Chỉ mấy bữa sau, mọi việc trở lại bình thường, có thể tạm cho là vậy đi. Ai hỏi tôi chỉ nói Regina về nhà lo chăm sóc bà dì đang ốm.
Jack De Campo đến thăm Mofass trong bệnh viện – gã đến để tạ lỗi. Gã trách, chuyện chỉa mũi dùi vô những thành viên đứng ngoài cuộc, còn chuyện xáo trộn trong nội bộ không nghe nói.
Mofass không muốn tha cho hắn ngay lúc đầu, gã sực nhớ lại Mouse thường hay gieo nỗi sợ hãi cho người khác.
“Ông nên biết là ông Rawlins”. Mofass đang nói trong má, trông mặt mũi hắn trăng bệch quá sợ hãi nhìn thấy ra bằng hai tên da trắng .
Hiếm khi tôi với gã cùng phá ra cười vì một câu chuyện đùa.
Lúc tôi báo cho gã hay bạn bè ta đã có tên trong bảng lương thì chớ nên lo, tôi nghĩ gã phải nhào tới sau hôn tôi một cái.
“Ok, William, lần sau cậu phải lo làm ăn cho đàng hoàng”, tôi nói.
“Ơ hơ. Nhưng còn một việc nữa”.
“Việc gì?”.
“Bọn chúng muốn hùn thêm vốn, góp vốn một trăm hai mươi lăm ngàn đô, tính ra là hai mươi lăm phần trăm”.
Tôi nghĩ trong đầu hắn đang làm ăn theo kiểu tự sát.
“Ái dà…”.
“Bọn này có quan hệ làm ăn trong khi không có ngân hàng nào giúp cho một tên Negro”.
Nghĩ tới lúc DeCampo về làm cho tôi thì cũng được thôi, lũ lấy tiền quỹ ra mở rộng thêm.
“ Cậu nói, mình thỏa thuận nười tám phần trăm chịu không thì làm?”.
“Ok”. Tôi nghe tiếng hắn cười trong máy.
Bốn bưa sau ngày Quinten Naylor tới đây chuông điện thoại reo. Mỗi khi nhấc máy ruột gan tôi muốn lộn phèo. Tôi nghĩ mãi mình phải ăn nói sao với nàng.
“Alô”.
“Có phải ông là Easy Rawlins?” tôi nghe giọng một anh chàng thanh niên.
“Dạ phải”.
“Vậy thì … thật tôi không biết, thưa ông. Đây là một chuyện lạ”.
“Chuyện thế nào ?”.
“Ồ, ông còn nhớ một cặp nhân tình đã đến ăn ở quán Chicken Pit cách nay một tuần?”.
Tôi thấy đau thắt cả ruột.
“Cách đây mấy bữa một cô nàng cong trẻ lắm bước tới bàn tôi ngồi xin một ly nước. Tay đưa ra cầm ly nàng lại chộp lấy tay tôi giúi vô mảnh giấy này, chắc cô nàng có điều gì lo lắng…?”
“Trong mảnh giấy ghi lại ra sao?”.
‘Chỉ là một góc bài báo, một phiếu đua ngựa đề tên ông cùng số điện thoại, ngoài lề ghi chú thêm “báo cho Sở cảnh sát, bọn tôi đang ở tại nhà trọ Seacrest, ký tên Sylvia”.
“Sao để tới hai bữa sau mới cho hay?”.
“Tôi đâu có biết chuyện gì. Lạ thật. Tôi sợ gặp rắc rối. Ông biết đó… Tôi không dám báo Sở cảnh sát”.
“Nhà trọ Seacrest ở đường nào?”.
“Nằm ngay góc ngã ba phố Adams và La Brea. Ông có cho là…”.
‘Bọn chúng còn ở lại đó bao lâu”.
“Qua bữa sau tôi nghỉ làm, tôi về San Diego không còn nhớ gì nữa…”.
“Cô nàng còn ở lại đó không?”.
“Không, chỉ còn một anh chàng, tôi xin thưa, tôi đã báo cho ông rõ sự việc”.
Tôi gác máy bước nhanh tới mở tủ, lấy khẩu súng. Jesus đeo theo tối níu chân lại. Tôi đứng lại hỏi nó, “Gì đó con?”.
Nó nhìn theo khẩu súng trên tay tôi.
“Không phải mẹ Regina, mẹ bỏ đi rồi, không phải mẹ gọi”, tôi nói cho nó nghe.
Mới nghe nó chưa tin. Tôi ngồi xuống giảng cho nó nghe một hồi, con ở nhà bố về sớm. Tôi bước ra lấy xe chạy thẳng tới nhà trọ Seacrest.
Cứ tới ngã tư tôi định gọi Sở cảnh sát. Qua mỗi chặng đường trường tôi nghĩ trong đầu phải giết Vernor Garnett, tôi căm ghét hắn đủ thứ. Hắn giết đứa con, còn vợ hắn đứng sau lưng hắn giật dây. Hắn chỉ còn một câu nói láo là tôi vào ngồi tù. Hắn là một tên da trắng.
Nhà trọ Seacrest xây trệt, bên kia đường là bãi đậu xe quay mặt ra ngoài. Tôi lái xe vô bãi lúc ba giờ chờ đó.
Tôi ngồi chờ tới ba tiếng đồng hồ, đầu óc chỉ nghĩ tới Regina. Tôi muốn nhớ lại từ trước kia, càng nghĩ thấy càng nhức nhối. Nhưng lúc này đây ngồi chờ cái tên chó chết này, tôi quên mất hết nỗi đau nhức nhối. Tôi thấy căm giận Garnett đến tận xương tủy.
Ngay lúc nhìn thấy Garnett bước ra sau cùng đến lúc này tôi không nhớ ra gì nữa. Tôi không thể nói ra được vì sao nàng bỏ ra đi. Tôi không thể nói ra được lẽ ra tôi phải khác hơn.
Mặt mũi Garnett đầy lông măng mới nhú. Lão mặc chiếc áo choàng hai bên ve áo lật ngược. Lão đi bộ dọc theo đường phố tới quán ăn Chiken Pit, đầu cúi xuống.
Tôi đẩy mạnh cửa bước nhanh vào.
Sylvia đã chết từ lúc nào. Lão đặt nạn nhân nằm dưới sàn nhà cầu, khóa cửa lại. Cái xác giờ đã bốc mùi hôi, một bên màng tang lõm xuống. Bên trong gian phòng ngổn ngang đủ thứ, quần áo, hộp đồ ăn quăng tứ tung. Trên giường tờ báo đang coi dở dang tới trang chuyên đề du lịch. Ba chuyến đi Mêhicô được khoanh lại.
Tôi tắt đèn đứng lùi ra sau cửa, tôi đứng cho tới khi nào chán thôi. Chiếc giường, chiếc bàn trang điểm đổi màu mờ nhạt. Tay tôi lăm le khẩu súng.
Garnett trở về mở cửa đóng lại mới bật đèn. Tôi không lúng túng trước ánh đèn vừa bật sáng.
“Sao vậy?”, Vernor la to như muốn nói với một người nào đứng gần đó. Nhìn lại lão chỉ có một mình.
Giả sử ngay lúc đó lão nhào tới tôi sẽ níu lấy xác Sylvia theo về phía tôi. Nhưng không tay lão nắm chặt núm cửa.
Tôi chỉa súng ra, lão lắc đầu như thể là đang đối mặt trước một hoài niệm bất ngờ khó chịu. Tôi giáng thêm một cú đòn lão khuỵu xuống như lúc J.T. Saunders ra đòn hạ gục tên cớm.
“Tôi van ông!”, lão nói nhỏ nhẹ.
Một tiếng thét dội ngược vô đầu “Giết hắn đi!” Lặp đi lặp lại nhiều lần. Cần cổ tôi run giật. Ngay lúc đó tôi nhận ra là nếu không bóp cò tôi sẽ mất mạng. Mắt tôi nhòe đi, môi tôi muốn thét lên một tiếng, ruột gan tôi lộn xộn tay cầm khẩu súng không chặt.
Garnett cúi đầu nhìn vào cửa hai tay đưa lên úp vô mặt. Cả hai lão với tôi như những tên cuồng trí trước giờ lâm nguy, cả hai như thằng điên nhưng lão là một tay luật sư.
Lão cất tiếng trước. Mới vừa nghe tôi bàng hoàng được một lúc tôi mới thấy có lý. Lão nói vậy mà không phải vậy. Lão không có ý giết đứa con gái. Nhưng khi sự việc xảy ra rồi, lão mới giả mạo phiếu lãnh tiền đề tên Saunders, bởi lão đã biết rõ câu chuyện trong phiên tòa vừa xử.
“Lão giết con bé ngay trong xe”.
“Sylvia thì ra sao?”.
“Tôi chỉ cần lấy được cuốn nhật ký nhưng không ai mang theo”, lão nói.
“Nghĩ sao ông giết con bé?”.
“Nói làm gì nữa”, lão kể lể “Nó không đưa cho tôi – Nó muốn… muốn…”.
Tôi trói chặt lão Garnett, rồi khóa mồm lại đem quăng vào nhà cầu cùng với Sylvia Bride.
“Ô kìa”, Quinten Naylor cất tiếng.
Tôi đưa ra địa chỉ nhắc lại có người gọi gã, không rõ họ tên.
Với người khác coi cuộc trả thù thật là ngọt ngào. Tôi chỉ nhớ lúc đó chạy xe một quãng khá xa tôi dừng lại nôn mửa xong mới thở ra được.
Bailey tay nấu ăn cho Bull Horker rất đỗi vui mừng kể cho tôi biết chỗ ở của Cyndi ngoài bãi biển Redondo Beach. Chỉ cần bỏ ra thêm năm mươi đô la hắn sẽ thi hành nhiệm vụ báo thù giúp cho tôi.
Căn hộ ở khu phố Exeter là của bà lão Charla Fine. Bà giữ con cho Bull Horker, bà cũng không vui gì khi hay tin Bull Horker đã chết. Đứa cháu Feather thì vui vẻ một cách vô tư. Lần đầu tôi thấy nó, nó đang gặm ngón chân. Tôi nghiêng người xuống nó nhìn tôi cười.
Tôi bỏ ra năm trăm đôla mua được nó về tay tôi.
Qua bữa sau báo đưa tin chi tiết hơn vụ án. Con bé diễn viên múa thoát y Sylvia Bride bị giết chết (tên thật là Phyllis Weistein) được đăng ảnh trên trang nhất,khắp California.
Phiên tòa xử được báo đưa lên trang nhất được mấy tuần. Mọi chuyện ngoài công tố viên muốn che đậy đã được công khai trên mặt báo. Tin về cuộc sống phiêu lưu và cái chết của đứa con gái. Tội ác của người cha, tôi che giấu tội phạm của người mẹ.
Chẳng có một ai lưu tâm đến đứa trẻ sơ sinh. Tin đồn mẹ nó đem đi vứt bỏ, và càng ly kỳ hơn không ai được thấy mặt đứa trẻ kể từ lúc mới sinh ra.
Vậy mà trên giấy tờ khai sinh ghi là một đứa trẻ da trắng. Thế là đứa bé Feather yên ổ ở lại với tôi.
Hai năm sau Vernor Garnett chết trong tù. Vợ lão được tòa xét trắng án, dọn qua ở địa phương khác.
Không còn ai nghe nhắc tới Milo.