Underhill đã quay lại sau tám giờ liền xem những cuốn băng video và xem lại những ghi chép trong một căn phòng khác. Anh ta buông tiếng chào hờ hững về phía Stephano và luật sư của lão, rồi bắt tay vào việc. “Chúng ta có thể tiếp tục từ chỗ ông ngừng lại hôm qua chứ hả, ông Stephano.”
“Chỗ nào nhỉ?”
“Cuộc sục sạo của ông trên đất Braxin.”
“Phải. Để xem nào. Đó là một đất nước rộng lớn. Một trăm sáu chục triệu dân, rộng hơn cả bốn mươi tám bang ở phía dưới này của nước Mỹ, và nổi tiếng là nơi trú ẩn tuyệt vời cho những cuộc lẩn trốn, nhất là khi người ta đang bị truy lùng. Trong nhiều năm, đám Quốc xã đã từng chọn nơi ẩn náu này. Chúng tôi tập hợp một hồ sơ về Lanigan, cho dịch nó sang tiếng Bồ
Đào Nha rồi thuê một họa sĩ của cảnh sát kết hợp với một số tay sành máy tính để làm một loạt ảnh màu mô tả nhân dạng hiện tại của Lanigan. Chúng tôi đã dành nhiều thời gian với tay chủ tàu ở Orange Beach, cũng như với các giám đốc nhà băng ở Nassau, và họ đã giúp chúng tôi có được một loạt bức ký họa chi tiết về hắn. Thậm chí chúng tôi cũng đã gặp gỡ các cổ đông của Hãng luật và thảo luận về các bức ký họa đó. Rồi họ lại cho các thư ký xem. Một trong các cổ đông, ông Bogan, còn mang bức khá nhất đến xin ý kiến của bà quả phụ Lanigan.”
“Giờ đây, khi mà các ông đã tóm được hắn rồi, có thấy những tấm hình đó giống không?”
“Khá giống. Trừ cái cằm và cái mũi ra.”
“Xin tiếp tục cho.”
“Chúng tôi vội vã đi Braxin, và tìm được ở đó ba trong số các Hãng điều tra tư nhân giỏi nhất nước này. Một ở Rio, một ở São Paulo, và một ở Recife, vùng đông bắc. Chúng tôi trả giá cao nên đã mướn được những kẻ lão luyện. Chúng tôi ghép họ thành một nhóm và tập hợp họ ở São Paulo trong một tuần. Chúng tôi lắng nghe ý kiến của họ. Một câu chuyện được đưa ra, rằng Patrick là công dân Mỹ bị truy nã về tội bắt cóc rồi giết hại con gái của một gia đình giàu có, và gia đình này treo giải thưởng cho những thông tin dẫn đến việc phát hiện nơi ẩn náu của hắn. Việc giết hại một đứa trẻ, tất nhiên, được dựng lên nhằm kích thích sự thông cảm hơn là việc đánh cắp tiền của một nhóm luật sư.
“Chúng tôi đi thẳng tới các lớp học tiếng, chìa những tấm hình của Lanigan và hứa hẹn tiền bạc. Những trường tử tế thì đóng cửa từ chối. Những trường khác thì nhìn ngó những tấm hình nhưng không thể giúp gì được. Cho tới lúc đó, chúng tôi đã rất vì nể Lanigan, và không nghĩ rằng hắn sẽ liều học ở một nơi mà người ta sẽ hỏi này nọ rồi ghi lại tất cả vào hồ sơ. Bởi vậy, chúng tôi nhằm vào các gia sư, có điều là có cả triệu gia sư ở Braxin. Một công việc cực nhọc.”
“Các ông có chìa tiền ra trước không?”
“Chúng tôi làm theo cách mà các thám tử Braxin của chúng tôi muốn làm, nghĩa là chìa các tấm hình ra, kể lại câu chuyện về đứa trẻ bị giết, rồi chờ đợi một phản ứng. Nếu có chút động đậy thì khi đó chúng tôi sẽ khéo léo ngỏ ý về khoản tiền thưởng.”
“Có phản ứng nào không?”
“Một vài lần, chỗ này chỗ khác. Nhưng chúng tôi chưa bao giờ bỏ tiền ra, ít nhất thì cũng là cho các gia sư.”
“Vậy là cho những người khác à?”
Stephano gật đầu và nhìn vào một tờ giấy. “Vào tháng Tư năm 94, chúng tôi tìm ra một bác sĩ chỉnh hình ở Rio, người có vẻ quan tâm tới những tấm hình của Lanigan. Hắn ta vờn với chúng tôi trong một tháng, và sau cùng đã khiến cho chúng tôi tin rằng chính hắn đã “sửa sang” cho Lanigan. Hắn ta có những bức ảnh chụp Lanigan trước và sau khi làm phẫu thuật. Hắn ta trói chúng tôi đến nơi đến chốn, và thực sự là chúng tôi đã phải đồng ý trả hắn tới năm trăm nghìn đôla, tiền mặt, ở nước ngoài, để đổi lấy toàn bộ chỗ hồ sơ của hắn.”
“Trong hồ sơ đó có gì?”
“Chỉ những yếu tố cơ bản. Những bức ảnh chụp chính diện đối tượng của chúng tôi trước và sau khi phẫu thuật. Chuyện này thực sự kỳ quặc bởi lẽ Lanigan đã nhất quyết đòi không có chụp ảnh gì hết. Hắn không muốn để lại bất kỳ chút dấu tích nào, ngoài một đống tiền cho việc sửa đổi dung mạo hắn. Hắn cũng không cho biết tên thật mà chỉ nói hắn là một nhà kinh doanh từ Canada đến và bỗng nhiên muốn trông được trẻ trung hơn. Tay bác sĩ chỉnh hình kia đã nghe loại chuyện này suốt rồi, và hắn ta biết vị khách của hắn đang trên đường lẩn trốn. Hắn ta có một chiếc máy ảnh được giấu kín trong văn phòng, và do vậy mà có những tấm ảnh đó.”
“Chúng tôi có thể xem chúng được không?”
“Tất nhiên rồi.” Tay luật sư đứng dậy và đẩy một chiếc phong bì ra cho Underhill.
“Các ông tìm thấy tay bác sĩ kia như thế nào?”
“Cùng lúc kiểm tra ở các trường dạy tiếng và tìm các gia sư, chúng tôi cũng nhằm vào những kẻ ở các lĩnh vực khác. Những kẻ làm giấy tờ giả, các bác sĩ chỉnh hình, và các nhà nhập khẩu.”
“Các nhà nhập khẩu?”
“Phải, có một từ trong tiếng Bồ Đào Nha để chỉ loại người này, nhưng các nhà nhập khẩu chỉ là cách dịch rất thô thiển. Họ là một nhóm những tay chuyên môn hoạt động trong bóng tối, có thể đưa người vào Braxin và rồi làm cho người ta biến mất – với những cái tên mới, giấv tờ mới, và những nơi tốt nhất để sinh sống và ẩn náu. Chúng tôi thấy là không thể nào moi được gì ở đám này. Chúng tôi cũng rất không gặp may với đám làm giấy tờ giả. Họ không dám nói về khách hàng của mình. Đó sẽ là chuyện rất tồi tệ cho việc làm ăn.”
“Nhưng các bác sĩ thì khác à?”
“Không hẳn thế. Họ cũng không nói. Nhưng chúng tôi đã thuê một bác sĩ chỉnh hình làm cố vấn, và ông ta đã cho chúng tôi tên của một vài bác sĩ chuyên làm việc cho những khách hàng vô danh. Đó là cách mà chúng tôi đã tìm ra tay bác sĩ ở Rio.”
“Lúc đó là hai năm sau khi Lanigan biệt tích.”
“Đúng thế.”
“Đó có phải là bằng chứng đầu tiên về việc thực sự hắn đang ở đó không?”
“Đúng là bằng chứng đầu tiên.”
“Các ông đã làm gì trong hai năm đầu?”
“Tiêu rất nhiều tiền. Gõ rất nhiều cánh cửa. Theo đuổi rất nhiều dấu vết chẳng có giá trị gì. Như tôi đã nói, đó là một đất nước rộng lớn.”
“Có bao nhiêu ngưòi làm việc cho ông ở Braxin?”
“Có thời điểm tôi phải trả lương cho sáu mươi người. Cũng may mà họ không đắt giá như những người Mỹ.”
Nếu ngài Thẩm phán muốn có một cái bánh pizza, vậy thì ngài Thẩm phán sẽ có một cái bánh pizza. Cái bánh được mua từ tiệm Hugo, một tiệm gia truyền trên phố Division xa hẳn những tiệm bán đồ ăn nhanh nằm san sát dọc theo bờ biển. Nó được một viên cảnh sát mang tới Phòng 312. Patrick ngửi thấy mùi ngay từ lúc nó vừa được mang ra khỏi thang máy. Hắn nhìn chằm chằm khi Karl mở hộp bánh ở cuối giường. Hắn nhắm mắt và hít vào cái hương vị đậm đà của những quả ôliu đen, của những thứ nấm, xúc xích Italia, hạt tiêu xanh và sáu loại phomát khác nhau. Hắn đã ăn cả nghìn cái pizza của tiệm Hugo, nhất là trong hai năm cuối cùng của cuộc sống trước đây của hắn, và hắn đã ao ước được ăn lại một cái từ cả tuần nay. Ở quê nhà cũng có cái sướng.
“Sao trông cứ đờ ra thế kia. Thôi ăn đi,” Karl nói.
Patrick ngoạm miếng thứ nhất, không nói một lời, rồi tiếp miếng thứ hai.
“Làm sao mà anh có thể làm giảm cân đến vậy?” Karl vừa hỏi vừa nhai.
“Chúng ta có thể có chút bia được không?” Patrick hỏi.
“Không. Xin lỗi. Anh đang bị giam cơ mà.”
“Giảm cân là ở lòng quyết tâm của mình. Khi người ta đã quyết thì việc đó là dễ dàng. Tôi đã đột nhiên có động cơ để bỏ đói chính mình.”
“Anh đã nặng tới bao nhiêu nhỉ?”
“Cho tới cái ngày thứ sáu, trước khi biến đi, tôi nặng hơn một tạ. Tôi đã sụt bớt hơn hai mươi cân trong sáu tuần đầu tiên. Sáng nay thì tôi chỉ còn hơn bảy chục cân thôi.”
“Trông anh giống như một người tị nạn vậy. Thôi ăn đi.”
“Cảm ơn.”
“Anh đang nói tới đoạn trở về ngôi nhà đi săn.”
Patrick lau mồm bằng một mảnh giấy ăn và đặt phần bánh còn lại của hắn trở lại chiếc hộp. Hắn uống một ngụm Diet Cokes. “Phải, tôi đã trở lại ngôi nhà đó. Lúc đó là vào khoảng mười một giờ ba mươi. Tôi đi vào qua cửa trước, và không hề bật đèn. Có một ngôi nhà đi săn nữa cách đó chừng nửa dặm, trên một đỉnh núi và từ chỗ tôi có thể nhìn thấy. Nó là của mấy người nào đó ỏ Hattiesburg, và mặc dù không nghĩ rằng họ ở đó lúc bấy giờ, nhưng tôi vẫn phải cẩn thận. Tôi che cửa sổ gian phòng tắm nhỏ bằng một cái khăn sẫm màu, rồi mới bật đèn và nhanh chóng cạo râu. Thế rồi tôi tự cắt tóc, nhuộm nó thành một mầu nâu sẫm, gần như là đen.”
“Xin lỗi, tôi không hiểu.”
“Nó hoàn toàn phù hợp. Cũng kỳ lạ thật. Tôi thậm chí cảm thấy giống như một người hoàn toàn khác khi nhìn vào gương. Thế rồi tôi dọn dẹp, lau sạch tóc tai râu ria rơi xuống bởi vì tôi biết là họ sẽ kiểm tra chỗ đó rất kỹ lưỡng, và bỏ cả mấy ống thuốc nhuộm tóc vào chỗ đồ dùng sẽ mang theo. Tôi thay một bộ đồ ấm, pha một bình cà phê và uống một nửa. Nửa còn lại đổ vào cái phích để đi đường. Lúc một giờ sáng, tôi rời khỏi căn nhà một cách nhanh chóng. Tôi không lo là có cảnh sát xuất hiện ngay đêm đó, nhưng đó luôn luôn là một khả năng. Tôi biết là phải có thời giờ để xác định chiếc Blazer là của ai, rồi để gọi Trudy, và có thể ai đó sẽ cho rằng họ cần phải đến căn nhà đi săn vì một lý do nào đó. Tôi không cho là điều đó sẽ xảy ra, thế nhưng vào lúc một giờ sáng thì tôi muốn ra đi lắm rồi.”
“Anh có bất kỳ lo ngại gì cho Trudy không?”
“Không có gì đặc biệt. Tôi biết là cô ta sẽ trải qua được cú sốc này, và sẽ lo thu xếp việc chôn cất tôi một cách đâu vào đấy. Cô ta sẽ là một góa phụ mẫu mực trong khoảng một tháng, và rồi sẽ lấy được số tiền bảo hiểm. Đó chính là giờ phút sung sướng nhất của cô ấy. Được để ý tới và có nhiều tiền bạc. Không, Karl, tôi không yêu người phụ nữ đó và không có bất kỳ quan tâm nào.”
“Anh có lúc nào trở lại căn nhà đi săn đó không?”
“Không”
Karl không thể và cũng không muốn kìm câu hỏi tiếp theo. “Khẩu súng săn và bộ đồ cắm trại của Pepper được tìm thấy ở dưới một trong những chiếc giường. Tại sao chúng lại ở đó?”
Patrick ngước mắt nhìn lên trong một giây vẻ như ngạc nhiên, thế rồi hắn nhìn đi chỗ khác. Karl đã ghi nhận phản ứng này, bởi vì ông sẽ còn nghĩ tới nó nhiều lần trong những ngày tiếp theo đó. Một sự ngạc nhiên, một cái liếc mắt, và rồi không thể nào trả lời thật được, ánh mắt lảng tránh. Trong một bộ phim cũ có câu nói, “Khi anh phạm tội giết người, anh mắc hai mươi lăm sai lầm. Nếu anh nghĩ tới được mười lăm trong số đó thi củng đã là tài lắm rồi.” Có lẽ Patrick, trong tất cả những tính toán tỉ mỉ của hắn, đã quên mất mấy thứ đồ kia của Pepper. Trong lúc cấp bách, hắn đã hơi vội vã quá.
“Tôi không biết,” hắn nói, gần như gằn giọng, mắt vẫn nhìn vào tường.
Karl đã có cái mình muốn, và ép tiếp. “Anh đã đi đâu?”
“Chuyến đi thật vất vả,” Patrick nói, vẻ hoạt bát trở lại và muốn kể tiếp câu chuyện. “Nhiệt độ lúc đó chừng một hai độ gì đó, và cưỡi chiếc môtô chạy trên xa lộ vào ban đêm thì cứ như thể âm sáu đến bảy độ vậy. Tôi bám theo các nhánh đường phụ, tránh các xe cộ khác, chạy chậm vì gió như cắt da cắt thịt. Một chiếc môtô cà tàng trên đường cao tốc vào lúc ba giờ sáng có thể sẽ làm tỉnh ngủ một tay cảnh sát đang chán chường nào đó, bởi vậy tôi tránh xa các thị trấn. Sau cùng thì tôi cũng đến được ngoại ô Mobile vào lúc bốn giờ. Một tháng trước đó, tôi đã để ý thấy một quán trọ nhỏ, nơi người ta nhận tiền mặt và không hỏi han gì. Tôi lẻn vào khu đậu xe, giấu chiếc môtô ở phía đằng sau, và đi vào bằng cửa trước như thể vừa xuống khỏi tăcxi. Ba mươi đôla cho một phòng, tiền mặt, không cần giấy tờ gì. Phải mất một tiếng sau mới hết lạnh. Tôi ngủ thiếp đi trong hai tiếng và tỉnh dậy lúc mặt trời đã lên. Chuyện đến tai ông vào lúc nào, Karl?”
“Tôi cho là vào khoảng thời gian anh đang chạy trên chiếc môtô kia băng qua các vùng nông thôn. Doug Vitrano gọi cho tôi lúc sau ba giờ một vài phút. Tôi thức dậy và đến giờ vẫn còn giật mình. Không còn tài nào ngủ được vì đau lòng, trong khi anh đang làm một cuộc du ngoạn đến với một cuộc sống mới.”
“Đâu phải là tôi không xót xa.”
“Phải, nhưng mà chắc chắn là anh đã không nghĩ tới bạn bè.”
“Tôi lấy làm tiếc về điều đó, Karl.”
“Không, anh đừng làm bộ.”
“Đúng là thế, ông nói đúng.” Patrick đầy vẻ thoải mái, linh hoạt trong khi kể lại câu chuyện của hắn, thậm chí lúc này còn mỉm cười.
“Anh đã thức dậy lúc mặt trời lên. Một con người mới trong một thế giới mới. Tất cả những lo âu và những rắc rối của anh đã được để lại đằng sau.”
“Hầu hết những thứ đó. Thật là hứng khởi, nhưng cũng đầy sợ hãi. Khó ngủ lắm. Tôi xem TV đến tám giờ ba mươi, không thấy tin tức gì khác ngoài cái chết của tôi, rồi tắm rửa, thay quần áo mới và…”
“Gượm đã. Những ống thuốc nhuộm tóc đâu rồi?”
“Tôi đã ném chúng vào một cái thùng rác đâu đó ở quận Oasinhtơn, bang Alabama. Tôi gọi một chiếc tăcxi, việc không phải là dễ gì cho lắm ở Mobile. Người lái đậu xe ngay bên ngoài phòng, và tôi lên xe đi. Không có việc trả phòng. Tôi đã bỏ chiếc môtô đấy và đi tới một khu thương mại mà tôi biết là sẽ mở cửa lúc chín giờ. Tôi tới một cửa hiệu và mua một chiếc áo khoác ngoài màu xanh đen, vài cái quần và một đôi giầy.”
“Anh trả bằng gì?”
“Tiền mặt.”
“Anh không có thẻ tín dụng à?”
“Có, tôi có một cái thẻ Visa giả mà tôi đã mua từ một nguồn ở Miami. Chỉ có thể mua được một vài lần rồi thì sẽ buộc phải bỏ. Tôi để dành nó cho việc thuê xe.”
“Anh có bao nhiêu tiền mặt?”
“Khoảng hai mươi nghìn.”
“Từ đâu ra?”
“Tôi đã để dành ít lâu. Tôi làm được khá tiền, mặc dù Trudy cũng đã cố gắng đến mức cao nhất của cô ấy để tiêu sao cho nhanh hơn tốc độ tôi kiếm được. Tôi nói với cô kế toán của Hãng là cần giấu vợ một số tiền. Cô ta nói là mình thường xuyên phải làm thế cho các luật sư. Tiền được chuyển vào một tài khoản khác. Cứ lâu lâu tôi lại rút tiền mặt ra và cất vào trong ngăn kéo. Được chưa nào?”
“Được. Anh nói đã mua một đôi giày.”
“Tôi đi tới một cửa hiệu khác và mua một chiếc sơmi trắng cùng một chiếc cavát. Tôi thay đồ trong một phòng vệ sinh nhỏ, và xong, trông tôi đã giống bất kỳ ai trong số cả triệu người đi chào hàng. Tôi mua thêm một ít quần áo và vài thứ lặt vặt, xếp tất cả vào một cái túi bạt mới tinh, và gọi tắc-xi ra sân bay Mobile. Tôi ăn sáng ở đó và đợi chuyến bay của Northwest Airlink từ Atlanta tới. Tôi hòa vào với đám hành khách, tất cả đều rất vội vã và nóng lòng muốn vào Mobile. Tôi dừng lại cùng với hai người khác trước bàn giao dịch của Hãng Avis. Họ đã đặt thuê xe từ trước. Còn trường hợp của tôi thì hơi phức tạp hơn. Tôi có một bằng lái xe hoàn hảo của bang Georgia, cùng với hộ chiếu, ngừa khi phải dùng đến. Tôi dùng một chiếc thẻ Visa, và tôi rất sợ. Số thẻ là một số có thật – của một anh chàng tội nghiệp nào đó ở Decatur, Georgia, và tôi chỉ sợ nhỡ ra một chiếc máy tính nào đó chộp được và chuông báo động sẽ vang lên. Nhưng đã không có chuyện gì xảy ra. Tôi điền vào giấy tờ, và nhanh chóng bước đi.”
“Anh đã dùng tên gì?”
“Randy Austin.”
“Một câu hỏi lớn, Randy,” Karl nói trong khi cắn một miếng pizza và nhai chậm rãi. “Anh đang ở sân bay. Tại sao anh không lên béng một chiếc máy bay và ra đi hả?”
” Ồ, tôi đã nghĩ về chuyện đó. Trong lúc ăn sáng, tôi đã thấy hai chiếc máy bay cất cánh và tôi thật muốn được nhảy lên đó cho rồi. Thế nhưng còn có việc chưa làm xong. Đó là một quyết định rất khó khăn.”
“Việc gì chưa xong vậy?”
“Tôi nghĩ là ông biết. Tôi đã lái xe chạy tới vùng bờ vịnh, rồi dọc theo bờ biển tới Orange Beach và mướn một ngôi nhà nhỏ ở đó.”
“Một ngôi nhà mà anh đã kiểm tra từ trước.”
“Tất nhiên. Tôi biết là họ sẽ lấy tiền mặt. Lúc đó là tháng Hai, trời lạnh, việc làm ăn không chạy lắm. Tôi uống mấy viên thuốc ngủ và ngủ trong sáu tiếng. Tôi theo dõi bản tin tối và thấy mình đã chết một cái chết thảm khốc. Bạn bè chết điếng.”
“Anh thật tồi.”
“Tôi chạy xe ra tiệm rau quả và mua một bịch táo và ít viên vitamin. Sau khi trời tối, tôi đi bộ dọc theo bờ biển chừng ba tiếng, một việc mà tối nào tôi cũng làm khi đang ẩn náu ở quanh Mobile. Sáng hôm sau, tôi lẻn vào Pascagoula và kiếm một tờ báo, thấy gương mặt béo phì đang tươi cười của mình trên trang nhất, tin về vụ tai nạn, và bài viết nhỏ rất cảm động của ông, đồng thời cũng biết rằng tang lễ sẽ được tổ chức vào ba giờ chiều hôm đó. Tôi đi tới Orange Beach và thuê một chiếc thuyền buồm. Thế rồi tôi lái xe tới Biloxi để dự đám tang của mình.”
“Báo chí nói là anh đã chứng kiến lễ mai táng mình.”
“Đúng thế. Tôi nấp trên một ngọn cây trong cánh rừng quá bên trên nghĩa địa, và quan sát bằng một cặp ống nhòm.”
“Có vẻ đó là một điều ngu ngốc đến không thể tin được.”
“Đúng thế. Đúng là ngu ngốc. Nhưng mà tôi buộc phải đến đó. Tôi buộc phải tận mắt nhìn thấy để chắc chắn được rằng cái mưu mẹo kia của tôi đã hiệu dụng. Và lúc đó, tôi nghĩ tôi đã tin rằng mình có thể vượt qua được tất cả.”
“Tôi nghĩ là anh cũng đã chọn sẵn cái cây, một vị trí hoàn hảo.”
“Không. Thực ra tôi không chắc là mình có làm việc đó không nữa. Khi tôi rời Mobile và chạy về phía tây trên xa lộ Liên bang, tôi cứ tự nhủ là đừng làm việc đó. Đừng có đến gần Biloxi.”
“Anh béo vậy mà trèo cây được ư?”
“Tôi có động cơ, và đó là một cây sồi với nhiều cành lá rậm rạp.”
“Lạy Chúa.Tôi ước giá mà một cái cành nào đó bỗng gãy và anh rơi cắm đầu xuống đất nhỉ.”
“Không, ông đâu có ước thế.”
“Có, có đấy. Chúng tôi đứng quây xung quanh mộ, cố cầm nước mắt và an ủi người vợ góa, còn anh thì đang vắt vẻo trên một cái cành cây như một con nhái béo ị để cười vào mũi chúng tôi.”
“Tôi biết là ông chỉ giả vờ cáu kỉnh thôi mà, Karl.”
Và hắn nói đúng. Bốn năm rưỡi đã xóa đi mọi cáu giận mà Karl từng cảm thấy. Sự thật là ông đang sung sướng được ngồi ở cuối cái giường bệnh viện này, ăn pizza cùng với Patrick và nghe từng chi tiết câu chuyện kia.
Tuy vậy, họ cũng mới chỉ đến được tới chỗ đám tang. Patrick nói đã mệt, và họ trở lại phòng của hắn, một nơi mà hắn không hoàn toàn tin cậy. “Hãy cho tôi biết Bogan và Vitrano và những người kia thế nào?” Hắn nói, và ngả xuống gối, ngay lập tức bắt đầu nhấm nháp cái cảm giác thú vị của những gì hắn sắp được nghe.