Hiện tại
– Cảm ơn vì đã đồng ý gặp tôi ngay sau một thời gian ngắn như vậy, bác sĩ Isles.
Julia ngồi trong văn phòng giám định pháp y. Cô bước từ cái nóng mùa hè vào một tòa cao ốc mát lạnh, và bây giờ cô đang ngồi đối diện, cách một cái bàn với người phụ nữ dường như rất thoải mái với không gian lạnh giá này. Ngoại trừ bức ảnh hoa đóng khung trên tường, văn phòng của Maura Isles giống như tất cả những nơi khác với tài liệu, sách, kính hiển vi và một cái bàn bừa bộn. Julia cử động không thoải mái trên cái ghế, cảm thấy như thể cô đang bị đặt dưới ống kính hiển vi vậy.
– Có thể bà hầu như không bao giờ gặp những yêu cầu như của tôi, nhưng tôi thực sự cần biết. Để tâm hồn tôi được thanh thản.
– Tiến sĩ Pietre là người mà cô nên nói chuyện. – Isles nói. – Bộ xương là một trường hợp thuộc về nhân chủng học pháp lí.
– Tôi ở đây không phải vì bộ xương. Tôi đã nói chuyện với tiến sĩ Pietre và bà ấy không có gì mới để nói với tôi cả.
– Vậy tôi có thể giúp gì cho cô?
– Khi tôi mua ngôi nhà, nhân viên nhà đất đã nói với tôi rằng người chủ trước là một bà cụ già đã chết trong nhà. Mọi người đều cho rằng đó là một cái chết tự nhiên. Nhưng vài ngày trước, người hàng xóm cạnh nhà tôi đã kể là đã có một vài vụ trộm trong khu vực. Và năm ngoái, có một người đàn ông đã lái xe vòng đi vòng lại con đường, như thể ông ta đang quan sát những ngôi nhà. Bây giờ tôi bắt đầu nghi ngờ liệu…
– Liệu đó có phải là một cái chết tự nhiên không chứ gì? – Isles thẳng thừng. – Đó là điều mà cô đang băn khoăn phải không?
Julia nhìn thẳng vào mắt người bác sĩ pháp y.
– Đúng.
– Tôi lấy làm tiếc là tôi đã không tiến hành khám nghiệm pháp y trường hợp đó.
– Nhưng phải có một báo cáo ở đâu đó phải không? Nó có thể cho biết nguyên nhân của cái chết đó chứ?
– Tôi phải biết tên của người đã chết.
– Tôi có đây.
Julia với lấy cái ví và lôi ra một tập giấy photo đưa cho Isles.
– Đây là cáo phó của bà cụ trên báo địa phương. Tên của bà ấy là Hilda Chamblett. Và đây là tất cả những mẩu tin mà tôi có thể tìm thấy về bà ấy.
– Vậy là cô đã tìm kiếm về nó.
– Nó cứ lởn vởn trong đầu tôi. – Julia cười ngượng nghịu. – Thêm nữa, có một bộ xương cũ trong sân sau nhà tôi. Tôi cảm thấy một chút không thoải mái khi có hai người phụ nữ đã chết ở đó.
– Ít nhất là cách nhau một trăm năm.
– Người chết năm ngoái thật sự làm tôi lo lắng. Đặc biệt là sau khi hàng xóm của tôi kể về những vụ trộm.
Isles gật đầu.
– Nó cũng làm tôi có cảm giác ấy. Để tôi tìm báo cáo.
Bà ra khỏi văn phòng và một lúc sau quay trở lại với tập hồ sơ.
– Việc khám nghiệm là do bác sĩ Costas tiến hành.
Bà vừa nói vừa ngồi lên bàn, mở hồ sơ.
– Chamblett, Hilda, chín mươi hai tuổi, được tìm thấy ở sân sau nhà mình tại Weston. Thi hài được một người trong gia đình tìm thấy. Người này đi xa và đã không đến thăm bà ấy ba tuần. Thời gian chết vì thế không xác định.
Isles búng vào một trang mới rồi dừng lại.
– Những bức ảnh không hề hay ho. – Bà nói. – Cô không cần phải xem chúng.
Julia chấp nhận.
– Không, tôi không cần. Bà có thể chỉ đọc cho tôi phần kết luận chứ?
Isles lật đến phần kết quả và ngước lên.
– Cô có chắc là cô muốn nghe điều này?
Julia gật đầu, Isles một lần nữa đọc to:
– Thi thể được tìm thấy trong tình trạng nằm ngửa, xung quanh là cỏ mọc cao và cỏ dại che kín đến mức không thể nhìn thấy dù chỉ cách đó vài mét.
Lại là đống cỏ dại mà mình đã chiến đấu, Julia nghĩ. Mình đã nhổ cùng một loại cỏ đã che giấu cái xác của Hilda Chamblett.
– Không có chỗ da hay mô mềm nào được tìm thấy còn nguyên vẹn trên bề mặt lộ ra. Những mảnh vụn quần áo, gồm có những phần còn lại của một cái váy vải thô không có tay, bám chặt vào phần thân. Trên cổ, một đốt sống cổ có thể thấy dễ dàng và một phần mô mềm bị thiếu. Ruột non và ruột già bị mất một phần lớn, còn phổi, gan và lá lách bị khuyết với mép có răng cưa. Điều đáng chú ý là những phần bị xé thành những sợi nhỏ, được cho là dây thần kinh và sợi cơ, được tìm thấy trong tất cả các khớp chi. Màng xương, bao gồm sọ, các xương sườn và các bộ phận xương đều phủ một lớp sợi mịn giống nhau. Lưu ý là xung quanh cái xác có rất nhiều phân chim.
Isles ngước lên:
– Được cho là do những con quạ.
Julia nhìn bà.
– Bà đang nói là những con quạ đã gây ra điều đó?
– Kết quả đó thường là do những con quạ rỉa xác. Loài chim nhìn chung thường được biết đến như là nguyên nhân gây ra những hư hại sau khi con người chết. Những con chim biết hót nhỏ bé, đáng yêu cũng mổ và kéo da của thi thể. Những con quạ lớn hơn nhiều thì ăn thịt, nên chúng có thể làm một thi thể bị trơ xương ra nhanh hơn. Chúng ăn ngấu nghiến tất cả những mô mềm nhưng chúng không thể kéo bật ra những sợi dây thần kinh hay dây chằng. Những sợi đó vẫn gắn liền với khớp, nơi chịu những cú mổ tiếp theo. Đó là lí do tại sao bác sĩ Costas miêu tả những sợi đó giống như lông tơ. Bởi vì chúng bị xé hoàn toàn bởi những cái mỏ quạ. – Isles đóng tài liệu. – Đó là báo cáo.
– Bà chưa nói với tôi về nguyên nhân cái chết.
– Bởi vì nó không xác định được. Sau ba tuần, có quá nhiều chỗ bị chim ăn xác phá hủy và bị thối rữa.
– Vậy thì bà không có ý kiến gì à?
– Bà ấy đã chín mươi hai tuổi. Đó là một mùa hè nóng bức và bà ấy đã ở ngoài vườn một mình. Cũng không có gì bất ngờ nếu bà ấy lên cơn đau tim.
– Nhưng bà không thể chắc chắn.
– Không, chúng tôi không thể.
– Vậy nó có thể là…
– Vụ án mạng? – Isles nhìn thẳng vào Julia.
– Bà cụ sống một mình. Bà ấy dễ bị tấn công.
– Không hề có một sự xáo trộn nào trong ngôi nhà được nhắc đến. Không có dấu hiệu gì của một vụ trộm.
– Có thể kẻ giết người không quan tâm đến việc ăn trộm. Có thể hắn ta chỉ quan tâm đến bà ấy. Những gì mà hắn có thể làm với bà cụ.
– Tin tôi đi, tôi hiểu những điều cô đang nghĩ, những điều cô đang sợ. Trong nghề của tôi, tôi đã thấy những gì mà người ta có thể làm với người khác. Những điều khủng khiếp khiến cô nghi ngờ đó là con người, liệu chúng ta có tốt đẹp hơn động vật. Nhưng cái chết này không hề rung một tiếng chuông cảnh báo nào cho tôi. Những thứ bình thường thì vẫn bình thường. Trường hợp của một bà cụ già chín mươi hai tuổi được tìm thấy đã chết trong sân sau nhà mình, một vụ giết người không phải là điều đầu tiên mà chúng ta nghĩ đến.
Isles nhìn Julia chăm chú một lúc.
– Tôi có thể thấy rằng cô vẫn chưa hài lòng.
Julia thở dài.
– Tôi không biết mình đang nghĩ gì.
Tôi hối tiếc vì mình đã mua ngôi nhà. Tôi chưa có đêm nào ngon giấc kể từ khi tôi chuyển đến.
– Cô đã sống ở đó khá lâu. Nếu nó gây căng thẳng cho cô thì hãy chuyển đến một chỗ mới. Hãy cho mình thời gian để quen với điều đó. Luôn luôn có những thời kì phải điều chỉnh.
– Tôi luôn có những giấc mơ. – Julia băn khoăn.
Isles không có vẻ bị ấn tượng. Làm sao mà bà có thể chứ? Đó là người phụ nữ vẫn thường phân tích bóc trần cái chết, người phụ nữ đã chọn một công việc mà có thể khiến phần lớn mọi người gặp ác mộng.
– Những giấc mơ kiểu gì?
– Khoảng ba tuần nay rồi, tôi mơ thấy chúng hàng đêm. Tôi vẫn hi vọng là chúng sẽ biến mất. Đó chỉ là do cú sốc khi tìm thấy bộ hài cốt ở trong vườn nhà mình.
– Điều đó có thể khiến nhiều người gặp ác mộng.
– Tôi không tin vào ma quỷ. Thực sự, tôi không tin. Nhưng tôi cảm thấy như thể cô ấy đang cố nói chuyện với tôi. Yêu cầu tôi làm điều gì đó.
– Người chủ đã qua đời hay là bộ hài cốt?
– Tôi không biết. Ai đó.
Nét mặt Isles vẫn không thay đổi. Nếu bà tin Julia rối trí thì khuôn mặt của bà cũng không lộ ra điều đó. Nhưng những gì bà nói thì chẳng có gì phải nghi ngờ về lập trường của bà trong vấn đề này.
– Tôi không chắc tôi có thể giúp gì được. Tôi chỉ là một người nghiên cứu và tôi đã nói với cô ý kiến chuyên môn của mình.
– Vậy theo ý kiến chuyên môn của bà, vẫn có thể đó là một vụ giết người phải không? – Julia khăng khăng. – Bà không thể bác bỏ điều đó.
Isles e ngại:
– Không. – Cuối cùng bà phải thừa nhận. – Tôi không thể.
Đêm đó, Julia mơ thấy những con quạ. Hàng trăm con đậu trên một cái cây khô, chăm chú nhìn cô bằng những cặp mắt vàng khè. Chờ đợi.
Cô giật mình tỉnh giấc vì tiếng quạ kêu khàn khàn, mở mắt ra thì đã thấy ánh sáng của ngày mới ùa vào qua cửa sổ. Một đôi cánh màu đen lượn vòng vòng trên bầu trời. Theo sau là những con khác. Cô ra khỏi giường và đến bên cửa sổ.
Cây sồi mà chúng đang đậu không phải là một cái cây khô như trong giấc mơ của cô, nhưng hoàn toàn trụi lá khi mà đang giữa mùa phát triển tươi tốt. Ít nhất là hai tá quạ đang tụ họp ở đó, chúng đậu trên cây giống như một thứ quả lạ màu đen giữa những cành cây, ầm ĩ và huyên náo trong những bộ lông óng mượt. Cô chưa bao giờ thấy chúng ở trên cây đó, và cô tin chắc rằng chúng chính là những con quạ đã mở tiệc trên cái xác của Hilda Chamblett mùa hè năm ngoái, chính những con quạ này đã dùng cái mỏ sắc nhọn của mình khoét và xé, để lại những mẩu dây thần kinh và cơ đó. Giờ lại là chúng, đang chờ đợi được thưởng thức một cái xác khác. Chúng biết là cô đang nhìn chúng, và chúng cũng nhìn lại cô với vẻ tinh khôn kì lạ, như thể chúng biết rằng đó chỉ còn là vấn đề thời gian.
Cô quay đi và nghĩ: Mình phải mắc rèm cho cái cửa sổ này.
Trong nhà bếp, cô pha cà phê, phết bơ và mứt lên bánh mì. Bên ngoài, sương sớm bắt đầu tan, có vẻ như hôm nay là một ngày đầy nắng. Một ngày rất tốt để rải một túi phân trộn khác và vùi một kiện than bùn rêu xuống vườn hoa cạnh suối. Mặc dù tối qua lưng cô vẫn còn đau khi nằm trong bồn tắm nhưng cô không muốn lãng phí một ngày đẹp trời thế này. Người ta chỉ được cho một thời gian có hạn trong cuộc đời để trồng cây, cô nghĩ, và khi mùa hè qua đi, người ta sẽ không bao giờ có lại được. Cô đã lãng phí quá nhiều mùa hè rồi. Lần này sẽ là dành cho chính mình.
Ngoài cửa, ầm ĩ tiếng quạ kêu, tiếng đập cánh. Cô nhìn ra, thấy bầy quạ đột nhiên đồng loạt bay đi, tán loạn theo bốn hướng. Khi đó, cô tập trung nhìn vào góc xa sân nhà mình, chỗ gần dòng suối và hiểu ra tại sao bầy quạ lại bay đi bất ngờ như vậy.
Một người đàn ông đứng ở bờ rào. Anh ta đang quan sát ngôi nhà của cô.
Cô giật mình lùi về phía sau nên anh ta không nhìn thấy. Từ từ, cô tiến lại gần cửa sổ và lén nhìn ra ngoài. Anh ta tóc đen, gầy, mặc áo len chui đầu màu nâu và quần jeans xanh. Sương mù từ bãi cỏ như những làn khói mỏng, quấn quanh chân anh ta. Tiến thêm một chút nữa vào đất của tôi, cô nghĩ, tôi sẽ gọi cảnh sát.
Anh ta bước hai bước về hướng nhà cô.
Cô chạy qua bếp, vồ lấy cái điện thoại không dây. Lao như bay trở lại cửa sổ, cô nhìn khắp xem anh ta đâu, nhưng không thấy bóng anh ta nữa. Rồi có tiếng gì đó cào cào vào cửa bếp. Cô giật mình hoảng hốt, đánh rơi cả điện thoại. Cửa khóa mà? Mình đã khóa cửa tối qua mà? Cô gọi 911.
– McCoy! – Một tiếng gọi bỗng cất lên. – Nào, cậu bé ra đây đi!
Nhìn ra ngoài cửa sổ một lần nữa, cô thấy người đàn ông bất ngờ xuất hiện từ sau đám cỏ dại. Tiếng gì đó gõ nhẹ vào hành lang nhà cô, và rồi một chú chó Labrador lông vàng chạy băng qua sân lao về phía người đàn ông.
– Tổng đài khẩn cấp xin nghe.
Julia nhìn xuống cái điện thoại. Ôi, Chúa ơi, cô mới ngu ngốc làm sao.
– Tôi xin lỗi. – Cô nói. – Tôi gọi nhầm thôi.
– Mọi thứ đều ổn cả chứ thưa cô? Cô chắc chứ?
– Vâng, tôi hoàn toàn ổn. Tôi chỉ vô tình bấm nhầm số thôi. Cảm ơn.
Cô dập máy và lại nhìn ra phía ngoài. Người đàn ông đang cúi xuống móc cái dây vào vòng cổ con chó. Khi đứng lên, bắt gặp cái nhìn của Julia từ cửa sổ, anh ta giơ tay vẫy chào.
Cô mở cửa bếp và bước ra sân.
– Xin lỗi vì chuyện này! – Anh ta nói to. – Tôi không cố ý xâm phạm, tôi đuổi theo nó. Nó nghĩ rằng Hilda vẫn sống ở đây.
– Trước đây, nó hay vào đây hả?
– Ồ, vâng. Bà cụ thường để dành một hộp bánh quy cho nó. – Anh ta cười. – McCoy không bao giờ bỏ lỡ một bữa ăn miễn phí.
Cô đi xuống dốc về phía anh ta. Anh ta không còn làm cô sợ hãi. Cô không thể tưởng tượng nổi một tên yêu râu xanh hay một kẻ giết người lại có một con thú cưng như vậy. Chú chó nhảy rối rít quanh xích khi cô đến gần, mừng rỡ làm quen với cô.
– Cô là chủ mới, tôi đoán đúng chứ? – Anh ta hồ hởi.
– Julia Hamill.
– Tom Page. Tôi sống ở ngay cuối đường.
Anh ta định bắt tay cô nhưng chợt nhớ đến cái túi nhựa vẫn đang cầm trên tay nên mỉm cười bối rối.
– Ôi, thật đáng tiếc. Chú chó đáng yêu. Tôi đang cố theo sau nó để thu dọn.
Vậy đó là lí do tại sao có lúc anh ta lại bò ra bãi cỏ như vậy, cô nghĩ. Hóa ra anh ta chỉ dọn dẹp sau đuôi con thú cưng của mình.
Chú chó sủa inh ỏi, nhảy lên bằng cả hai chân sau để gây chú ý với Julia.
– McCoy! Thôi nào, cậu bé! – Tom giật mạnh dây xích và chú chó miễn cưỡng vâng lời.
– McCoy, giống như trong thành ngữ đích thực ấy hả? – Cô hỏi.
– Hừm, không. Giống như tiến sĩ McCoy.
– Ồ, Star Trek.
Anh ta nhìn cô cười bẽn lẽn.
– Tôi đoán rằng mình đã lỗi thời. Thật đáng sợ là bây giờ chả mấy đứa trẻ đã từng nghe đến Tiến sĩ McCoy. Điều đó khiến tôi cảm thấy mình già mất rồi.
Thực tế là anh ta không hề già, cô nghĩ. Có thể khoảng bốn mươi tuổi. Nhìn từ cửa sổ nhà bếp của cô, tóc anh ta màu đen, nhưng giờ khi đến gần hơn, cô có thể thấy lẫn một vài sợi bạc và đôi mắt đen đang nheo lại dưới ánh nắng buổi sớm, khi cười lộ những nếp nhăn quanh mắt.
– Tôi rất vui vì cuối cùng thì cũng có người mua nhà của bà Hilda. – Anh ta nói, ngước nhìn ngôi nhà. – Một thời gian nơi này trông khá là vắng vẻ.
– Đúng hơn là nó đã ở trong tình trạng xuống cấp.
– Bà ấy thực sự không thể giữ gìn được nó. Cái sân này quá rộng đối với bà cụ, nhưng bà ấy là chủ nên không cho ai được phép làm gì cả.
Anh ta chăm chú nhìn về phía khoảng đất bằng nơi đào được bộ hài cốt.
– Nếu mà bà ấy không làm vậy thì có lẽ họ đã tìm thấy bộ xương lâu rồi.
– Anh đã nghe chuyện rồi hả.
– Quanh đây mọi người đều nghe cả. Tôi đến từ vài tuần trước để xem họ đào. Cô có hẳn một đội làm việc ở đây.
– Tôi đã không thấy anh.
– Tôi không muốn cô nghĩ rằng tôi quá thóc mách. Nhưng tôi tò mò.
Anh ta nhìn cô, ánh nhìn thẳng của anh ta khiến cô cảm thấy không thoải mái, giống như thể ánh mắt đó đang cố gắng tìm kiếm điều gì đó trong đầu cô vậy.
– Cô có thích nơi này không? – Anh ta hỏi. – Trừ bộ hài cốt?
Cô co ro vì cái lạnh buổi sớm.
– Tôi không biết nữa.
– Cô vẫn chưa quyết định hả?
– Ý tôi là tôi thích Weston, nhưng bộ hài cốt làm tôi có một chút hoảng sợ. Biết rằng cô ấy đã được chôn ở đây từng ấy năm, làm tôi cảm thấy… – Cô nhún vai. – Cô độc, tôi nghĩ vậy. – Cô nhìn về chỗ cái mộ. – Tôi ước gì mình biết cô ấy là ai.
– Trường đại học không nói gì với cô sao?
– Họ nghĩ rằng cái mộ có từ đầu thế kỉ mười chín. Sọ của cô ấy nứt hai chỗ và cô ấy được chôn cẩu thả. Chỉ được quấn trong một tấm da động vật sống rồi chôn xuống sân, chẳng có lễ tang. Như thể họ vội vã vứt bỏ cô ấy vậy.
– Một cái sọ bị nứt và chôn nhanh chóng. Có vẻ giống như một vụ giết người.
Cô nhìn anh ta.
– Tôi cũng nghĩ vậy.
Họ im lặng. Sương đã tan, trên cây những chú chim đang hót líu lo. Lần này không phải là bầy quạ, mà là những chú chim biết hót, nhẹ nhàng chuyền từ cành này sang cành khác. Thật kì quặc, cô nghĩ, sao lũ quạ lại biến mất nhanh vậy nhỉ.
– Điện thoại của cô phải không? – Anh ta hỏi.
Bất chợt nhận ra tiếng chuông, cô nhìn vào nhà.
– Tôi phải nghe điện thoại.
– Rất vui được gặp cô! – Anh ta nói theo khi cô chạy tới bậc cửa.
Khi cô đã vào tới bếp của mình, anh ta cũng đi ra, McCoy miễn cưỡng bị lôi theo sau. Cô đã quên mất họ của anh ta. Anh ta có đeo nhẫn cưới hay không nhỉ?
Đó là Vicky gọi.
– Vậy thứ gần đây nhất trong căn nhà được sửa sang là gì nào? – Vicky hỏi.
– Em đã lát sàn phòng tắm tối qua.
Julia vẫn nhìn ra khu vườn của mình, cái áo len nâu của Tom thấp thoáng sau hàng cây. Đó là một cái áo len cũ nhưng chắc rất được yêu thích, cô nghĩ. Người ta sẽ chỉ mặc ra đường thứ cũ rích khi có tình cảm gắn bó với nó. Điều đó khiến anh ta quyến rũ hơn. Chuyện đó và con chó của anh ta.
– … Và chị thực sự nghĩ rằng em nên bắt đầu hẹn hò lại đi.
Sự chú ý của Julia quay lại với Vicky.
– Cái gì cơ?
– Chị biết em cảm thấy thế nào về những cuộc gặp mặt, nhưng anh chàng này thật sự hấp dẫn.
– Không phải luật sư nữa nhé, Vicky.
– Không phải tất cả bọn họ đều giống Richard. Một số thích một người phụ nữ thực sự hơn là một cô Tiffani tóc sấy. Cô ả đó, chị mới phát hiện ra, có một ông bố quyền cao chức trọng ở Morgan Stanley. Không có gì lạ khi cô ta có một đám cưới lớn gây chú ý.
– Vicky, em thực sự không cần nghe những chuyện ấy.
– Chị nghĩ ai đó nên rỉ tai cho bố cô ta về kẻ tồi tệ mà con gái cưng của ông ta chuẩn bị kết hôn.
– Em phải tiếp tục công việc. Em đang ở trong vườn và hai tay em thì đầy đất bẩn. Em sẽ gọi lại sau.
Cô gác máy và ngay lập tức cảm thấy áy náy vì lời nói dối của mình. Nhưng chỉ cần nhắc đến Richard cũng đủ khiến cả ngày của cô u ám và cô không muốn nghĩ về anh ta nữa. Tốt hơn hết là cô đi bón phân cho cây.
Cô túm lấy cái mũ làm vườn và đôi găng tay, quay trở lại vườn và nhìn xuống lòng suối. Tom trong cái áo len nâu đã biến mất khiến cô cảm thấy một chút thất vọng. Mày đã bị một người đàn ông đánh gục. Mày nóng lòng muốn trái tim mình tan vỡ lần nữa? Cô lấy xẻng và xe cút kít rồi đi xuống dốc đến chỗ vồng hoa cũ mà cô đang khôi phục lại. Đi xuyên qua thảm cỏ, cô tự hỏi đã bao nhiêu lần bà cụ Hilda Chamblett đi xuống lối đi trong khu vườn um tùm này. Liệu bà có đội mũ giống như Julia, liệu bà có dừng lại và lắng nghe tiếng hót của những loài chim, liệu bà cụ có để ý thấy những cành cong gãy trên cây sồi.
Bà cụ có biết, cái ngày trong tháng bảy ấy, sẽ là ngày cuối cùng của cuộc đời mình?
Tối hôm ấy, cô quá mệt mỏi nên chẳng nấu nướng gì phức tạp, chỉ có bánh pho mát nướng và súp cà chua. Cô ăn ở bếp, vừa ăn vừa đọc mẩu tin tức chụp lại về Hilda Chamblett. Bài báo ngắn gọn, chỉ là thông báo về việc một bà cụ đã chết được tìm thấy trong sân sau nhà mình và cái xác hôi thối đó chẳng có gì đáng ngờ. Ở tuổi chín mươi hai, bạn đã sống qua một cơn bệnh hiểm nghèo. Có cách ra đi nào tốt hơn, một người hàng xóm đã nói, là trong một ngày mùa hè tại chính khu vườn của mình?
Cô đọc lời cáo phó.
“Hilda Chamblett, một người sống suốt đời ở Weston, Massachusetts, đã chết khi được tìm thấy tại sân sau nhà mình ngày 25 tháng 7. Cái chết của bà đã được các bác sĩ pháp y xác định là: hoàn toàn do nguyên nhân tự nhiên. Ở góa hơn hai mươi năm, bà cụ thường quanh quẩn với khu vườn và được biết đến như là một người phụ nữ thích trồng cây, đặc biệt là hoa diên vĩ và hoa hồng. Bà vẫn còn sống trong lòng người em họ Henry Page ở Islesboro, Maine và cô cháu gái Rachel Surrey ở Roanoke, Virginia, cũng như hai cháu gái và cháu trai của mình.”
Tiếng chuông điện thoại khiến cô giật mình làm bẩn súp cà chua tung tóe lên tờ giấy. Chắc lại là Vicky, cô nghĩ, thể nào cũng đang băn khoăn tại sao mình không gọi lại cho chị ấy. Cô không muốn nói chuyện với Vicky, cô không muốn nghe về kế hoạch tiêu xài hoang phí cho đám cưới của Richard. Nhưng nếu cô không trả lời bây giờ, Vicky sẽ lại gọi cô nữa.
Julia nhấc máy.
– Alô?
Một giọng đàn ông, khô và trầm vì tuổi tác.
– Cô là Julia Hamill?
– Vâng, là tôi.
– Vậy cô là người phụ nữ đã mua ngôi nhà của Hilda.
Julia cau mày.
– Ai đó?
– Henry Page. Tôi là em họ của Hilda. Tôi nghe nói cô đã tìm thấy vài bộ xương trong vườn của chị ấy.
Julia quay lại bàn bếp và xem lại lời cáo phó. Một vết súp đã rớt ngay trên đoạn liệt kê những người họ hàng của Hilda. Cô thấm vết dơ và nhận ra cái tên.
“… em họ Henry Page ở Islesboro, Maine…”
– Tôi rất quan tâm đến mấy bộ hài cốt. – Ông ta nói. – Tôi được coi là một người viết lịch sử của gia đình, cô hiểu chứ.
Ông ta nói thêm cùng với một cái khịt mũi:
– Bởi vì chẳng ai khác đưa ra một lời nguyền rủa vấy máu như vậy.
– Ông có thể nói với tôi điều gì đó về mấy bộ hài cốt? – Cô hỏi.
– Chẳng có gì cả.
– Vậy thì tại sao ông gọi điện cho tôi?
– Tôi vẫn đang tìm kiếm. – Ông ta nói. – Khi Hilda chết, chị ấy để lại khoảng ba mươi cái hộp toàn báo cũ và sách. Chẳng ai muốn lấy chúng, nên họ gửi cho tôi. Tôi nhận và vứt chúng một bên, chẳng thèm ngó ngàng gì đến cả năm qua. Nhưng sau khi tôi nghe bộ hài cốt bí ẩn của cô, tôi đã băn khoăn liệu có điều gì đó trong những cái hộp ấy. – Ông ta ngừng lại. – Tất cả những điều đó có khiến cô hứng thú hay tôi nên ngậm miệng và nói tạm biệt?
– Tôi đang nghe đây.
– Vậy là tốt hơn phần lớn những người trong gia đình tôi. Chẳng có ai quan tâm đến lịch sử cả. Lúc nào cũng vội vàng, sốt ruột về những thứ mới mẻ.
– Về những cái hộp hả ông Page.
– Ồ đúng. Tôi đã tình cờ thấy một số tài liệu thú vị có ý nghĩa lịch sử. Tôi đang băn khoăn liệu có phải tôi đang tìm thấy manh mối những bộ hài cốt đó là của ai.
– Tài liệu đó có những gì ạ?
– Một số thư và báo. Tôi có tất cả ở nhà mình. Cô có thể xem chúng, bất cứ lúc nào cô muốn tới Maine.
– Đó là một quãng đường dài khủng khiếp phải không?
– Không hề, nếu cô thực sự có hứng thú. Đó không phải là vấn đề với tôi, cô hay ai khác. Nhưng kể từ lúc những chuyện này xuất hiện thì tôi nghĩ rằng cô có thể thấy sự hấp dẫn của câu chuyện. Tôi chắc chắn thế. Chuyện nghe có vẻ kì quái, nhưng ở đây có một bài báo chứng minh được chuyện đó.
– Bài báo gì?
– Về vụ một người phụ nữ bị giết một cách tàn bạo.
– Ở đâu? Khi nào?
– Ở Boston. Xảy ra vào mùa thu năm 1830. Nếu cô đến Maine, cô Hamill, cô có thể tự mình đọc tài liệu. Về một chuyện kì lạ giữa Oliver Wendell Holmes và Tử thần Khu Tây.