng thèm để ý. Lúc bấy giờ họ đã cầm đến xẻng và đang hối hả xúc đất ướt đổ lại vào huyệt, lấp đầy huyệt.
Họ làm việc còn nhanh hơn nữa. Link thở ra nhẹ nhỏm khi hình ảnh cái quan tài biến mất bên dưới lớp đất nặng và ướt.
Năm phút sau, họ chống xẻng vào đất mềm.
Họ đã xong việc.
– Bây giờ biến ngay! – Fred nói và cất bước đi luôn.
Lin chạy theo sau. Anh ta đưa mắt nhìn quanh một lần nữa. Và anh ta có cảm giác như một bàn tay khổng lồ cùng một sợi dây thòng lọng đang trôi bềnh bồng trên nấm huyệt.
Link sợ vào đến xương tủy. Thế nhưng anh không nói với bạn mình một lời. Có nói thì anh ta cũng chỉ cười mà thôi…
 
Khoảng 200 năm sau, không một ai còn nghĩ đến “Gatano – bàn tay thòng lọng”. Bởi phía trên của miếng đất chôn cất gã đao phủ bây giờ đã mọc lên một phần của New York, chính cái phần phố xá mà người ta coi là nhộn nhịp tấp nập nhất thành phố này: Greenwich Village, trên bán đảo Manhattan.
 
– Một buổi gặp mặt tuyệt vời, Lucille. Tôi cám ơn chị. Thật đấy, chị đã giúp cho tôi rất nhiều. – Người đàn bà già nua bắt tay người phụ nữ tóc vàng và cảm ơn với khóe miệng giật giật lên vì xúc động. – Có lẽ lần sau ta sẽ gặp được ông ấy, đúng không?
– Chắc chắn là như thế, lúc đó bà có thể nói chuyện được với chồng mình.
– Mặc dù ông ấy đã qua đời trên ba năm rồi?
– Cái ấy không sao cả. Những quân bài của tôi sẽ mời về bất cứ người nào từ thế giới bên kia.
– Tôi biết mà, Lucille. Chị có những con bài thần kỳ.
Người đàn bà già nua gật đầu và bước đi.
Lucille, cô thầy bói, thở ra nhẹ nhõm. Vậy là xong. Những buổi gọi hồn rất vất vả. Điều quan trọng nhất là chị luôn phải chú ý, tập trung hết sức mình vào những mong ước và vấn đề của từng khách hàng riêng lẻ, một công việc chẳng thích thú chút nào, nhưng không còn con đường nào khác dẫn tới thành công.
Mà ngoài ra, bói bài và gọi hồn bây giờ đang là mốt. Những ai sống ở Greenwich Village đều có cơ hội kiếm thêm một vài đồng đô la bằng nghề bói bài và cầu hồn hoặc xem tướng số.
Lucille tên thật cũng chẳng phải Lucille. Chị đã tự đặt cho mình cái tên đó. Vốn cha mẹ sinh ra chị là Scarlet O’Banion. Một cái tên tiêu biểu của đất nước Irland. Chị không che giấu được đôi con mắt màu xanh lục của mình, nhưng đã cho người ta nhuộm để che mất màu đỏ của mái tóc.Giờ chị thành một phụ nữ tóc vàng. Mặc dù cũng hơi có phần kỳ lạ, bởi đại đa phần những nữ đồng nghiệp của chị đều nhuộm tóc đen hoặc lại ưa thích một màu đỏ bí hiểm.
Scarlet chẳng mấy quan tâm đến chuyện đó. Đối với chị, chỉ có khả năng là thứ duy nhất quan trọng. Mà chị rất có khả năng trong chuyện bói bài. Danh tiếng của chị đã truyền ra xa, và danh sách khách hàng của chị đã bắt đầu trở thành đáng nể.
Ngày hôm nay chị đặc biệt bận bịu với công việc nặng nề. Vị khách cuối cùng là người đàn bà già nua kia, vợ góa của một họa sĩ, rất mong muốn dùng những quân bài để thiết lập quan hệ với người chồng đã chết của mình, chỉ nhằm duy nhất một mục đích là để hỏi ông xem, thời còn sống ông đã phản bội bà đi ngoại tình với những ai?
Đúng là đời này có lắm chuyện…
Lắc đầu, Lucille quay trở lại căn hộ của mình. Chị đã tiễn vị khách cuối cùng ra đến hết khoảng hành lang. Giờ chị đóng cửa, bật đèn trong sảnh và thoáng tựa người vào tường một vài giây đồng hồ. Vừa đứng đó chị vừa cân nhắc sẽ sử dụng phần còn lại của buổi tối vào viếc gì, và chị quyết định không đi chơi mà ở lại nhà.
Như thế là tốt hơn cả.
Thời tiết như thế này, chị không thích lao mình vào dòng người hối hả nhộn nhịp của khu Greewich. Thế nhưng cũng chỉ có một số người là ngại trời xấu như chị thôi. Đám trai trẻ bao giờ cũng hăm hở hưởng thụ, chơi bời.
Mà bản thân chị thì thấy mình không còn trẻ nữa. Suy cho cùng chị đã sắp bước sang tuổi 40, và dĩ nhiên không còn cái nét hăm hở, bộc phát như trước đây 20 năm.
Lucille sống trong một ngôi nhà cổ. Ngôi nhà cổ đến mức độ được xếp vào hàng di sản văn hóa. Nó có bốn tầng nhà. Chị thuê một tầng, chị có tất cả tám căn phòng.
Đó là những căn phòng có trần phòng rất cao, tất cả những cửa phòng hướng ra phố đều có cửa sổ với ban công.
Lucille đi vào phòng làm việc của mình. Chị sử dụng một căn phòng cho tất cả những chuyện làm ăn. Chị quyết định phải viết một vài biên lai, hoàn tất một số giấy tờ nữa. Đấy là công việc dành cho buổi tối hôm nay.
Khi ngồi uống đàng sau bàn làm việc, bật cái đèn bàn có chùm làm bằng nhựa màu đỏ. Lucille lại đâm nghĩ ngợi, nghi ngờ, liệu có nhất thiết phải làm những công việc tính toán ngay bây giờ không?
Thật ra chị có thể gạt công việc đó sang ngày hôm sau, bây giờ chị cảm thấy trong người quá mỏi mệt, ngày hôm nay rất đông khách và chị đã làm việc quá sức.
Lucille xoay người trên chiếc ghế để nhìn về hướng khuôn gương treo trên tường.
Chị nhìn thấy bản thân mình, nhưng rất xa xôi.
Đó là một khuôn gương đặc biệt, kỳ lạ. Nói cho đúng hơn đó là một tác phẩm nghệ thuật. Khuôn bên ngoài của nó là một hình chữ nhật dài. Thế nhưng bên trong gương có cháy rất nhiều những ngọn đèn nho nhỏ. Nó chạy dọc theo bốn cạnh của hình chữ nhật nọ, nó được tạo dựng sao cho người soi gương luôn có cảm giác mình đứng hay ngồi ở rất xa, giống như Lucille bây giờ.
Chị nhìn thấy trong gương một người phụ nữ mặc một chiếc váy dài màu xanh dương có mái tóc hơi rối. Mẹ chị hay nựng chị và gọi là con búp bê xinh xinh. Kể ra bà cũng có phần có lý. Bởi chị có gương mặt tròn trĩnh của một con búp bê, mặc dù bây giờ xung quanh mắt đã hiện lên một vài nếp nhăn.
Ngày hôm nay thậm chí đến cả báo chị cũng chưa kịp đọc. Nó vẫn còn gấp gọn gàng trên bàn làm việc. Chị đặt dài hạn hai tờ báo: New York Times và một tờ báo địa phương, tờ Village Star. Giờ này chị không còn tâm trí đâu mà đọc tờ New York Times. Đọc những đoạn văn phức tạp và những lời bình đa nghĩa của nó thường khiến chị mỏi mệt, mà ngoài ra thì lúc nào họ cũng chỉ đưa tin những chuyện chết chóc trên toàn thế giới.
Chị đưa tay về phía tờ Village Star. Tờ báo khiến cho chị thấy gần hơn với bao cảnh sống chung quanh.
Lucille cầm tờ báo lên. Ngay khi vừa mở nó ra, dòng tựa đề của trang đầu đã nhảy xổ vào mắt chị. Nó như một ngọn đòn đánh thẳng vào mặt, bởi tựa báo được người ta in bằng những chữ cái rất đậm, rất to màu đỏ chói.
Vụ giết người thứ hai của lão đao phủ.
Hai con mắt của chị thầy bói mở lớn ra. Sau đó chị lấy hơi vài lần thật sâu, bởi chị, khi bình thường chẳng mấy khi biết sợ, bất giác thấy mình bị sốc.
Chị quen biết người đàn ông vừa bị giết. Đó là một trong những khách hàng của chị.
Và ông ta đã bị treo lên giống như nạn nhân đầu tiên của lão đao phủ bí hiểm vùng Village.
Đó là điểm chung của hai nạn nhân. Họ chết cùng một kiểu cách, nhưng vẫn còn một điểm thứ ba mà người ta không được phép bỏ qua. Cả hai người chết đều quen biết Lucille. Mặc dầu họ chỉ là khách hàng của chị mà thôi. Thế nhưng điều này khiến chị nghi ngờ.
Chị bắt đầu đọc bài báo đăng bên dưới. Người ta đã tìm thấy người chết thứ hai được treo bên một cột đèn. Cột đèn này đứng ở khoảng sân sau, giữa ngôi nhà của anh ta và một quán cà phê nho nhỏ. Thế nhưng quán cà phê này đóng cửa trong mùa đông, chỉ có mùa hè là đông khách.
Khi đặt tờ báo sang bên, chị nhìn thấy tay mình đang run lên. Chị lại lấy hơi thật sâu, thế nhưng dòng suy nghĩ đột ngột nhảy nhộn nhạo lên như đã hóa điên.
Việc chị quen hai người đã chết có phải tình cờ? Rất có thể là như thế, nhưng không thể chối cải rằng đằng sau hai vụ giết người này có một công thức chung.
Một công thức giết người.
Cả hai nạn nhân đều bị treo cổ, và cả hai nạn nhân đều là khách hàng của Lucille. Ngoài ra hai người không còn bất kỳ một điểm chung nào khac, và chị thầy bói bắt đầu cân nhắc, suy nghĩ, liệu chị có một phần lỗi nào trong chuyện này không?
Chị không nhận ra mình đã làm điều gì nên tội, cũng không thể tưởng tượng được điều đó, mặc dù nghề nghiệp của chị có dính dáng đến những việc nhiều khi có thể trở thành rất nguy hiểm. Bằng pháp thuật của mình, Lucille đã nhiều lần gõ vào cánh cửa dẫn sang bên kia thế giới.
Cho tới nay chị chưa bao giờ sợ, nhưng lần này người đàn bà nhạy cảm thấy rõ bên trong óc não mình đang có cái gì đó tụ lại, một đám mây mà chị không thích chút nào.
Có chuyện không ổn!
Cả hai đều là khách hàng của chị. Chị còn nhớ họ rất rõ, bởi những cuộc gọi hồn hay là những buổi bói bài đều kéo dài nhiều tiếng đồng hồ.
Và cả hai đều yêu cầu chị tiên đoán trước tương lai cho họ.
Thình lình, người đàn bà giật nẩy người lên. May làm sao chị vốn là người làm việc cẩn thận chu toàn. Chị đứng dậy và chạy tới bên một tủ đựng hồ sơ đã cũ được xây sát vào tường, đây là nơi chị trữ toàn bộ tài liệu của mình.
Chị mở cánh cửa bên phải, đưa mắt liếc qua gáy của những cặp hồ sơ rồi chắc chắn rút ra tập cần thiết.Vừa đi về bàn làm việc,chị vừa mở nó ra.
Chỉ vài giây đồng hồ sau, chị đã tìm được đúng vị trí.
Chị bắt đầu đọc về nạn nhân cuối cùng. Anh ta yêu cầu chị bói bài.
Thế rồi chị đã bói! Và chị đã phán những gì? Chị nói gì về thân phận hay bổn mạng của anh ta?
Chị nhắm mắt lại một vài giây đồng hồ. Chị nuốt khan một vài lần rồi tìm đến cái tên thứ hai
Ôi sự việc cũng y như vậy! Một sự trùng hợp ngẫu nhiên hay còn là gì gì nào? Nếu phải thì sao? Và không phải thì sao?
Nhưng tại sao lại chính là hai người này?
Chị không biết, tuy nhiên chị suy nghĩ. Và chị rút ra kết luận rằng, rất có thể còn nhiều người trong danh sách khách hàng của chị có khả năng trở thành nạn nhân của tay giết người bí hiểm kia. Và rất có thể đó là tất cả những người mà quân bài chị đặt ra đã không hứa hẹn một điều gì tốt đẹp.
Nghĩ đến đây, Lucille thấy sợ.
Trong một thoáng, chị ép chặt những đầu ngón tay lên trán. Chị muốn kìm xuống cái tiếng đập rất mạnh hai bên thái dương mình, nhắm mắt lại và tập trung cao độ. Thế này là thế nào nhỉ? Tại sao mọi chuyện xảy ra lại trùng hợp đến vậy?
Chị gắng sức nhớ lại, nhưng chị không thuộc lòng. Để tìm một câu trả lời, chị phải lục lọi qua tất cả các tập hồ sơ. Lúc đó chị mới có thể nhìn tiếp được.
Nhưng chị không muốn làm như vậy, không hiểu tại sao chị sợ nhiệm vụ đó. Những suy nghĩ của chị tiếp tục đi về một hướng khác. Chị cân nhắc liệu có nên gọi điện cho cảnh sát? Suy cho cùng thì họ biết cả hai nạn nhân, cả hai con người đã bị giết kia. Nhưng rồi chị lại quyết định không nên làm. Chị chỉ kéo các cảnh sát viên vào một dấu vết giả mà thôi. Nếu họ muốn biết điều gì thì từ chị, họ sẽ tự tới đây. Rất có thể một trong những dấu vết đó sẽ dẫn họ tới gặp bà thầy bói Lucille.
Bất giác, chị không thấy thích phòng làm việc của mình nữa. Chị đứng dậy và vẫn để đèn cháy, bước ra khỏi phòng. Lucille thấy mỏi mệt vô cùng, đi đến giữa hành lang chị ngáp thật dài, thế rồi chị nhủ thầm sẽ lên giường thật nhanh.
Ở cuối hành lang có một khuôn cửa đúp, nằm ở đàng sau đó là phòng tiếp khách của chị. Chị không chỉ trang trí cho mỗi căn phòng khác nhau, mà còn cho quét những màu sơn khác nhau. Ở đây có phòng màu xanh dương, màu đỏ và màu xanh lục. Cả một số các nhà nghệ sĩ cũng đã để lại dấu vết của họ ở đây: những bức tranh điên khùng được vẽ lên tường.
Tường của phòng tiếp khách được quét màu thẫm. Dù không hẳn là màu đen, nhưng Lucille đã chọn một màu xanh lục thật sậm. Trong phòng không có mấy đồ gỗ, chỉ có một khuôn bàn tròn với bốn chiếc ghế. Để cho tường không vọng lại tiếng nói của chị lẫn của thân chủ, khi họ ngồi với nhau trong một căn phòng tương đối rộng như thế này, người ta còn phủ lên mặt tường một lớp chất liệu nuốt âm.
Chiếc bàn tròn đứng ở giữa phòng. Khi nhìn về phía đó, Lucille còn thấy những quân bài nằm ngửa. Một ngọn đèn dầu cũ kỹ đứng trên nền vải phủ bàn màu xanh lục và tỏa ánh sáng ấm áp cho xung quanh.
Ngọn lửa trông như một ngón tay thật dài, bốc lên trong bóng đèn hình ống.
Lucille nghĩ tới vị khách cuối cùng của mình. Bà ta sẽ về và chắc sẽ còn quay trở lại để nói chuyện với người chồng đã chết. Cho tới nay Lucille chưa tạo nổi mối liên hệ trực tiếp với thế giới bên kia, chị mới gõ cửa ở một vài vị rí khác nhau trong tấm màn ngăn sang đó, nhưng chị rất tò mò, rất muốn biết thế giới bên kia sẽ ra sao.
Thời gian cuối này, càng ngày người ta càng đọc nhiều hơn những bài báo, miêu tả kinh nghiệm của những người kể rằng họ đã có một lần nhìn được sang thế giới bên kia.
Nhưng ở một phương diện nào đó, Lucille cũng sợ hãi chuyện này. Chị không nêu được nguyên nhân trực tiếp, chị cho rằng đây có thể là một trong những chướng ngại vật cuối cùng của khu vực cấm kỵ cuối cùng, lẽ ra cần phải được đóng kín luôn luôn.
Có lẽ đó là nguyên nhân. Và nếu thế giới bên kia có những thế lực nhất định có thể gây ảnh hưởng đến cuộc sống của con người ở thế giới bên này, thì chơi đùa với chúng có lẽ không hay ho gì.
Thốt nhiên chị giật nẩy người lên.
Chị vừa nghe thấy một âm thanh.
Một tiếng rên!
Lucille thoáng nhắm mắt lại. Chị ra lệnh cho mình bình tĩnh. Chị không muốn nhanh chóng bị biến thành kẻ điên, chị chỉ muốn tiếp tục suy nghĩ tỉnh táo và logic.
Tiếng rên có lẽ tồn tại, nhưng thật ra nó không được phép tồn tại, bởi chị đang đứng một mình trong căn hộ lớn. Khi vị khách hàng cuối cùng bỏ về, chị đã khóa cửa lại đàng sau lưng mình. Không một ai có thể gây nên âm thanh đó.
Vậy mà chị vừa nghe thấy.
Lucille ngôi xuống ghế. Chị cong lưng lên rồi ngồi thẳng đứng như một cây gậy và chăm chú lắng nghe. Tiếng rên liệu có nhắc lại, hay vừa rồi chị nghe nhầm, trí tưởng tượng của chị nổi điên?
Vạn vật yên tĩnh, không một âm thanh. Chắc là chị nhầm rồi.
Chị lắng nghe tiếp.
Lucille bây giờ, khi ngồi thẳng người trên chiếc ghế, gây ấn tượng sẵn sàng nhảy chồm lên. Một bàn tay xòe ra đặt trên mặt bàn, bàn tay kia nắm lại thành nắm đấm và đặt lên đùi trái của mình.
Thế rồi chị lại nghe thấy nó. Tiếng rên. Đó là một âm thanh khủng khiếp. Chị không có khả năng xem nó phát ra từ nơi nào, bởi có vẻ như nó vọng đến từ bốn hướng. Nó thoát ra từ cả bốn bức tường, một tiếng rền rĩ khàn khàn và Lucille ngay lập tức có cảm giác như những bức tường của căn phòng này đang được chất đầy một sự sống rùng rợn.
Chị nhảy lên. Chị nhảy mạnh và đột ngột đến mức độ cái ghế tròng trành và súyt nữa ngã lăn ra. Chị dừng lại chống tay lên mặt bàn.
Chị lại nghĩ đến thế giới bên kia. Có phải những cố gắng liên lạc của chị đã đánh thức những thế lực của thế giới khác, những thế lực bây giờ chị không còn kềm chế nổi nữa?
Suy nghĩ đó tự động trồi ra trong óc não chị, nhưng chị hy vọng sự thực không phải thế, hy vọng rằng tất cả rồi sẽ rõ ra chỉ là một sự nhầm lẫn.
Hiện thời, tiếng rên đã ngưng. Một màn tĩnh lặng kỳ lạ phủ xuống căn phòng, chỉ bị ngắt quảng bởi hơi thở của chính chị. Nhưng rồi nó sẽ quay trở lại, không hiểu sao chị tin chắc như vậy.
Và nó quay trở lại.
“Aaaaa…” – nó thoát ra từ cả bốn bức tường và nghe như tiếng kêu của một người đang phải chịu những nỗi đau đớn rùng rợn.
Lucille xoay người. Đôi mắt chị cháy bập bùng. Đó là nỗi sợ hãi bất chợt trào dâng. Một nỗi sợ hãi chị chưa bao giờ biết tới, mặc dù chị luôn luôn đối mặt với những mối liên quan kỳ lạ.
Lần này thật khác. Chị không kềm chế được việc gì, bởi nỗi khủng khiếp đang ra lệnh cho sự việc và nó từ một thế giới không tưởng tượng nổi đổ xuống con người chị.
Nó rình mò ngay bên cạnh chị đây.
Chắc chắn nó phải đứng bên trong những bức tường của căn phòng này, bởi chị không tìm được lời giải thích nào khác.
Lucille đã muốn rời phòng bước ra ngoài. Lạ kỳ làm sao, chị không bước đi nổi. Chị không có đủ sức lực để đi về hướng cửa và ra khỏi phòng.
Nỗi kinh hoàng trói chân chị.
Lucille đứng bên bàn. Hai bàn tay như được dán chặt vào mặt bàn phủ một lớp khăn màu xanh lục, miệng há ra. Hơi thở chị phả từng đợt, và chị tập trung vào một khoảng tường.
Nhìn bề ngoài nó không có gì bất bình thường. Khoảng tường trông vẫn như mọi khi. Nó chỉ là một thứ ánh sáng óng ánh màu xanh lục, đây là nước sơn được quét lên trên phần chất liệu nuốt âm thanh. Ngoài ra chẳng có gì khác.
Và tiếng rên cứ tiếp tục vang lên. Bây giờ còn ghê rợn hơn lúc nãy, bởi bây giờ Lucille nghĩ rằng chen lẫn trong tiếng rên đó đang thấp thoáng một giọng cười. Một giọng cười độc ác, đểu giả, buộc chị nghĩ đang có kẻ quan sát chị.
Gã vô hình như đang hả hê trước nỗi sợ của chị!
Đúng thế, chị sợ. Nhịp tim chị đập như nhịp búa. Lúc này chị cảm nhận thấy nó trong đầu mình. Tiếng tim đập vang vọng phía đàng sau vầng trán, hơi thở chị trở nên rất khó khăn, và trên toàn cơ thể chị nổi một lớp gai góc mà người ta gọi là da gà, nỗi sợ dâng cao hơn.
Sự kinh hoàng vô hình đang ở bên cạnh chị. Và nó không dừng lại ở một chỗ.
Nó lại gần hơn…
Lucille cảm nhận điều đó quá rõ ràng. Có cái gì đang bao vòng chung quanh chị, siết lại chặt hơn. Như một dây thòng lọng mỗi lúc một thắt chặt vào, chẳng bao lâu sẽ chạm cổ chị.
Chị còn thở được không?
Chị há miệng ra, muốn hớp lấy hơi. Mắt chị mở to hết cỡ, đầy nỗi kinh hoàng, khi đột ngột chị nhìn thấy một cái bóng trên khoảng tường trước mặt.
Đó là bóng của một cái dây thòng lọng!
Khái niệm đó xuyên qua óc não Lucille. Chị hiểu ngay như vậy, bởi bất chấp nỗi sợ, chị vẫn cố gắng suy nghĩ tỉn táo, và chị nhớ rất rõ bài báo vừa đọc.
Hai thân chủ của chị đã bị treo cổ bằng cùng một cách. Giờ đây đến lượt chị chăng?
Một làn sóng rởn lên chạy theo lưng chị xuống dưới. Lệ tràn lên mắt. Nỗi sợ còn dâng cao hơn nữa, nỗi khiếp đảm lan rộng ra và hai hàm răng chị đánh lập cập vào nhau.
Có kẻ tới đây để giết chị!
Ánh mắt chị hầu như không thể dứt ra khỏi cái dây thòng lọng kia. Cái bóng hiện lên quá to, và sợi dây thòng lọng không đứng yên. Nó đang lúc lắc. Chính những chuyển động này thúc cho nỗi hoảng hốt trong chị bùng dậy. Ai cũng sẽ giống chị nếu phải nhìn một thứ như thế thật ghê sợ. Chuyển động lúc lắc của sợi dây thòng lọng đối với Lucille bây giờ như một sự hấp dẫn rủ rê chết chóc. Chị không tin rằng, cái dây thòng lọng kia chỉ tồn tại như một cái bóng trên tường, bởi ở đâu có bóng cũng phải có một vật thể gây nên cái bóng đó.
Nhưng nó từ đâu ra?
Cửa dưới nhà được khóa, căn hộ được khóa…
Sợi dây thòng lọng di chuyển. Lần đầu Lucille nhìn thấy nó ở gần khuôn cửa ra vào, nhưng bây giờ nó đang chuyển động dọc bức tường, mỗi lúc một đến gần chị hơn.
Lucille hiểu rằng chị đang ở trong một cái bẫy chết chóc.
Chị sẽ không bao giờ còn bước chân ra khỏi được căn phòng này, nếu chị không vượt thắng được nỗi sợ hãi của mình và hành động kịp thời.
Cánh cửa là cơ hội duy nhất. Nếu chị đến được đàng kia, mọi sự sẽ có hy vọng. Sau đó chị có thể chạy dọc hành lang và ra khỏi nhà.
Lucille không cân nhắc nữa mà hành động. Hai chân chị di chuyển như tự động khi cuối cùng chị đạp xuống nền phòng và hoảng hốt chạy xuyên chéo căn nhà.
Tiếng cười đuổi theo chị.
Lucille có cảm giác như vừa có những ngọn roi quất thẳng vào người mình, tiếng cười nghe rùng rợn đến mức độ đó. Trước khi đến bên khuôn cửa, chị vấp, ngã đập người vào lần gỗ và bàn tay tìm được nấm đấm cửa, ấn nó xuống dưới. Đồng thời cả người chị đẩy vào cánh cửa, nhưng những cố gắng của chị trở nên vô ích.
Cánh cửa bị đóng chặt!
Chị rên lên khi nhận ra điều đó, và sức lực rời cơ thể chị. Chân run rẩy, Lucille khụyu gối xuống.
Một cánh tay của chị còn kịp giơ lên. Những ngón tay bám chặt lấy nắm đấm cửa như bám vào chỗ tựa cuối cùng.
Tiếng cười hả hê đàng sau lung chị. Nó giật chị ra khỏi nỗi sợ hãi tột cùng. Chị xoay người lại và sa vào một cơn sốc lớn.
Cái bóng kia đã rời tường. Một sợi dây thòng lọng bình thường đang trôi trong không gian.
Thậm chí nó còn được giữ. Đó là một cánh tay màu xanh lục với những ngón tay đỏ thẫm màu máu khô, đang cầm sợi dây thòng lọng rất chắc, rất lành nghề.
Từ từ cánh tay đẩy cho sợi dây thòng lọng lúc lắc từ bên này sang bên kia. Có lần nó chạm vào gương mặt của người đàn bà đang đờ ra vì kinh hoàng, thế rồi nó lại giật về.
Và một giọng người cất lên, thì thầm:
– Ta sẽ tóm được mày, con bé con. Ta đã chờ mày lâu rồi. Ta sẽ tóm được tất cả, cứ tin chắc như thế. Bàn tay thòng lọng sẽ trả thù. Không một đứa nào trốn thoát.
– Không! – Lucille thét lên. Chị lắc đầu, nhảy lên, chạy đi và quá hốt hoảng mà không nhìn thấy cái bàn nữa.
Chị ngã đập người vào cái bàn. Thế nhưng cái bàn nặng và vững đến mức độ nó không bị ngã theo. Nặng nề, người phụ nữ chống hai bàn tay lên trên mặt bàn. Thình lình, sợi dây thòng lọng sà tới nơi. Lucille thậm chí không nhìn thấy cái bóng của nó, chị chỉ nhận ra nó khi đã quá muộn và khi khoảng hở của sợi dây nằm ngay trước mắt chị.
Trong tích tắc sau đó, sợi dây trùm về phía trước. Và nó vừa vặn với cổ nạn nhân, không thừa một mảy may. Dây thòng lọng có vẻ như được làm ra cho Lucille. Chị cảm nhận thấy làn dây xù xì bên cổ họng mình. Chị muốn thét lên, nhưng lúc bấy giờ thì bàn tay đang trôi bồng bềnh bất ngờ giật về.
Người phụ nữ thấy khó thở.
Tay chị nghe thấy giọng ma quái kia lại cất lên.
– Ta sẽ tóm cổ bất cứ đứa nào. Chúng nó quên tao, nhưng tao không quên điều gì cả, chúng mày luôn phải nhớ như vậy. Mày là đứa thứ ba, rồi những đứa khác sẽ đi theo. Nhưng nhờ có mày mà tao quay trở lại được đây. Con người không nên đùa giỡn với những thế lực ở phía bên kia. Tao nói cho mày biết, bọn mày không được phép gọi hồn người chết. Mày đã bước chân qua ngưỡng. Mày phải tự mình gánh lấy trách nhiệm, Lucille…
Đó là những lời nói cuối cùng của gã đao phủ. Sau đó, gã bắt đầu với hành động ác độc của mình.
Người giúp việc tìm thấy xác Lucille vào buổi sáng ngày hôm sau. Đầu của chị nằm trong dây thòng lọng, và sợi dây này được buộc vào nắm đấm cửa.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.