Văn Minh Và Những Bất Mãn Từ Nó
Chương VIII
Đã đến cuối hành trình của mình, tác giả phải yêu cầu những người đọc tha thứ vì đã không có được một hướng dẫn khéo léo hơn, và vì đã không tránh cho họ những đoạn đường dài tẻ trống, và những khúc-tạm-rẽ-vòng đầy phiền hà. Không nghi ngờ gì rằng nó đã có thể được thực hiện tốt hơn. Tôi sẽ cố gắng, dù có trễ nãi, để làm một vài bổ sung.
Điểm quan trọng đầu tiên, tôi ngờ người đọc đã có ấn tượng rằng những cuộc thảo luận của chúng ta về cảm xúc lầm lỗi [1] đã phá vỡ khuôn khổ của bài luận văn này: rằng chúng chiếm quá nhiều không gian, để phần còn lại của nội dung-chủ đề của nó, vốn chúng không phải luôn luôn được kết nối chặt chẽ, đã bị đẩy sang một bên.
Điều này có thể đã làm hỏng cấu trúc bài viết của tôi; nhưng nó tương ứng trung thành với ý định của tôi để trình bày cảm xúc lầm lỗi – như là vấn đề quan trọng nhất trong sự phát triển của văn minh và cho thấy rằng cái giá chúng ta phải trả cho sự tiến bộ của văn minh là một mất mát trong hạnh phúc qua việc đẩy mạnh cảm xúc lầm lỗi lên thật cao [2].
Bất cứ điều gì vẫn còn nghe ra có âm thanh kỳ lạ về tuyên bố này, vốn là kết luận cuối cùng của nghiên cứu của chúng ta, có lẽ có thể được truy nguồn về quan hệ khá kỳ lạ – như vẫn chưa hoàn toàn giải thích được – vốn cảm xúc lầm lỗi có với ý thức của chúng ta. Trong trường hợp thông thường của hối hận, mà chúng ta coi là bình thường, xúc cảm này làm tự nó rõ ràng, đủ để ý thức có thể nhận biết được. Thật vậy, chúng ta quen với việc nói về một “ý thức về lầm lỗi” thay vì về một “xúc cảm về tội lỗi” [3].
Nghiên cứu của chúng ta về những bệnh nhiễu loạn thần kinh [4], vốn sau hết với chúng, mà chúng ta có được những mũi tên có giá trị nhất chỉ đến một sự hiểu biết về điều kiện bình thường, đưa chúng ta lên cao va chạm với một vài mâu thuẫn. Một trong những tình cảm này, chứng ám ảnh nhiễu loạn thần kinh, cảm xúc lầm lỗi làm tự nó được nghe vang động trong hữu thức, nó chi phối hình ảnh bệnh tình và cũng cả đời sống của bệnh nhân, và nó hầu như không cho phép bất cứ điều gì khác xuất hiện bên cạnh nó. Nhưng trong hầu hết những trường hợp và những hình thức khác của chứng nhiễu loạn thần kinh, nó còn lại là hoàn toàn vô thức, những dù không tính kể điều đó, vẫn không vì thế mà tác dụng của nó thành kém quan trọng hơn.
Bệnh nhân của chúng ta không tin chúng ta khi chúng ta gán thuộc tính “cảm xúc lầm lỗi vô thức” vào với họ. Để có thể làm chúng ta thành dễ hiểu với họ – dù cách nào đi nữa-chúng ta nói với họ về một nhu cầu vô thức với sự trừng phạt, trong đó cảm xúc lầm lỗi tìm được sự biểu hiện. Nhưng sự kết nối nó với một hình thức cụ thể của chứng nhiễu loạn thần kinh phải không được ước tính quá mức. Ngay cả trong chứng ám ảnh nhiễu loạn thần kinh, có những loại bệnh nhân không nhận thức được cảm xúc lầm lỗi của họ, hoặc những người chỉ cảm thấy nó như là một sự bất an [5] hành hạ, một loại bồn chồn lo lắng [6], như thể họ bị ngăn chặn không được đem ra thực hiện những hành động nhất định nào đó.
Cuối cùng, những điều này phải là có thể hiểu được, dẫu chúng ta tuy thế vẫn còn chưa thể hiểu. Ở đây, có lẽ chúng ta có thể lấy làm hài lòng khi được chỉ ra rằng cảm xúc lầm lỗi là nằm ở dưới đáy của không gì khác hơn ngoài một địa hình khác loại của của bồn chồn lo lắng; trong giai đoạn sau của nó, nó trùng khớp hoàn toàn với sợ hãi về super-ego.
Và những liên hệ của sự lo lắng với hữu thức trưng bày cùng những biến dạng khác thường. Lo lắng thì luôn luôn hiện diện ở chỗ nào đó, hoặc ở chỗ khác đằng sau tất cả mỗi triệu chứng; nhưng một lần, nó ồn ào chiếm toàn bộ của hữu thức, trong khi lần khác, nó giấu kín chính nó hết sức hoàn toàn, khiến chúng ta buộc phải nói về sự lo lắng vô thức hoặc như, nếu chúng ta muốn có một ý thức tâm lý rõ ràng hơn, vì trong trường hợp khởi đầu, lo lắng chỉ đơn giản là một xúc cảm [7], của những khả năng có thể có của sự lo lắng.
Kết quả là rất có thể mường tượng được rằng xúc cảm tội lỗi đã được văn minh tạo ra thì không được cảm nhận giống như vậy, và vẫn còn ở mức độ lớn rộng là vô thức, hoặc xuất hiện như là một loại khó chịu – malaise [8] , một sự không hài lòng, mà với nó, người ta tìm kiếm những động cơ khác. Những tôn giáo, ở bất kỳ mức độ nào, chưa bao giờ bỏ qua phần đóng vai của cảm xúc lầm lỗi trong nền văn minh.
Hơn nữa – một điểm mà tôi đã thất bại không thấu hiểu ở chỗ khác [9] – chúng tuyên xưng cứu chuộc loài người từ cảm xúc lầm lỗi này, mà chúng gọi là tội lỗi. Từ cách thức vốn trong đó, trong đạo Kitô, sự cứu chuộc này thì đạt đến được – bởi cái chết hy sinh của một cá nhân duy nhất, là người trong cách thức này đem nhận trên chính mình một cảm xúc lầm lỗi, vốn nó là phổ thông với tất cả mọi người – chúng ta đã có được khả năng để suy ra cơ hội đầu tiên có thể đã từng là gì, trong dịp đó, cảm xúc lầm lỗi nguyên thủy này, vốn cũng đã là khởi đầu của văn minh, đã được tiếp thụ [10].
Mặc dù nó không thể là có tầm quan trọng lớn, nó có thể không là thừa thãi để làm sáng tỏ ý nghĩa của một vài từ như “super-ego”, “lương tâm”, “cảm xúc lầm lỗi”, “cần phải bị trừng phạt” và “hối hận”, mà chúng ta đã thường xuyên, có lẽ sử dụng quá lỏng lẻo và thay thế lẫn nhau. Chúng tất cả đều liên quan đến cùng một trạng thái của sự việc, nhưng biểu thị những khía cạnh khác nhau của nó.
Super-ego là một tác lực [11] vốn đã được chúng ta suy luận, và lương tâm là một chức năng trong số những chức năng khác, mà chúng ta gán cho tác lực này. Chức năng này bao gồm trong việc giữ một canh chừng trên những hành động và những ý định của ego và phán xét chúng, trong việc hành xử một sự kiểm duyệt. Những cảm xúc lầm lỗi, tính khe khắt ác nghiệt của super-ego, như vậy là cùng một điều tương tự như mức độ nghiêm khắc của lương tâm.
Nó là nhận thức vốn ego đã bị canh chừng theo dõi trên cách này, việc đánh giá sự căng thẳng giữa những nỗ lực tranh dành riêng nó và những đòi hỏi của super-ego. Sự sợ hãi với tác lực then chốt này (một nỗi sợ hãi vốn nó là
ở dưới cùng của toàn bộ quan hệ), sự cần thiết phải trừng phạt, là một biểu hiện có tính bản năng trên phần của ego, mà đã trở thành khổ dâm dưới ảnh hưởng của một super-ego tàn bạo; nó là một phần, đó là để nói rằng, thuộc bản năng hướng về hủy diệt ở bên trong, hiện diện trong ego, được sử dụng để hình thành một gắn bó mang tính gợi dục với super-ego.
Chúng ta không nên nói về một lương tâm cho đến khi một super-ego là được chứng tỏ hiện hữu. Về phần một cảm xúc lầm lỗi, chúng ta phải thừa nhận rằng nó hiện hữu trước khi có super-ego, và do đó cũng trước khi có lương tâm nữa. Vào thời điểm đó, nó là sự biểu hiện trực tiếp của sự sợ hãi của uy quyền bên ngoài, một sự nhìn nhận của sự căng thẳng giữa ego và uy quyền đó. Nó là rút ra trực tiếp của xung đột giữa nhu cầu về yêu thương của uy quyền, và thúc dục hướng tới sự thỏa mãn bản năng, vốn sự cấm đoán chúng sản xuất khuynh hướng đi đến gây hấn hung hãn.
Sự áp đặt lên lên trên hai tầng này của cảm xúc lầm lỗi – một đến từ nỗi sợ hãi của uy quyền bên ngoài, một khác khác đến từ sợ hãi của uy quyền bên trong – đã làm vướng bận sự thấu hiểu của chúng ta vào vị trí của lương tâm trong một số cách thức. Hối hận là một thuật ngữ tổng quát cho phản ứng của ego trong một trường hợp của cảm xúc lầm lỗi. Nó chứa đựng, dưới hình thức hơi thay đổi, những vật liệu giác quan của sự lo lắng vốn nó hoạt động đằng sau cảm xúc lầm lỗi, trong tự thân nó là một hình phạt, và có thể bao gồm sự cần thiết phải trừng phạt. Thế nên cũng vậy, hối hận, có thể cũ hơn lương tâm.
Cũng sẽ chẳng gây bất kỳ một tổn hại nào, nếu chúng ta một lần nữa xem xét lại những mâu thuẫn mà có một lúc chúng ta lúng túng sửng sốt trong thăm dò của chúng ta. Như vậy, tại một điểm, cảm xúc lầm lỗi đã là hệ quả của những hành động từ sự gây hấn hung hãn vốn đã phải bị kiêng tránh; nhưng ở một điểm khác – và chính xác là ở khởi đầu lịch sử của nó, sự giết chết người cha – nó đã là hậu quả của một hành động gây hấn hung hãn đã được đem ra thực hiện.
Nhưng đã tìm thấy được một lối ra khỏi khó khăn này. Đối với thể chế của uy quyền bên trong, super-ego, đã thay đổi tình hình hoàn toàn cơ bản. Trước khi có điều này, những cảm xúc lầm lỗi đã trùng hợp với sự hối hận. (Nhân đây, chúng ta có thể nhận xét rằng thuật ngữ “hối hận” nên dành riêng cho phản ứng có sau khi một hành động gây hấn hung hãn đã thực sự được thực hiện.) Sau điều này, nhờ vào sự toàn trí của super-ego, sự khác biệt giữa một gây hấn trong ý định và một gây hấn được thực hiện xong, đã mất sức mạnh của nó.
Do thế nên về sau, một cảm xúc lầm lỗi có thể được tạo ra không chỉ bởi một hành vi gây hấn bạo lực vốn đã thực sự được thực hiện (như tất cả mọi người đều biết), mà cũng còn bởi một gây hấn bạo lực mới chỉ đơn thuần trong ý định (như phân tích tâm lý đã khám phá ra). Không kể đến sự thay đổi này trong tình trạng tâm lý, xung đột phát sinh từ mâu thuẫn – xung đột giữa hai bản năng nguyên thủy – để lại đằng sau cùng một kết quả.
Chúng ta đã bị cám dỗ tìm ở chỗ này giải pháp cho vấn đề của quan hệ khác nhau, trong đó cảm xúc lầm lỗi đứng thế chỗ cho ý thức. Có thể nghĩ được rằng một cảm xúc lầm lỗi phát sinh từ hối hận cho một hành động tà ác phải luôn luôn là hữu thức, trong khi một cảm xúc lầm lỗi phát sinh từ nhận thức một xung lực thúc dục làm tà ác có thể vẫn còn vô thức. Nhưng lời đáp thì không quá đơn giản như thế. Chứng ám ảnh nhiễu loạn thần kinh lên tiếng hăng hái chống lại nó.
Mâu thuẫn thứ hai có liên quan đến năng lực có tính gây hấn mà chúng ta giả định rằng super-ego đã được phú cho. Theo một quan điểm, năng lực đó chỉ đơn thuần chuyển mang năng lực có tính trừng phạt của uy quyền bên ngoài, và giữ cho nó sống trong não thức, trong khi theo một quan điểm khác, trái lại, nó bao gồm, năng lực tích cực gây hấn hung hãn của riêng một người vốn đã không được sử dụng và năng lực tích cực gây hấn hiện đang hướng tới chống lại uy quyền cấm đoán đó.
Quan điểm đầu tiên xem dường phù hợp vừa vặn hơn với lịch sử, và quan điểm thứ hai với lý thuyết, của cảm xúc về lầm lỗi. Suy tưởng kỹ càng hơn đã giải quyết được mâu thuẫn dường như không thể hòa giải này gần như quá hoàn toàn; những gì còn giữ lại như là yếu tố yếu tính và có chung là trong mỗi trường hợp chúng ta đã giải quyết với một tính gây hấn hung hãn vốn nó đã được dời chỗ hướng vào bên trong. Quan sát bệnh lý, hơn nữa, cho phép chúng ta phân biệt trong thực tế hai nguồn cho tính gây hấn hung hãn mà chúng ta gán cho super-ego, một này hay một kia trong số chúng thực hành hiệu ứng mạnh hơn trong một trường hợp bất kỳ nhất định nào đó, nhưng như một quy luật tổn quát, chúng hoạt động trong trạng thái hoà hợp.
Điều này, tôi nghĩ rằng, là chỗ tại đó đưa ra một sự xem xét nghiêm túc cho một quan điểm mà tôi đã đề nghị chấp nhận tạm thời trước đó. Trong văn học phân tích gần đây nhất, một thị hiếu được cho thấy về ý tưởng rằng bất kỳ một loại thất vọng nào, bất kỳ một cản trở sự thỏa mãn bản năng nào, có kết quả, hoặc có thể có kết quả, trong một sự nâng cao tăng cường cảm xúc lầm lỗi [12] . Tôi nghĩ, một sự đơn giản hóa lớn về lý thuyết sẽ đạt được nếu chúng ta coi điều này như chỉ áp dụng với những bản năng gây hấn hung hãn, và ít có gì sẽ được tìm thấy để mâu thuẫn với giả định này.
Vì làm sao chúng ta giải thích, trên những cơ sở năng động và kinh tế, cho sự gia tăng cảm xúc lầm lỗi khi xuất hiện ở vị trí của một nhu cầu gợi dâm dục không được thực hiện? Điều này dường như chỉ có thể có trong một cách xoay tròn vòng về – nếu chúng ta giả sử, đó là, rằng sự ngừa phòng một sự thỏa mãn gợi dâm dục gọi lên một mảnh của tính gây hấn hung hãn chống lại cá nhân là người đã ngăn trở sự hài lòng, và rằng tính gây hấn này tự nó bị dập tắt khi đến lượt nó. Nhưng nếu điều này là như vậy, sau cùng tất cả nó chỉ là tính gây hấn hung hãn vốn nó bị chuyển dạng vào thành một cảm xúc lầm lỗi, bằng cách bị đàn áp và được giao sang cho super-ego.
Tôi quả quyết rằng nhiều những tiến trình sẽ chấp nhận một trình bày đơn giản hơn và rõ ràng hơn, nếu những khám phá của phân tích tâm lý nhìn theo hướng sự bắt nguồn của cảm xúc lầm lỗi được giới hạn trong bản năng gây hấn hung hãn. Sự nghiên cứu những tài liệu trị liệu không đem cho chúng ta câu trả lời rõ ràng ở đây, bởi vì, như giả thuyết của chúng ta nói với chúng ta, hai lớp của bản năng hầu như khó có bao giờ xuất hiện trong một hình thức thuần khiết, cô lập với lẫn nhau; nhưng một điều tra về những trường hợp cực đoan có thể sẽ chỉ về hướng tôi dự đoán.
Tôi bị lôi kéo để rút ra một ưu thế đầu tiên từ quan điểm của trường hợp bị hạn chế nhiều hơn này, bằng cách áp dụng nó vào tiến trình của sự kiềm chế. Như chúng ta đã được biết, những triệu chứng thần kinh, trong bản chất của chúng, là những thỏa mãn thay thế cho những mong muốn tính dục không được thực hiện.
Trong tiến trình của công việc phân tích của chúng ta, chúng ta đã ngạc nhiên khám phá ra rằng có lẽ tất cả mỗi chứng nhiễu loạn thần kinh che dấu một phần lượng vô thức về cảm xúc lầm lỗi, vốn đến phiên nó củng cố những triệu chứng bằng cách sử dụng chúng như một trừng phạt. Bây giờ có vẻ chính đáng để hình thành mệnh đề sau đây. Khi một khuynh hướng bản năng chịu đựng sự kiềm chế, những yếu tố libido của nó được quay sang và thành những triệu chứng, và những thành phần gây hấn hung hãn của nó vào thành một cảm xúc lầm lỗi. Ngay cả khi nếu mệnh đề này chỉ là một phỏng đoán trung bình xấp xỉ với sự thật, đó là xứng đáng với quan tâm của chúng ta.
Một số độc giả của tác phẩm này, có thể hơn nữa, có một ấn tượng rằng họ đã nghe nói quá thường xuyên đến công thức về sự vật lộn giữa Eros và bản năng cái chết. Nó đã được khẳng định để điển hình hóa tiến trình của văn minh mà loài người trải qua, nhưng nó cũng đã được đưa vào trong kết nối với sự phát triển của cá nhân, và lại thêm nữa, nó đã được cho là đã tiết lộ sự bí mật của sự sống hữu cơ nói chung. Tôi nghĩ, chúng ta không thể nào tránh không đi sâu vào những quan hệ của ba tiến trình này với lẫn nhau.
Sự lập lại của cùng một công thức được minh chứng bằng sự cân nhắc rằng cả hai tiến trình của văn minh con người và của sự phát triển của cá nhân đều là những tiến trình quan trọng – đó là nói rằng rằng chúng phải chia sẻ những đặc điểm tổng quát nhất của đời sống.
Về mặt khác, bằng chứng về sự hiện diện của đặc tính tổng quát này thất bại, với cùng chính lý do có tính chất tổng quát của nó, giúp chúng ta đi đến được bất kỳ sự khác biệt nào (giữa những tiến trình), miễn là chừng nào nó không bị thu hẹp vì những trình độ đặc biệt. Chúng ta có thể chỉ được hài lòng, do đó, nếu chúng ta khẳng định rằng tiến trình của văn minh là một sửa đổi mà tiến trình quan trọng sống còn trải nghiệm dưới ảnh hưởng của một công việc vốn Eros thiết lập nó và Ananke xúi dục nó – do những nhu cầu cấp bách của thực tại; và rằng công việc này là một công việc đoàn kết những cá nhân riêng biệt vào thành một cộng đồng ràng buộc với nhau bởi những quan hệ libido.
Tuy nhiên, khi chúng ta nhìn vào quan hệ giữa tiến trình của văn minh của con người và tiến trình phát triển hoặc giáo dục của những con người cá thể, chúng ta sẽ kết luận mà không do dự nhiều rằng cả hai là rất tương tự trong bản chất, nếu không phải là cùng một tiến trình được áp dụng cho những loại đối tượng khác nhau.
Quá trình của văn minh của loài người, tất nhiên, một sự trừu tượng hóa ở một trật tự cao hơn là sự phát triển của cá nhân và vì thế khó khăn hơn để thấu hiểu trong những thuật ngữ cụ thể, cũng không phải chúng ta nên theo đuổi những tương tự với một ám ảnh cực đoan, nhưng trong cái nhìn của sự tương tự giữa những mục tiêu của hai tiến trình – trong trường hợp một sự hội nhập của một cá nhân riêng biệt vào một nhóm người, và trong trường hợp khác, sự tạo dựng ra một trong nhóm thống nhất từ nhiều cá nhân – chúng ta không thể lấy làm ngạc nhiên trước sự tương tự những giữa những phương tiện được xử dụng và những hiện tượng kết quả.
Khi nhìn về tầm quan trọng khác thường của nó, chúng ta phải không trì hoãn lâu mà không đề cập đến một trong những tính năng vốn phân biệt giữa hai tiến trình. Trong tiến trình phát triển của cá nhân, chương trình của những nguyên tắc lạc thú, vốn bao gồm trong việc tìm kiếm sự thỏa mãn của hạnh phúc, được giữ lại như là mục tiêu chính. Hội nhập, hoặc thích ứng với, một cộng đồng loài người xuất hiện như một điều kiện khó tránh khỏi vốn nó phải hoàn thành trước khi mục tiêu của hạnh phúc này có thể đạt đến được. Nếu nó có thể được thực hiện mà không cần điều kiện đó, nó có lẽ sẽ là được ưa chuộng hơn.
Nói cách khác, sự phát triển của cá nhân dường như với chúng ta là một sản phẩm của sự tương tác giữa hai thúc dục, thúc dục hướng tới hạnh phúc, mà chúng ta thường gọi là “vị kỷ”, và thúc dục hướng tới liên minh với những người khác trong cộng đồng, mà chúng ta gọi là “vị tha”. Không một nào trong những mô tả này đi sâu hơn đến dưới bề mặt. Trong tiến trình phát triển cá nhân, như chúng ta đã nói, màu sắc chính chủ yếu rơi trên thúc dục vị kỷ (hoặc thúc dục hướng tới hạnh phúc); trong khi thúc dục khác, có thể được mô tả như là một thúc dục “văn hóa”, thì thường hài lòng với vai trò của những hạn chế áp đặt.
Nhưng trong tiến trình của văn minh những sự việc thì khác biệt. Ở đây điều quan trọng nhất là mục tiêu của việc tạo ra một sự thống nhất từ những con người cá nhân. Đúng là mục tiêu của hạnh phúc vẫn còn đó, nhưng nó được đẩy vào nền phía sau. Nó gần như có vẻ như việc tạo ra một cộng đồng lớn lao con người sẽ là thành công nhất nếu không có sự quan tâm phải được trả cho hạnh phúc của cá nhân. Quá trình phát triển của cá nhân đó có thể được dự kiến sẽ có những tính năng đặc biệt của riêng nó mà không được sao chép trong tiến trình của văn minh của con người. Đó là chỉ trong chừng mực khi tiến trình đầu tiên của những tiến trình này đã liên minh với cộng đồng như là mục đích của nó mà nó cần phải trùng hợp với tiến trình thứ hai.
Cũng giống như một hành tinh quay quanh một vật thể trung tâm cũng như quay quanh trục của nó, do đó, những cá nhân con người tham gia trong tiến trình phát triển của loài người cùng một lúc như hắn ta theo đuổi con đường riêng của hắn trong đời sống. Nhưng với đôi mắt buồn tẻ của chúng ta, màn kịch của những sức mạnh trên vòm trời có vẻ như cố định trong một trật tự không bao giờ thay đổi; trong lĩnh vực của sự sống hữu cơ, chúng ta vẫn có thể xem những sức mạnh tranh đua với nhau như thế nào, và những tác động của cuộc xung đột thì liên tục thay đổi như thế nào.
Thế nên, cũng vậy, hai thúc giục, một thúc dục hướng đến hạnh phúc cá nhân và thúc dục khác hướng đến hợp nhất với những con người khác, phải vật lộn với nhau trong tất cả mỗi cá nhân, và như thế, cũng vậy, hai tiến trình của cá nhân và của phát triển văn hóa phải đứng trong đối lập thù địch với nhau, và cùng nhau tranh chấp chỗ đứng.
Nhưng cuộc đấu tranh giữa cá nhân và xã hội không phải là một dẫn xuất của mâu thuẫn này – có lẽ là một mâu thuẫn không thể hoà giải được – giữa những bản năng nguyên thủy của Eros và cái Chết. Nó là một tranh chấp trong kinh tế thiệt hơn của libido, so sánh được với cuộc thi đua liên quan đến sự phân bố của libido giữa ego và những đối tượng, và nó quả có thừa nhận về một chỗ ở cuối cùng trong cá nhân, như nó có thể hy vọng, nó sẽ cũng làm trong tương lai của văn minh, cho dù văn minh đó có thể đè nén đến chừng nào đời sống của cá nhân ngày hôm nay.
Sự tương tự giữa tiến trình của văn minh và con đường của phát triển cá nhân có thể được mở rộng trong một khía cạnh quan trọng. Nó có thể được khẳng định rằng cộng đồng, cũng vậy, đã tiến hóa một super-ego, sự phát triển văn hóa tiến hành dưới ảnh hưởng của nó. Nó sẽ là một công việc hấp dẫn cho bất cứ ai là người có một kiến thức về văn minh của con người để đi theo tương tự này cho cùng trong những chi tiết. Tôi sẽ tự giới hạn mình để chỉ đưa ra một vài điểm nổi bật. Super-ego của một kỷ nguyên của văn minh có một nguồn gốc tương tự như nguồn gốc của một cá nhân.
Nó đã dựa trên ấn tượng để lại từ những nhân cách của những nhà lãnh đạo vĩ đại – những con người có não thức có sức mạnh áp đảo, hay những con người, vốn đã tìm thấy một trong những xung lực con người là mạnh mẽ nhất và thuần khiết nhất trong họ, và do đó nó thường là biểu hiện phiến diện một chiều nhất.
Trong nhiều trường hợp, sự tương tự lại còn đi xa hơn nữa, ở đó dài trong cuộc đời của họ, những khuôn mặt này đã được – thường là đã đủ, ngay cả nếu như không phải luôn luôn – bị những người khác chế nhạo và ngược đãi, và ngay cả có khi phải bị giết một cách tàn nhẫn. Trong cùng một cách, thực vậy, người cha nguyên thủy đã không đạt được tính thần linh mãi đến lâu sau khi ông đã gặp cái chết của mình bằng bạo lực.
Thí dụ thu hút chú ý nhất của sự liên kết định mệnh này được nhìn thấy trong nhân vật Jesus Christ – nếu như quả thực, nhân vật này không phải là một phần của huyền thoại, vốn đã gọi nó vào thành hữu thể từ một ký ức mờ mịt của biến cố nguyên thủy đó. Một điểm ứng thuận khác giữa super-ego của văn hóa và super-ego của cá nhân là cái kể trước, giống như cái kể sau, đều thiết lập những đòi hỏi lý tưởng khắt khe, nếu bất tuân chúng là bị “sợ hãi của lương tâm” thăm viếng.
Ở đây, thực vậy, chúng ta bắt gặp hoàn cảnh đáng chú ý là những tiến trình não thức có liên quan là thực sự quen thuộc hơn với chúng ta, và dễ tiếp cận hơn với hữu thức như chúng được nhìn thấy trong nhóm, hơn là chúng có thể là trong con người cá nhân. Trong con người cá nhân, khi căng thẳng phát sinh, nó chỉ là tính gây hấn hung hãn của super-ego, vốn trong những hình thức khiển trách, làm cho chính nó được nghe thấu ầm ĩ; những đòi hỏi thực sự của nó thường vẫn vô thức nằm trong nền phía sau.
Nếu chúng ta mang chúng ra thành kiến thức thuộc hữu thức, chúng ta thấy rằng chúng trùng với những giới luật văn hóa hiện hành của super-ego. Tại điểm này, hai tiến trình, đó là sự phát triển văn hóa của nhóm và của sự phát triển văn hóa của cá nhân, như chúng đã là, là luôn luôn đan cài lẫn vào vứi nhau. Vì lý do đó một số những biểu hiện và tính chất của super-ego có thể dễ dàng khám phá trong hành vi của nó trong cộng đồng văn hóa hơn là trong những cá nhân riêng biệt.
Super-ego văn hóa đã phát triển những lý tưởng của nó và thiết lập những tiêu chuẩn của nó. Trong số những đòi hỏi của nó vốn đối phó với những quan hệ của con người với nhau được bao gồm dưới nhan đề luân lý học. Con người ta trong tất cả mọi thời đặt giá trị cao nhất trên luân lý, như thể họ hy vọng rằng nó đặc biệt sẽ tạo ra những kết quả đặc biệt quan trọng.
Và nó quả trong thực tế đối phó với một chủ đề vốn có thể dễ dàng được nhìn nhận như là điểm nhức nhối nhất trong mỗi nền văn minh. Luân lý như vậy, đã phải được xem là một cố gắng trị bệnh – như một nỗ lực để đạt được, bởi những phương tiện của một mệnh lệnh của super-ego, một điều gì đó mà cho đến nay chưa thực hiện được bằng những phương tiện của bất kỳ hoạt động văn hóa nào khác.
Như chúng ta đã biết, vấn đề trước mặt chúng ta là làm thế nào để dời đi được chướng ngại lớn nhất với văn minh – cụ thể là, khuynh hướng cấu thành của loài người là gây hấn hung hãn lẫn nhau, người này với người kia; và vì chính lý do đó, chúng ta đặc biệt quan tâm đến những gì có lẽ là gần đây nhất của những mệnh lệnh văn hóa của super-ego, mệnh lệnh như điều răn phải yêu thương người bênh cạnh như yêu chính mình.
Trong nghiên cứu của chúng ta, và liệu pháp của chứng nhiễu loạn thần kinh, dẫn chúng ta đến làm hai chê trách chống lại super-ego của cá nhân. Trong mức độ nghiêm trọng của những mệnh lệnh của nó và những cấm đoán, nó nhọc lòng quá ít về hạnh phúc của ego, trong đó nó nhận không đầy đủ những đối kháng không tuân theo chúng – của sức mạnh bản năng của id (trong điều trước nhất), và của những khó khăn đem đến từ môi trường thực tại bên ngoài (trong điều thứ hai). Hậu quả là chúng ta rất thường có nghĩa vụ, vì những mục đích điều trị, để chống lại super-ego, và chúng ta nỗ lực để là giảm thấp những đòi hỏi của nó.
Đích xác là cùng những phản đối tương tự có thể được thực hiện đối với những đòi hỏi đạo đức của super-ego văn hóa. Nó cũng vậy, nó không nhọc lòng lắm với chính nó cho đủ về những sự kiện của cấu tạo não thức của giống người. Nó ban hành một mệnh lệnh và không hỏi liệu mọi người có thể tuân theo được hay không.
Ngược lại, nó giả định rằng ego của một người là có khả năng tâm lý về bất cứ gì vốn được đòi hỏi với nó, rằng ego của một người đã làm chủ không giới hạn trên id của mình.
Đây là một sai lầm; và ngay cả trong những gì được biết đến như những người bình thường, id không thể bị kiểm soát quá những giới hạn nhất định nào đó. Nếu đòi hỏi nhiều hơn với một con người, cuộc khởi loạn sẽ được sản xuất ở trong người ấy, hoặc nhiễu loạn thần kinh, hoặc người ấy sẽ bị làm thành không hạnh phúc.
Lời răn, “Yêu kẻ lân cận như yêu mình”, là sự phòng vệ mạnh nhất chống lại tính gây hấn hung hãn của con người, và là một thí dụ tuyệt vời về những tiến hành phi tâm lý đối với super-ego văn hóa. Giới răn này là không thể nào có thể đi đến thực hiện được; một sự lạm phát tình yêu rất khổng lồ như thế chỉ có thể hạ thấp giá trị của nó, mà không gạt bỏ được khó khăn.
Văn minh không chú ý gì đến tất cả điều này, nó chỉ đơn thuần cảnh cáo chúng ta rằng càng khó hơn để tuân giữ giới răn bao nhiêu, càng đáng khen hơn khi làm như vậy.
Nhưng bất kỳ ai là người tuân theo một giới răn giống như thế trong văn minh ngày nay chỉ tự đặt mình vào một thế bất lợi khi liên hệ với ai là người không màng gì đến nó. Tính gây hấn hung hãn phải là một trở ngại mạnh mẽ với văn minh phải đến chừng nào, nếu như sự phòng vệ chống lại nó lại có thể gây ra cũng nhiều bất hạnh như gây hấn chính nó gây ra! Luân lý “Tự nhiên”, như nó được gọi, không có gì để đem cho ở đây, ngoại trừ sự hài lòng tự mãn tự yêu mình của tư cách có thể nghĩ rằng mình tốt hơn so với những người khác.
Tại điểm này, luân lý dựa trên tôn giáo đem vào giới thiệu những hứa hẹn của nó về một đời sau tốt đẹp hơn. Nhưng miễn là chừng nào đạo hạnh không được khen thưởng ở đây trên trái đất, đạo đức luân lý, tôi võ đoán, sẽ thuyết giảng một cách vô ích. Tôi cũng nghĩ là điều khá chắc chắn rằng một thay đổi thực sự trong những quan hệ của con người với sở hữu tài sản sẽ giúp được nhiều hơn trong hướng này, hơn bất kỳ những mệnh lệnh đạo đức nào; nhưng sự công nhận thực tại này trong những người theo chủ nghĩa xã hội đã bị che khuất và làm thành vô dụng vì những mục đích thực tiễn bởi một quan niệm sai lầm lý tưởng tươi mới về bản chất con người.
Tôi tin rằng dòng suy nghĩ dõi tìm phần của một super-ego đã đóng vai trong những hiện tượng của phát triển văn hóa, vẫn hứa hẹn còn thêm những khám phá. Tôi nhanh để đi đến một kết thúc. Nhưng có một câu hỏi vốn tôi khó có thể trốn tránh. Nếu sự phát triển của văn minh có một tương đồng với sự phát triển của cá nhân xa rộng đến như thế, và nếu nó sử dụng cùng những phương pháp, có phải chúng ta không thể là chính đáng trong việc đạt được chẩn đoán rằng, dưới ảnh hưởng của những thúc dục văn hóa, một số văn minh, hoặc một số những kỷ nguyên của văn minh – có thể là toàn bộ của loài người – đã trở thành bị rối loạn “thần kinh”? [13]
Một sự mổ xẻ phân tích của những rối loạn thần kinh giống như thế có thể dẫn đến những đề nghị điều trị vốn chúng có thể khẳng định quyền đòi chú tâm thực tế rất lớn. Tôi sẽ không nói rằng một nỗ lực thuộc loại này để thực hiện tâm lý-phân tích bao trùm cho cộng đồng văn hóa là phi lý hay bị chết với phần số là vô kết quả. Nhưng chúng ta cần phải rất thận trọng và đừng quên rằng, sau cùng tất cả, chúng ta chỉ đối phó với những tương đồng và nó là nguy hiểm, không chỉ với con người mà còn với những khái niệm, để tước xé chúng khỏi lĩnh vực mà trong đó chúng bắt nguồn gốc và đã tiến hóa. Hơn nữa, việc chẩn đoán chứng nhiễu loạn thần kinh cộng đồng thì phải đối mặt với một khó khăn đặc biệt.
Trong một chứng nhiễu loạn thần kinh cá nhân, chúng ta lấy sự tương phản vốn phân biệt bệnh nhân với môi trường của mình, vốn được xem là “bình thường”, làm điểm bắt đầu của chúng ta. Đối với một nhóm trong đó tất cả những thành viên của nó đều bị ảnh hưởng bởi một và cùng một chứng rối loạn, không có thể hiện hữu nền tảng giống như vậy; nó sẽ phải được tìm thấy ở nơi nào khác. Và liên quan đến những ứng dụng điều trị của kiến thức của chúng ta, sử dụng những phân tích chính xác nhất của nhiễu loạn thần kinh xã hội sẽ là những gì đây, vì không có ai có được quyền để áp đặt như một biện pháp chữa trị giống thế với toàn nhóm? Nhưng bất chấp tất cả những khó khăn này, chúng ta có thể hy vọng rằng một ngày nào đó sẽ có người liều lĩnh bắt tay vào một khoa học nghiên cứu bệnh lý của những cộng đồng văn hóa.
Do những lý do rộng rãi nhiều loại, đó là rất xa với ý định của tôi để bày tỏ một ý kiến về giá trị của văn minh của con người. Tôi đã cố gắng để phòng vệ chính mình chống lại những định kiến nhiệt tình vốn chủ trương rằng văn minh của chúng ta là điều quý giá nhất mà chúng ta có được, hoặc có thể có được, và rằng con đường của nó sẽ nhất thiết dẫn đến những đỉnh cao hoàn hảo không thể tưởng tượng nổi. Ít nhất tôi có thể nghe mà không phẫn nộ với những nhà phê bình là người có ý kiến rằng khi người ta điều tra những mục tiêu của nỗ lực văn hóa và những phương tiện nó sử dụng, người ta là ràng buộc để đi đến kết luận rằng toàn bộ nỗ lực không đáng giá với những rắc rối, và rằng kết quả của nó chỉ có thể là một tình trạng của những sự việc mà những cá nhân sẽ không thể có khả năng tha thứ được.
Tính không thiên vị của tôi được làm tất cả mọi việc dễ dàng hơn cho tôi vì sự hiểu biết rất ít của tôi về tất cả những điều này. Chỉ một điều duy nhất tôi biết chắc chắn và đó là những phán đoán của con người về giá trị trực tiếp theo đến sau những mong ước về hạnh phúc của mình – đó là, một cách tương ứng, chúng là một nỗ lực để trợ giúp những ảo tưởng của người ấy với những luận chứng.
Tôi sẽ phải tìm thấy nó rất dễ hiểu nếu một ai đó chỉ ra tính chất tự nhiên bắt buộc của dòng chảy của văn minh của con người, và đã phải nói, lấy thí dụ, rằng những khuynh hướng đi đến một hạn chế của đời sống tính dục, hoặc đi đến tổ chức của một lý tưởng nhân đạo đổi lấy tổn hại của sự chọn lọc tự nhiên đã là những khuynh hướng phát triển vốn chúng không thể ngăn chặn được, hoặc chuyển sang một bên, và với nó, tốt nhất là chúng ta nên nhường, nghĩ như thể chúng là những thiết yếu của tự nhiên.
Tôi biết, cũng nữa, những phản đối có thể được thực hiện để chống lại điều này, đối với tác dụng trong lịch sử của loài người, những khuynh hướng như vậy, được xem là không thể vượt thắng, đã thường bị vứt sang một bên, và thay thế bằng những khuynh hướng khác. Vì vậy tôi đã không đủ can đảm để đứng lên trước những đồng loại của tôi như là một tiên tri, và tôi cúi mình trước khiển trách họ mà tôi không thể cung cấp cho họ sự an ủi: vì ở dưới đáy đó là những gì tất cả họ đều đòi hỏi – những nhà cách mạng ngông cuồng nhất không nhiệt tình thua gì những người tin tưởng đạo hạnh nhất.
Câu hỏi định mệnh về loài người dường như với tôi là không biết có hay không và đến mức độ nào phát triển văn hóa của họ sẽ thành công trong việc làm chủ những xáo trộn của đời sống cộng đồng của họ bởi bản năng gây hấn và tự hủy diệt của con người. Nó có thể là trong phương diện này, một cách đích xác ở thời điểm hiện tại, xứng đáng có được một quan tâm đặc biệt.
Con người đã giành được quyền kiểm soát những sức mạnh của thiên nhiên đến mức mà với sự giúp đỡ của chúng, họ sẽ không có khó khăn nào trong việc tiêu diệt nhau cho đến người cuối cùng. Họ biết điều này, và do đó dẫn đến một phần lớn tình trạng bất ổn hiện tại của họ, bất hạnh của họ, và tâm trạng lo lắng của họ. Và giờ đây là để được dự kiến rằng sức mạnh kia của hai “sức mạnh trời cao”, Eros vĩnh cửu, sẽ làm một nỗ lực để khẳng định mình trong cuộc đấu tranh với địch thủ cũng bất tử ngang như mình. Nhưng ai có thể lường trước được với thành công gì và với kết quả nào? [14]
Sigmund Freud
(Vienna, 1929)
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Jan/2012)
[1] Feeling of Guilt: cảm xúc lầm lỗi: đại diện cho một cảm giác căng thẳng trong não thức, đôi khi liên quan đến lo âu về một đe dọa tai ương cho chính mình. Nó cũng có thể là sự hiển lộ như sự khiêm nhường, đau khổ, hối hận, sự cần thiết phải chịu phạt, và cảm giác không xứng đáng. Thuật ngữ này mô tả một trạng thái cảm xúc phát sinh hậu quả của một số hành động mà chủ thể xem xét đáng bị khiển trách; nó cũng có thể chỉ về một cảm giác mơ hồ cá nhân bất xứng, không hẳn phải có liên quan đến một bất kỳ hành động cụ thể nào.
Freud phân biệt hai nguồn của cảm xúc lầm lỗi: sợ hãi uy quyền và sợ hãi super-ego. Sợ hãi trước buộc phải thôi không làm một số áp lực hay hành động theo bản năng, trong khi sợ hãi sau, nội tâm hóa quyền lực của cha mẹ, bắt đầu phát triển của super-ego. Một trong các chức năng của cơ quan này (super-ego), có trách nhiệm cho việc đánh giá và phán đoán của các hành động của ego, được gọi là lương tâm đạo đức. Gây hấn hung hãn xuất phát từ lương tâm đạo đức này kéo dài và tăng cường sự gây hấn hung hãn đã được trải nghiệm từ uy quyền. Dưới ảnh hưởng của cảm xúc lầm lỗi, ego đặt mình dưới những đòi hỏi của super-ego, vì sợ mất cảm tình và bảo vệ của nó. Theo Freud, có một liên kết giữa cảm xúc lầm lỗi và mặc cảm Oedipus.
Lo lắng trước sự phải mất (hoặc tiềm năng có thể bị mất) của đối tượng yêu thương không phải là biểu hiện duy nhất của cảm xúc lầm lỗi. Ngoài ra còn có những tiềm năng khác như sự đau đớn nội tâm, những đau khổ trong đời sống, sự khiêm cung quá mức, thất bại cứ lặp đi lặp lại và những hối tiếc quá khứ, tất cả liên tục dày vò lên tiếng gọi, có thể đưa đến ăn năn, hoặc chuộc tội, hoặc lẩn tránh, từ bỏ hay hy sinh nào đó, hay ý tưởng tự tử, và khuynh hướng về tự trừng phạt.
Trong tập sách này – Civilization and Its Discontents, Freud mô tả cách các cảm xúc lầm lỗi, cùng các phương pháp và cơ chế được sử dụng để vùng vẫy chống lại nó, ảnh hưởng của nó trên quan hệ của cá nhân, không chỉ với gia đình trực tiếp của họ, mà còn các mối quan hệ khác trong các nhóm xã hội lớn hơn, và ngay cả với nền văn minh như một toàn thể. Một trong những mục tiêu chủ yếu của phân tâm học là tìm hiểu bệnh nhân xem họ điều hành mặc cảm tội lỗi của họ như thế nào, ví dụ, để hiểu được mức độ mà họ có thể chấp nhận sự mâu thuẫn và trách nhiệm trong khi đối mặt với bản năng sống còn và những tình cảm tạo ra cảm xúc lầm lỗi.
Trong một mức độ nào đó, cảm xúc lầm lỗi có thể nói được là phản ánh, hoặc là kết quả của sự bất đồng điệu giữa ego và super-ego, sự xuất hiện của super-ego ngụ ý sự xuất hiện không thể tránh được của cảm xúc lầm lỗi.
[2] [ “Thế nên, lương tâm không làm chúng ta tất cả thành những kẻ hèn nhát …”
Giáo dục những người trẻ tuổi trong thời nay đã che dấu không cho họ biết phần đóng vai của tính dục trong đời sống của họ, và đó không phải là khiển trách duy nhất mà chúng ta buộc phải chống nó. Tội lỗi khác của giáo dục là không chuẩn bị cho giới trẻ với tính gây hấn hung hãn mà họ đã đựơc định sẵn để trở thành những đối tượng. Khi đẩy giới trẻ vào đời sống với một hướng dẫn tâm lý sai lầm loại như thế, giáo dục thì hành xử như thể trang bị cho người bắt đầu một chuyến thám hiểm Bắc cực nhưng với quần áo mùa hè và bản đồ của những hồ nước trong nước Ý.
Trong việc này, điều trở nên hiển nhiên là có một sự lạm dụng nào đó được thực hiện trong những đòi hỏi về đạo đức. Sự nghiêm ngặt của những đòi hỏi này vốn đã không làm tổn hại rất nhiều nếu như giáo dục đã nói: “Đây là cách con người phải nên là như thế nào, để được hạnh phúc và để làm cho những người khác hạnh phúc, nhưng bạn phải nhận biết được trên sự kiện là họ không là như thế.” Thay vì như thế, những người trẻ này được làm để tin rằng tất cả mọi người khác đều đáp ứng những đòi hỏi đạo đức này – nghĩa là, tất cả mọi người khác đều là đạo đức. Đó là đòi hỏi đã đặt cơ sở trên điều này khiến cho giới trẻ, chúng cũng vậy, sẽ thành đạo đức (như mọi người khác).]
[3] [‘Schuldbewwusstsein’ thay vì ‘Schuldgefuhl’. Thuật ngữ thứ hai là từ Freud đã xủ dùng hầu hết mọi phần.]
[4] neuroses
[5] uneasiness
[6] anxiety
[7] [Xem chương VIII của Inhibitions, Symptoms and Anxiety (1926d),
Standard Ed., 20, 132. – Những cảm giác không thể được mô tả đúng thực như “vô thức” (cf. The Ego and the Id, Standard Ed., 19, 22-3).]
[8] [“Unbehagen”: từ ngữ vốn xuất hiện trong nhan đề của tác phẩm này]
[9] [Trong Tương lai của một Illusion (1927c)]
[10] [Totem và Taboo (1912-1913).]
[11] agency
[12] Quan điểm này đặc biệt được Ernest Jones, Susan Isaacs và Melanie Klein tiếp nhận, và cũng có thể, tôi hiểu, cả Reik và Alexander.
[13] [ Cf. Một vài nhận xét trong the Future of an Illusion (1927c).]
[14] [Câu cuối cùng đã được viết thêm, vào năm 1931-khi sự đe dọa của chính quyền Hitler đã bắt đầu thành rõ ràng.]
Sigmund Freud – Văn minh và những Bất mãn từ nó (10)
Văn minh và những Bất mãn từ nó
Sigmund Freud
(1856 – 1939)
Das Unbehagen In Der Kultur (Vienna, 1929).
Civilization and Its Discontents (1930)
(tiếptheo)
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.