Sững sờ, Jenni nhìn chăm chăm vào cánh cửa buồng tắm. Nàng lặng im không biết phải xử trí cách nào. Lúc này, nàng muốn thét lớn ‘’Tôi Không muốn mặc áo của người chết’’. Chiếc áo satin mềm mại dính bám vào những ngón tay nàng.
Erich ra khỏi phòng sau khi trao cho nàng chiếc áo. Jenni rùng mình khi nghĩ mình phải mặc chiếc áo này. Mắt nàng nhìn qua chiếc vali và thầm ước điều rất đơn giản là mình có thể mặc quần áo của mình, ước gì nàng có thể nói thẳng với Erich: “Em muốn mặc những quần áo em đã chọn”
Nàng thấy hiện ra trước mắt nàng sắc mặt của Erich Khi trao nàng chiếc áo ngủ màu xanh ngọc bích.
Giờ đây, nàng thầm mong cho chiếc áo không vừa với mình. Chỉ có như vậy mói giải quyết được vấn đề. Nhưng khi nàng mặc vào, thì nó thật vừa vặn với dáng vóc mảnh mai của nàng: vòng hông hẹp, dáng mình dây. Chiếc áo hở cổ hình chử V làm tăng giá trị bộ ngực tròn trịa của nàng, nàng đưa mắt nhìn chiếc gương, lúc này hơi nước đã tan chỉ còn lại những rảnh nước nhỏ dọc theo bìa gương. Hẳn vì vậy nên trông nàng có vẻ khác biệt hay chỉ tại màu xanh biếc của chiếc áo làm tăng lên màu mắt xanh lục của nàng?
Thật khó để cho rằng chiếc áo ngủ không vừa vặn hoặc là không hợp. Nhưng nàng không muốn mặc nó. Nàng lo âu nhủ thầm: “Khi mặc nó, tôi không còn cảm thấy là chính mình”.
Nàng định cởi chiếc áo ra thì nghe có tiếng gõ nhẹ ở cửa. nàng mở cửa và trông thấy Erich. Chàng mặc bộ pyjama và khoác áo ngủ bằng lụa màu xám bên ngoài. Trong phòng, chỉ còn ngọn đèn ngủ đuợc thắp sáng. Duới ánh đèn lấp lánh mái tóc vàng của chàng. Khăn phủ giường bằng gấm màu đỏ tím được vén lên, bày ra những chiếc khăn trải giường đã gấp xuống ngăn nắp, những chiếc gối thêu kê sát đầu giường rất sang trọng.
Erich cầm mỗi tay một cốc sâm banh và đưa cho Jenni. Họ dìu nhau đến giữa phòng và cụng ly.
– Anh đã tim ra đoạn tiếp bài thơ rồi, Jenni ạ!
Với giọng dịu dàng, chàng đọc:
Khi Jenni thấy ta, nàng đã hôn ta
Trên chiếc ghế bành, nàng nhảy nhót, đong đưa
Thời gian, Ô, tên trộm cắp, mầy chỉ thích liệt kê
Hảy ru ngủ mọi thú vui và ghi rằng:
Ta đang mệt mỏi, ta đang buồn bã
Hãy nói rằng ta thiếu sức khỏe và giàu sang,
Hãy nói rằng ta già đi, nhưng cũng xin nói rằng
Jenni đã hôn ta.
Jenni cảm thấy nước mắt mình dâng trào. Đêm nay là đêm tân hôn của nàng. Đây là người đàn ông đã dâng tặng nàng tình yêu và người mà nàng đã yêu rất sâu đậm, là chồng của nàng. Căn phòng xinh đẹp này là của họ. Mặc kệ, chiếc áo chết tiệt mà nàng đang mang trên người. Chuyện chẳng đáng gì, nhưng nó mang lại thích thú cho chàng, nàng tươi cuời khi họ nâng cốc chúc mừng nhau và lăn xã vào vòng tay nhau…
Jenni vẫn còn thức một lúc lâu trong khi Erich đã ngủ vùi kề bên nàng, tay chàng đặt dưới đầu nàng, khuôn mặt chàng vùi lấp trong mái tóc nàng. Mọi sự đều êm ả, tĩnh lặng nên sự im vắng tuyệt đối của căn phòng làm nàng cảm thấy lạ lẫm với thói quen nghe tiếng động ồn ào về đêm ở new York.
Trong căn phòng không được ấm. Jenni nằm đây tận hưởng không khí trong lành. Cảnh vật im vắng, hoàn toàn bất động, chỉ còn nghe tiếng thở đều của Erich bên cổ nàng, nàng ngầm nghĩ, “mình thật hạnh phúc, không biết rồi đây thứ hạnh phúc này có còn tồn tại hay không?”
Erich là một người tính hiền hậu và chu đáo. Nàng nghĩ đến câu chuyện họ nói với nhau trước khi chàng chìm vào giấc ngủ: “Kevin là người duy nhất đến với em hả, Jenni?”
– Vâng.
– Còn anh thì không có người đàn bà nào khác ngoài em.
Điều đó có nghĩa rằng chàng chưa hề yêu ai trước khi gặp nàng hoặc là chàng chưa hề làm tình với người đàn bà nào? Hẳn có thể như vậy chăng?
Những ý nghĩ miên man trong đầu nàng… rồi nàng chìm dần vào giấc ngủ.
Khi ánh sáng ban ngày vừa chiếu vào phòng thì Jenni thấy Erich động đậy và trườn ra khỏi giường.
Nàng gọi nho nhỏ:
– Erich
– Em yêu, anh không muốn làm em thức giấc. Anh không thể ngủ thêm được. Anh phải đi ra căn nhà gỗ để vẽ trong vài giờ đây. Trưa anh sẽ trở về.
Chàng dịu dàng hôn lên trán và đôi môi nàng, trong khi nàng còn ngái ngủ:
Nàng thi thầm:
– Em yêu anh.
Khi nàng thức giấc lần nữa thì căn phòng đã tràn ngập ánh sáng, nàng chạy đến mở toang cánh cửa sổ và ngạc nhiên vì Erich đã mất hút trong rừng.
Quang cảnh ngoài trời thật giống như trong những tác phẩm hội họa của Erich. Những cành cây bất động trong băng giá. Tuyết, tựa chiếc áo choàng trắng xóa phủ trên tầng hầm mái của kho thóc, kề bên ngôi nhà. Xa xa trên những cánh đồng, người ta thấy lố nhó dăm ba cái đầu của bầy gia súc.
Jenni nhìn chiếc đồng hồ báo thức bằng men sứ trên bàn ở đầu giường. Tám giờ. Mấy đứa trẻ sẽ thức dậy và chúng sẽ sợ hãi khi nhận ra đang ở một nơi xa lạ.
Đôi chân trần, nàng vội vàng đi ra hành lang. Khi đi ngang qua căn phòng trước đây của Erich, nàng liếc mắt nhìn vào và dừng lại. Nàng trông thấy chiếc khăn phủ giường đã được vén lên, những dấu lún trên những chiếc gối. Nàng đi vào phòng, lấy tay sờ đến chiếc khăn trải giường, nó vẫn còn hơi ấm. Hẳn Erich đã rời phòng của họ để đến nơi đây. Nàng thắc mắc, để làm gì chứ?
Nàng nghĩ thầm, chàng ngủ rất ít, hẳn chắc chắn là vì chàng sợ động đậy làm mình thức giấc. Hơn nữa, chàng luôn có thói quen ngủ một mình. Hay có thể chàng đến đây để đọc sách?
Nhưng Erich đã xác nhận là không bao giờ ngủ nơi đây từ năm chàng lên mười đến nay cơ mà.
Nàng nghe tiếng những bước chân vội vã trong hành lang và tiêng kêu: “Mẹ, mẹ”. Jenni chạy đến, cúi xuống và dang rộng đôi tay ôm các con. Beth và Tina, những đôi mắt còn ngái ngủ, ôm chầm lấy nàng.
Beth than vãn:
– Tụi con kiếm mẹ khắp nơi!
– Còn con thì thích ngôi nhà này lắm -. Tina bập bẹ nói.
Beth lại nói:
– Và tụi con còn có quà nữa nè!
– Quà ư? Con lấy ở đâu ra vậy cưng?
– Con cũng có nữa! – Tina hét lớn. – Cám ơn mẹ nhé!
Beth giải thích:
– Quà nằm dưới gối của chúng con.
Jenni trố mắt kinh ngạc khi trông thấy trong tay mỗi đứa bé gái là một bánh xà phòng nhỏ hình tròn thơm mùi thông.
Nàng mặc cho hai đứa trẻ bộ áo liền quần bằng vải nhung và những chiếc áo thun sọc.
Beth reo lên:
– Khỏi phải đến truờng!
Vui vẻ gật đầu, Jenni nói:
– Đúng, các con không đến truờng.
Vội vã mặc chiếc áo san đai và quần dài, nàng và hai con đi xuống nhà dưới. Chị người làm vừa đến để dọn dẹp nhà cửa. Trông chị ta gầy ốm kỳ lạ so với đôi tay to lớn và đôi vai vạm vỡ. Đôi mắt chị ta thật nhỏ trên khuôn mặt béo tốt. Nét nhìn của chị hẳn thật đa nghi. Hiếm thấy chị ta nở một nụ cười. Mái tóc chị được thắt bím quá chặt như kéo da đầu từ vầng trán lên.
Jenni chìa bàn tay ra:
– Hẳn chị là Elsa? Tôi là… – Nàng định nói: ‘Jenni’ nhưng nhớ lại vẻ căng thẳng của Erich trước thái độ thân thiện
của nàng đối với Joe, nên nàng nói: “Tôi là bà Erich”. Nàng giới thiệu luôn hai đứa trẻ với chị ta.
Elsa gật đầu nói:
– Ở đây, tôi cố chu toàn mọi chuyện.
– Tôi thấy điều đó, ngôi nhà thật ngăn nắp và sạch sẽ!
– Bà nói giúp với ông Erich rằng cái vết do trên vách tường trong phòng ăn, tôi không làm gì được, có thể vết đó hẳn là do sơn nơi bàn tay ông.
– Chiều hôm qua, tôi không thấy vết dơ nào cả.
– Tôi sẽ chỉ cho bà xem.
Trong phòng ăn, gần cửa sổ, có một vết trên giấy sơn của vách tường. Jenni quan sát nó, rồi nói:
– Nào có lớn lao gì đâu, phải có một cái kính hiển vi mới nhìn thấy nó được.
Elsa đi dọn dẹp trong phòng khách. Jenni đi vào nhà bếp để dùng điểm tâm với các con. Sau đó, nàng phân phát cho các con những cây bút chì màu và giây tô màu. Nàng yêu cầu chúng: “Nghe nào, các con, hãy để yên cho mẹ uống cà fê xong, chúng ta sẽ đi dạo”.
Nàng muốn dành chút thời gian để suy nghĩ về việc sáng nay. Chỉ có một mình Erich là có thể đặt những bánh xà phòng này dưới gối mấy đứa nhỏ. Hẳn nhiên đó là một việc rất bình thường khi, sáng nay chàng tạt qua phòng hai đứa bé và hẳn cũng không có gì xấu trong việc chàng biểu lộ mình yêu thích mùi thông.
Nàng nhún vai, uống cạn ly cà fê và đứng lên, mặc áo choàng cho hai đứa bé.
Sáng nay trời lạnh nhưng không có gió.
Nàng nhớ, Erich đã báo cho nàng biết là mùa đông ở Minnesota có thể rất khắc nghiệt và kinh khủng nữa. Chàng
nói thêm: “Trong năm nay, em có thể tập thích ứng dần dần. Thời tiết đang thuận lợi”
Nàng đắn đo đứng trước bậc thềm cửa ra vào. Nàng thầm nghi, hẳn có thể Erich ước ao đưa mẹ con nàng đi xem chuồng ngựa và chuồng gia súc đồng thời giới thiệu nàng với những người làm việc trong nông trang.
Cuối cùng, nàng quyết định:
– Chúng ta đi ngả này, các con.
Nàng dẫn hai đứa nhỏ đi về phía những cánh đồng trải dài theo hướng đông của ngôi nhà. Họ đi bộ trong tuyết trắng, xa dần ngôi nhà. Khi đi về phía con lộ bao quanh phía đông của nông trang, Jenni trông thấy một mảnh đất được rào kín và nàng đã biết họ đang đến nghĩa trang của gia tộc. Sau hàng giậu trắng, người ta thấy có nửa tá ngôi mộ bằng đá hoa cương.
Beth hỏi nàng:
– Cái gì đây vậy mẹ?
Jenni và hai con đi vào trong phần đất rào kín. Jenni đi từ ngôi mộ này sang ngôi mộ khác và đọc trên các tấm bia.
Erich Fritz Krueger, 1843-1913 và Qretchen Krueger, 1847¬1915. Hẳn đây là ông bà cố của Erich. Hai người cháu: Marthe, 1875-1877 và Amanda, 1878-1890, ông bà của Erich, Erich Lars và Olga Krueger, cả hai sinh năm 1880. Bà mất năm 1941, ông mất năm 1948. Một cháu bé, Erich Hans, mất khi được 8 tháng, năm 1911. Jenni ngẫm nghĩ: Biết bao là đau buồn! Hai đứa cháu gái cùng qua đời trong một thế hệ. Một đứa bé thì mất ở thế hệ tiếp theo. Làm sao người ta có thể chịu đựng được một sự đau đớn như thế? Ngôi mộ kế tiếp là của Erich John Krueger, 1915-1979. Thân phụ của Erich.
Ở đây có một ngôi mộ cách biệt, nằm phía cuối hướng nam của nghĩa trang, hoàn toàn biệt lập với những ngôi mộ khác. Đó là ngôi mộ mà từ nãy giờ nàng vẫn muốn tìm và trên bia mộ có ghi: Caroline Bonardi Krueger, 1924-1956.
Nàng thầm nghĩ, song thân của Erich không được mai táng gần nhau sao? Tại sao? những ngôi mộ khác trông chừng như bị bỏ hoang và duờng như chỉ có ngôi mộ này là được chùi rửa. Hẳn vì tình yêu của Erich đối với mẹ khiến chàng có lòng chăm sóc đặc biệt mộ chỉ của Caroline chăng? Một mối kinh hoàng khó tả làm Jenni khó thở. Nàng cố tươi cười với các con:
– Nào, các con, chúng ta hãy chạy thi, người trước tiên sẽ đến đầu cánh đồng.
Hai đứa bé cười rộ và chạy theo sau nàng. Chúng bắt kịp được Jenni và vượt qua nàng. Đến lượt nàng lại lười biếng đuổi theo chúng. Sau cùng, cả ba đều dừng lại vì mệt hết hơi! Rỏ ràng là Beth và Tina rất sung sướng khi có Jenni bên cạnh: đôi má chúng hồng hào, đôi mắt rạng rỡ. Ngay cả Beth, bây giờ cũng không còn làm ra vẻ nghiêm trang.
Jenni ôm chặt con vào lòng. Nàng đề nghị:
– Bây giờ, chúng ta đến cái gò đất đằng kia, rồi quay về nhà.
Nhưng khi đã lên đến gò đất, nàng và hai con liền trông thấy một nông trại màu trắng lấp ló phía bên kia. Jenni thầm nghĩ, hẳn đó là ngôi nhà cũ của gia tộc Erich, nay đã nhượng lại cho người quản lý nông trang.
Beth hỏi:
– Ai sống ở đấy thế mẹ?
– Những người làm việc cho ba.
Khi Jenni và hai con đang quan sát ngôi nhà thì cánh cửa ở đó mở ra và một người đàn bà xuất hiện trước cổng nhà, vẫy tay gọi họ đến.
Jenni hối thúc các con:
– Beth, Tina, đến mau. Chúng ta sẽ làm quen với những người hàng xóm đầu tiên.
Khi băng qua cánh đồng, nàng thấy người đàn bà đang chăm chú nhìn nàng và các con. Không màng đến rét buốt, bà vẫn đứng đó chờ họ trên ngưỡng cửa. Trông thấy cái dáng nhỏ bé và co ro, thoạt tiên, Jenni tưỏng đó là một bà già nhưng, khi đến gần, nàng biết bà không quá tuổi năm mươi lăm. Mái tóc nâu điểm bạc vấn thành búi trên đỉnh đầu và sau cặp kiếng không gọng là đôi mắt màu xám với cái nhìn buồn bã. Bà ta mặc một chiếc quần dài rộng bằng vải len thô và lộ ra dưới lớp áo sanđai đôi vai xương xẩu và dáng gầy nhom của bà. Khuôn mặt bà còn lại đôi nét xinh đẹp của ngày xưa và cái miệng chảy xệ vì năm tháng đó có đôi môi đậm nét. Bà ta nhìn chăm Jenni rồi bà nói giọng the thé:
– Hẳn đúng như Erich đã nói: ‘’Rooney, hãy gặp Jenni rồi bà sẽ thấy cô ta giống Caroline đến thế nào. Nhưng Erich không muốn tôi nhắc lại điều đó’’. – Nàng thấy rỏ là bà ta đang cố gắng để giữ bình tĩnh.
Jenni chìa bàn tay ra:
– Rooney à, Erich cũng nói với tôi về bà. Anh ấy đã nói với tôi rằng bà đã ở đây rất lâu, chồng bà làm quản lý nông trang, nếu tôi không lầm tôi chưa được gặp ông ấy.
Không để ý đến lời Jenni, bà ta hỏi ngay:
– Hẳn cô từ New York đến?
– Vâng.
– Cô bao nhiêu tuổi?
– Hai mươi sáu.
– Con gái tôi hai mươi bảy tuổi. Clyde nói nó đi New York. Hẳn có thể cô đã gặp nó ở đó?
Bà ta hỏi với sự tò mò không nguôi.
Jenni đáp:
– Tôi nghĩ rằng không đâu bà ạ. New York lớn lắm. Cô ấy làm gì? Cô ở đâu?
– Tôi không biết. Arden đã trốn khỏi đây mười năm rồi. Theo lẽ, nó không cần phải lén lút như vậy. – Nó có thể nói rỏ với tôi: “Mẹ, con muốn đi new York” và tôi sẽ không từ chối. Cha nó thì hơi nghiêm khắc. Hẳn nó biết là với cái tuổi của nó ông ta không để cho nó ra đi. Nhưng nó rất dễ thương. Chính nó đã từng làm đoàn trưởng hướng đạo. Tôi không ngờ là Arden thích ra đi như vậy. Tôi cứ tưởng nó được sung sướng khi sống với chúng tôi. – Người đàn bà đăm đăm nhìn bức tường đối diện, chìm đắm trong sự tưởng nhớ, như thể bà ta đã kể câu chuyện này không biết lần thứ mấy rồi. – Đó là đứa con độc nhất của chúng tôi. Nó ra đời khi chúng tôi đã luống tuổi. Thật là một bé gái rất xinh đẹp, yêu đời, nếu bà thấy đuợc những gì tôi muốn nói. Nó năng động ngay từ khi chào đời nên tôi mới đặt tên là Arden nghĩa là “sự hăng say thu nhỏ”, cái tên này quả là hợp với nó.
Beth và Tina đang bám vào váy mẹ. Hẳn nơi Rooney toát ra một nét gì đó rất bí ẩn, nơi đôi mắt nhìn đăm đăm của bà, nơi dáng người run rẩy của bà, đã làm cho hai đứa bé sợ hải.
Jenni ngẩm nghĩ: “Chúa ôi! hẳn đã mười năm rồi không được biết tin tức gì về đứa con độc nhất của bà ta. Nếu ở vào hoàn cảnh của mình chắc mình hóa điên mất! “
Rooney chỉ cho nàng xem một bức ảnh đóng khung treo trên vách:
– Cô nhìn xem, nó đó. Bức ảnh này nó chụp hai tuần trước khi nó ra đi.
Jenni ngắm nhìn cô gái trong ảnh tươi vui, khỏe mạnh, đang độ xuân thì, với mái tóc vàng uốn lọn.
Rooney nói:
– Có thể giờ đây nó đã lập gia đình và có con. Tôi luôn nghĩ như vậy. Vừa rồi, thoạt thấy cô đến đây với hai đứa bé, tôi cứ nghĩ rằng có thể là Arden.
Jenni nói:
– Tôi rất tiếc.
– Không, không sao cả. Xin cô đừng kể lại cho Erich nghe là tôi nhắc đến Arden. Clyde nói rằng: Erich đã nghe quá đủ những gi tôi lải nhải về Arden và Caroline rồi. Vì vậy, sau khi thân phụ Erich qua đời, ông ta không cho phép tôi coi sóc nhà cửa nữa. Tôi giữ gìn nhà cửa của ổng rất chu đáo, xem như là nhà của tôi. – Chúng tôi về sống nơi đây từ khi John và Caroline thành hôn. Caroline rất thích cách làm việc của tôi và, ngay cả sau khi bà mất, tôi cũng tiếp tục làm việc như vậy, cứ như bà vắng nhà trong chốc lát thế thôi!. Nhưng, bây giờ xin mời cô hãy vào nhà bếp. Tôi đã chuẩn bị bánh rán và cà phê.
Mùi thơm của cà-phê trong căn bếp như niềm nở đón chào nàng. Họ ngồi quanh chiếc bàn tròn sơn trắng. Tina và Beth ăn ngon lành những chiếc bánh rán còn nóng hổi và uống sữa.
Rooney nói:
– Tôi còn nhớ, khi Erich trạc tuổi các cháu bé này, tôi luôn làm thứ bánh này cho cậu. Mỗi lần vắng nhà, bà Caroline thường gởi cậu ta cho tôi giữ. Tôi xem Erich như con tôi, bây giờ cũng vậy. Vợ chồng tôi đã phải mất mười năm mới có được mụn con là Arden, còn bà Caroline thì đã có Erich trong năm đầu tiên. Tôi chưa bao giờ thấy một đứa bé trai nào mà yêu mẹ như thế. Cậu ta luôn bám vào váy mẹ. Lạy Chúa, cô Jenni à, trông cô thật giống bà Caroline!
Cầm lấy bình cà-phê và rót thêm cho Jenni, Rooney nói tiếp:
– Và, Erich đã tỏ ra rất rộng luợng với chúng tôi. Ông ta đã tốn hao một số tiền lớn để thuê thám tử tư tìm kiếm Arden.
Jenni thầm nghĩ, Erich là thế đấy!
Đồng hồ treo trên bồn chén bát đã điểm mười hai giờ. Vội vàng, Jenni đứng dậy. Giờ này hẳn Erich đã về nhà. Nàng nóng lòng muốn gặp chàng.
– Bà Toomis à, chúng tôi phải về. Tôi mong bà đến nhà chúng tôi.
– Hãy gọi tôi là Rooney như tất cả mọi người. Lúc này, Clyde cấm tôi đến tòa nhà chính, nhưng, tôi không vâng lời và thường lén lút đến đó để kiểm tra xem mọi thứ có ngăn nắp không. Cô Jenni à, tôi mong cô hãy đến thăm tôi, tôi thích tiếp khách lắm.
Nụ cười làm thay đổi diện mạo của bà. Trong thoáng chốc, những nếp nhăn buồn bã biến mất trên khuôn mặt của bà. Jenni thầm nghĩ, thời trẻ hẳn bà ta là một người xinh đẹp.
Biếu Jenni một đĩa bánh rán, bà Rooney nói:
– Cô hãy đem về dùng cho bữa ăn chiều.- rồi mở cánh cửa lớn và đột nhiên kéo cao cổ áo, bà thở dài nói tiếp: “Tôi nghĩ rằng, đã đến lúc tôi phải đi kiếm Arden đây! – Giọng nói của bà nghe thật mơ hồ.
Mặt trời buổi trưa chói lọi trên những cánh đồng phủ tuyết, ngôi nhà hiện ra khi họ đến khúc quẹo của con lộ. Tường gạch xám xịt bóng loáng. Jenni thầm nghĩ, đây là nhà của chúng ta. Nàng nắm lấy tay của hai đứa nhỏ và thắc mắc, phải chăng bà Rooney đã lang thang mãi trong khoảng không gian vô tận này để tìm kiếm đứa con đã mất?
Beth nói:
– Mẹ à, con thấy bà ấy thật dễ mến!
Jenni đồng ý:
– Đúng, bả rất dễ mến. Nào, đi nhanh lên các con, mẹ tin chắc rằng giờ này ba đang đợi chúng ta.
Beth hỏi:
– Ba nào?
– Một ba độc nhất.
Trước khi mở cửa vào nhà bếp, Jenni nói nhỏ với hai con:
– Chúng ta hãy bước nhẹ để làm ba ngạc nhiên.
Những đôi mắt sáng nhìn nhau, hai đứa bé đồng ý gật
đầu. Jenni nhẹ nhàng mở cửa, không một tiếng động. Nàng nghe văng vẳng tiếng nói của Erich từ phòng ăn. Tiếng nói nhấn mạnh từng chữ một:
– Tại sao chị dám buộc tội tôi gây ra vết bẩn này? Chắc hẳn là chị đã đụng vào vách tường dán giấy này khi chị lau cửa sổ, với cái giẻ lau dính xi. Hẳn chị có biết, lúc này là phải phủ lại giấy toàn bộ căn phòng? Chị có biết là khó khăn lắm mới kiếm được cùng mẫu giấy không? Đã bao nhiêu lần tôi nói với chị là phải cẩn thận với cái giẻ lau đáng tởm., của chị?
Elsa ấp úng:
– Nhưng thưa ông Erich…
– Về phần chị, tôi yêu cầu chị phải xin lỗi tôi vì đã đổ lỗi cho tôi gây ra vết bẩn này, nếu không chị phải ra khỏi nhà này ngay và đừng bao giờ trở lại.
Không khí trở nên ngột ngạt.
Beth thầm thì, run sọ:
– Mẹ!
Jenni nói:
– Suỵt, – nàng nhủ thầm: ”Lẽ nào vì một vết bẩn nhỏ bé này mà Erich để xảy ra cớ sự như vậy. Thật là việc không thể được! Tốt hơn là mình đừng xen vào. Mình cũng không giúp gì được”.
Nàng đẫy hai đứa bé đi ra ngoài và đóng cửa lại. Bên tai còn nghe văng vẳng tiếng nói buồn bã và đau khổ của Elsa. “Tôi xin lỗi ông, thưa ông Erich”.