Chùa Nộn Sơn tuy là một ni viện nhỏ nhưng các Ni Sư đều có chức vụ rõ rệt. Ni Sư Tĩnh Quang là giám viện của chùa và chức vụ của bà là tri sự, nghĩa là chịu trách nhiệm tổng quát về mọi việc trong chùa. Ni Sư Đàm Thái đảm nhiệm chức vụ tri diện, và tri khách, tức là vừa trông coi chánh điện cho sạch sẽ và trang nghiêm vừa lo việc tiếp đón các vị khách ni và các thiện nam tín nữ đến viếng chùa lạy Phật. Những lúc công việc tri khách trở nên bề bộn thì Ni Sư Tĩnh Quang và các Ni Sư khác đều phải phụ sức vào để làm đỡ công việc này. Ni Sư Hương Nghiêm lo việc tri tạng, tức là chăm sóc về kinh điển thư tịch và việc dạy học, còn công việc tri viên, tức là coi sóc vườn tược thì do Ni Sư Hương Tràng đảm trách.
Chức vụ của tri viên, bao hàm việc săn sóc vườn cảnh, vườn rau và vườn ương của chùa. Đáng lý việc quản lý ruộng chùa cũng nằm trách vụ tri viên, nhưng vì thấy công việc này nặng quá cho nên Ni Sư Tĩnh Quang đã tự mình trực tiếp đảm nhận lấy với sự tiếp tay của gia đình bác Trực dưới chân núi.
Ni Sư Hương Tràng đã trồng được rất nhiều danh mộc trong vưòn chùa. Ngọc lan, hoa mộc, hải đường và nhất là các loại tùng, bách, được trồng trên khắp nơi trên núi. Vườn rau nằm ngay phía sau hậu liêu. Ở đây gần suối cho nên việc tưới tắm rất dễ dàng. Tất cả bốn Ni Sư đều có tiếp tay vào việc chăm bón vườn rau. Vườn ương dưới chân núi thì không xa nhà bác Trực. Ni Sư Hương Tràng để thật nhiều thì giờ vào công việc chăm sóc khu vườn ương này. Ni Sư Hương Nghiêm cũng rất ưa đi xuống vườn ương. Cô là người phụ tá đắc lực nhất cho Ni Sư Hương Tràng trong việc chăm sóc vườn ương. Bác Trực, bé Tuất và thằng cu Lợi cũng giúp Ni Sư rất nhiều. Những ngày Ni Sư bận rộn công việc trên chùa, bác Trực và bé Tuất thường quảy nước tưới vườn thay cho Ni Sư. Những khi cần người khuân vác nặng thì đã có bác Trực và thằng cu Lợi giúp đỡ.
Mùa kiết hạ bắt đầu từ ngày rằm tháng tư và sẽ chấm dứt sau lễ Vu Lan ngày rằm tháng bảy. Các Ni Sư tuy kết hạ nhưng giới hạn an cư rất rộng. Họ có thể đi lại bất cứ nơi nào trên núi và cũng có quyền xuống cả tới vườn ương. Sáng nay trên đường xuống núi, Ni Sư Hương Nghiêm hỏi Ni Sư Hương Tràng:
– Em nhận thấy nghi thức công phu buổi sáng gồm toàn những bài đà la ni cả, tại sao vậy thưa chị?
Ni Sư Hương Tràng cũng nhận thấy điều sư muội bà nói là đúng. Từ ngày nghe chú Pháp Đăng tụng kinh trên am Long Động, bà đã để ý tới điểm này rồi. Buổi công phu bắt đầu bằng thần chú Thủ Lăng Nghiêm, đi qua thần chú Đại Bi, và đến chín bài thần chú khác. Thiền học ở nước Đại Việt đã bị mật giáo xứ Tây Tạng lấn áp rồi chăng? Từ ngày quân Mông Cổ chiếm cứ Tây Tạng rồi qua diệt nhà Tống để thành lập nước Nguyên, Mật giáo lan tràn rất chóng. Tuy Đại Việt đánh bại được quân Nguyên nhưng văn hóa phương Bắc vẫn cứ ảnh hưởng tới Đại Việt. Tại sao trong buổi công phu sáng lại không có những kinh văn về Thiền, như Kinh Lăng Già hoặc Kinh Kim Cương mà lại toàn là các bài thần chú? Bà rất mừng mà nhận thấy rằng tuy Hương Nghiêm còn trẻ tuổi, cô đã có nhận xét rất sáng suốt, nhưng mà những người như vị ni cô trẻ tuổi này còn ít quá. Khắp nơi người ta học theo lề thói người phương Bắc một cách thiếu ý thức. Cả ngay tại những sơn môn lớn như Báo Ân, Quỳnh Lâm và Yên Tử, các bậc trưởng thượng cũng vô tình áp dụng nghi thức mới. Hương Tràng đã từng đọc sách Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục. Bà biết rằng đạo Phật đời Lý rất thịnh nhưng về sau đã suy sụp vì ảnh hưởng mật giáo. Đọc các bộ lục như Khóa Hư Lục và Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục bà thấy các vị Phật tử tiền bối đời Trần đã gạn lọc Phật Giáo và làm cho Phật học đời Trần trở lại thuần túy thiền học. Bây giờ đây, thiền học lại bắt đầu biến chất. Bà rất lo lắng cho tương lai Phật học nước nhà. Trên hai trăm năm, thiền học đã làm trụ chống tinh thần cho cả nước, nhờ đó mà thiên hạ được thái bình và nước nhà giữ vững được nền độc lập. Từ ít lâu nay, ảnh hưởng Nho học mới của nhà Tống đã bắt đầu gây nên sự kỳ thị giữa Nho gia và Phật gia, không những ở trong giới học giả mà ngay cả ở chốn triều đình. Bây giờ lại thêm sự biến chất của thiền học vì Lạt Ma giáo. Hương Tràng tự nhủ không biết rằng người cầm đầu giáo hội Trúc Lâm là tôn giả Pháp Loa có để tâm đến vấn đề này hay không.
Giáo hội Trúc Lâm hiện đang tiến hành việc khắc bản Đại Tạng Kinh. Đại Tạng Kinh này được khắc theo bản do nhà Nguyên ấn hành và như vậy là có thêm nhiều kinh điển Lạt Ma giáo. Nghĩ đến việc khắc bản kinh Đại Tạng, Hương Tràng chợt nghĩ tới quốc sư Bảo Sát, đệ tử đầu tay của Trúc Lâm đại sĩ, người mà bà đã được may mắn làm quen ở am Tử Tiêu trên núi Yên Tử và đã được thừa tiếp một lần thứ hai tại chùa Tư Phúc trong nội thành. Quốc sư Bảo Sát hiện đang lãnh trách nhiệm khắc bản Đại Tạng kinh để ấn hành tại Đại Việt. Khắc bản Đại Tạng kinh là một công trình vĩ đại, bởi vì Đại Tạng kinh có tới trên sáu ngàn quyển. Công việc này đã được khởi hành từ năm Ất Mùi nghĩa là mười bảy năm về trước, nhưng bị gián đoạn từ ngày Thượng hoàng viên tịch. Năm ngoái vua Anh Tông ra chiếu chỉ tiếp tục công việc khắc bản. Pháp Loa tôn sư đã ủy cho sư huynh mình là quốc sư Bảo Sát đứng ra giữ trọng trách này, vì công việc, quốc sư Bảo Sát đã phải rời am Tử Tiêu về cư trú ở chùa Báo Ân để tiện việc cắt đặt công việc. Hằng ngày có cả trăm người thợ lo viết chữ và khắc chữ trên gỗ. Hồi đầu năm nay, Hương Tràng đã ủy sư muội bà là Hương Nghiêm về kinh để thỉnh toàn bộ các tác phẩm của Trúc Lâm đại sĩ. Hương Nghiêm đã được gặp quốc sư Bảo Sát. Quốc sư cho cô biết là ít ra cũng phải năm năm nữa Đại Tạng kinh mới được khắc xong. Tuy nhiên những tác phẩm do các thiền sư Đại Việt sáng tác đều đã được khắc và đã được ấn hành riêng, trong đó có Khóa Hư Lục, Thượng Sĩ Ngữ Lục Thiền Lâm Chiết Chủy Ngữ lục, Thạch Thất Mỵ Ngữ v.v…
Hương Tràng biết rõ tính khí của quốc sư Bảo Sát. Vị cao đệ này của Thượng hoàng không ưa chốn phồ hoa đô hội, không ưa tổ chức và hội hè. Trúc Lâm đại sĩ yêu mến người đệ tử này nhất và Bảo Sát cũng là người thân cận đại sĩ nhiều nhất. Sở dĩ đại sĩ không ủy cho người làm tổ thứ hai của giáo hội Trúc Lâm cũng chỉ vì người không nhận trách vụ này. Hồi Hương Tràng lên thăm đại sĩ trên núi Yên Tử, ngài đã bảo công chúa gọi Bảo Sát là sư huynh. Bây giờ tuy Hương Tràng là đệ tử của quốc sư Bảo Phác, bà vẫn có khuynh hướng muốn gọi thiền sư Bảo Sát là sư huynh, dù trên nguyên tắc bà phải gọi người là sư bá.
Hương Tràng nhớ lại những ngày được Thượng hoàng cho phép lưu lại Yên Tử và đi viếng khắp nơi trên núi. Đó là vào tháng tám năm Mậu Thân. Trước khi Huyền Trân lên tới núi thì đại sĩ đã cho tất cả các thị giả của ngài xuống núi và chỉ để một mình sư huynh Bảo Sát ở lại bên mình. Tuy thế, sau khi tiếp chuyện với Hương Tràng, ngài lại phái Bảo Sát về kinh để trình bày với vua Anh Tông về việc lấy thuyền đưa ba trăm người Chiêm về nước, và dặn Bảo Sát sau khi làm xong trách nhiệm thì trở ngay lên Yên Tử. Chỉ trong vòng hai hôm là Bảo Sát đã trở về am Tử Tiêu. Lúc bấy giờ ba người mới mở đầu cuộc viếng thăm các thắng cảnh trên núi. Có lẽ đại sĩ biết đây là lần thăm viếng cuối cùng của ngài cho nên ngài lưu lại thật lâu ở mỗi nơi, nhìn từng gốc thông, sờ từng phiến đá. Ba người leo trèo trong suốt bảy hôm, không nơi nào là không đến, từ ngọn Hồ Sơn, đỉnh Vân Tiêu, đỉnh Cánh Diều, cho đến các đỉnh Ngọa Vân, Tử Tiêu, các am Thung, am Dược, am Trượng, suối Long, suối Hổ v.v… Ba người đi thong thả. Mệt thì nghỉ, đói thì mở cơm nắm ra ăn, khát thì vốc nước suối uống. Trong những lúc ấy, Huyền Trân có ý thức rằng đây là những ngày đẹp đẽ nhất trong đời mình. Sư huynh Bảo Sát rất ít nói. Không ai bảo ai, cả ba đều cảm thấy tràn đầy an lạc và hạnh phúc. Từ giã Thượng hoàng về kinh đô, Huyền Trân không biết rằng đó là lần gặp gỡ cuối cùng giữa cha con nàng. Huyền Trần đinh ninh sẽ có dịp trở lên núi để được làm lễ xuất gia với đại sĩ rồi về tìm một chốn sơn thanh thủy tú nào ở miền Hải Dương để lập am tu hành. Đại sĩ đã hứa cho nàng thọ Bồ Tát giới xuất gia. Ai ngờ chỉ chỉ hơn hai tháng sau, tại kinh sư nàng nghe tin đại sĩ viên tịch. Sư huynh Bảo Sát đã cho người đã cho người về chùa Báo Ân báo cáo đại tang, và từ chùa Báo Ân, tin Thượng hoàng băng hà đã được đưa vào nội cung. Đó là vào giữa giờ ngọ ngày mồng ba tháng mười một năm Mậu Thân. Lúc đó Huyền Trân còn đang ở bên chùa Tư Phúc với Thị Ngọc. Vua Anh Tông truyền gọi công chúa về và báo cho nàng biết là Thượng hoàng đã băng giữa khuya ngày mồng một. Huyền Trân vào đóng cửa ở trong tẩm điện suốt một ngày một đêm, không gặp mặt ai cũng không ăn uống gì, và cũng không chịu lên núi Yên Tử để dự lễ trà tỳ Thượng hoàng. Sáng ngày mồng bốn, hai người anh của nàng là vua Anh Tông và Huệ Võ Vương Quốc Chẩn cùng cả triều thần khởi hành từ kinh sư bằng đường thủy về núi Yên Tử trên sáu chiếc thuyền. Ngày mồng bảy vua tôi về tới kinh sư rước theo xá lợi của Trúc Lâm đại sĩ. Sư huynh Bảo Sát cũng theo về trong chuyến này. Ông lưu lại chùa Tư Phúc một đêm một ngày và cho vời Huyền Trân để chuyển lại lời di chúc của Thượng hoàng cho công chúa. Chính tại chùa Tư Phúc mà sư huynh Bảo Sát đã kể cho Huyền Trân nghe những giờ phút cuối của đại sĩ.
Sư huynh Bảo Sát kể rằng hồi đầu tháng mười đại sĩ có về kinh sư thăm bà chị là công chúa Thiên Thụy một lần mà không ai biết. Ngài chỉ đem theo một vị thị giả, đó là chú Pháp Đăng. Hai thầy trò đi bộ thong thả cho nên khởi hành từ ngày mồng một mà tới ngày mồng mười mới đến kinh sư. Thăm chị xong, đến ngày rằm ngài lên đường về núi. Trên đường ngài ghé nghỉ đêm tại chùa Siêu Loại, và hôm sau cũng có ghé chơi chùa Pháp Vân ở Cổ Châu. Theo chú Pháp Đăng thuật lại thì tại chùa Pháp Vân, ngài có đề một bài thơ ngũ ngôn trên vách tăng đường. Bài thơ như sau:
Số đời, một hơi thở,
Tình đời, hai biển trăng.
Cung ma đâu sá kể?
Nước Phật một trời xuân!
Ngày mười bảy, ngài ghé nghỉ đêm tại chùa Sùng Nghiêm. Tuyên Tử hoàng thái hậu, dì của Huyền Trân, lúc bấy giờ đã xuất gia và đang tu ở am Bình Dương gần đó. Nghe ngài ghé chùa, bà muốn được thỉnh ngài về am thọ trai. Đại sĩ nhận lời, cười mà nói: “Có lẽ đây là bữa cơm cúng dường cuối cùng”. Ngủ tại Sùng Nghiêm đêm ấy, sáng ngày mười tám ngài lại lên đường. Hai vị tỳ kheo chùa Sùng Nghiêm là Tử Đính và Hoàn Trung đi theo hầu ngài, bởi chú Pháp Đăng đã được lệnh về núi trước. Thầy trò leo trèo mãi mới tới được am Tú Lâm ở ngọn An Sinh. Nghỉ ở đó một lát, ngài bảo hai vị: “Tôi muốn về ngay am Ngọa Vân nhưng sức chân yếu quá, làm thế nào bây giờ?”. Hai vị trả lời: “Hai chúng tôi xin phù ngài đi”. Họ lấy võng đưa ngài lên tới đỉnh Ngọa Vân. Vào am xong, ngài cám ơn hai vị và nói: “Các vị xuống núi đi, và về chùa lo tu hành. Đừng cho chuyện sinh tử là nhàn hạ”. Tại am Ngọa Vân lúc bấy giờ chỉ có hai vị thị giả là Pháp Không và Pháp Đăng. Ngày mười chín, ngài bảo chú Pháp Không lên am Tử Tiêu gọi sư huynh Bảo Sát về gấp.
“Tại am Tử Tiêu, được tin đại sĩ gọi thì trời đã tối, tôi phải đợi sáng ngày mai mới lên đường. Ai ngờ đi được nửa đường thì trời nổi cơn giông bão. Mây đen phủ đầy núi và mưa rơi như thác đổ. Nước suối dâng cao, không có cách gì vượt qua được. Tối đến, tôi phải vào tạm trú ở một sơn điếm gần đó. Lòng như lửa đốt, đêm ấy tôi mộng thấy những điềm bất thường. Sáng dậy thì trời đã ngớt mưa; mưa nước suối đã xuống thấp và tôi lội qua được. Trưa ngày hăm mốt, tôi đến được am Ngoạ Vân. Thấy mặt tôi, đại sĩ nói: “Ta sắp đi rồi, sao người đến chậm thế? Có chỗ nào trong Phật pháp mà ngươi chưa hiểu thì hãy hỏi đi”. Tôi hỏi: “Ngày xưa khi thấy thiền sư Mã Tổ trong người bất an, thầy trú trì đến hỏi thăm xem Ngài cảm thấy thế nào, thì thiền sư nói: “Ngày đối diện Phật, đêm đối diện Phật. Như thế là ngài muốn nói gì?”. Đại sĩ cao tiếng mắng tôi: “Người cho Ngũ Đế và Tam Hoàng là vật gì? Tôi mới hỏi tiếp: “Hoa nở rực rở phô mầu gấm, gỗ phương Nam, tre phương Bắc, là nghĩa làm sao?”. Ngài nói: “Mù mắt ngươi đi. Tôi biết ngài rất sáng suốt và đã chuẩn bị sẵn sàng nên rất mừng. Tôi với hai chú Pháp Không và Pháp Đăng ở lại hầu hạ ngài, không dám rời bước khỏi am. Mấy hôm liên tiếp trời mưa gió âm u và trên núi không biết tại sao chim kêu vượn hú rất buồn. Đêm mồng một tháng mười một tự nhiên trời hết mưa gió hết thổi. Tôi ra ngoài nhìn lên trời không còn một gợn mây, và sao sáng đầy trời. Lúc đó là đúng nửa đêm. Thấy tôi trở vào, đại sĩ hỏi: “Giờ này là giờ gì?. Tôi đáp: “Bạch thầy, giờ Tý”. Ngài đưa tay đẩy cửa để nhìn ra khung trời đầy sao rồi bảo nhẹ: “Đã đến giờ ta đi rồi”. Tôi hỏi: Tôn đức định đâu vào giờ này”. Ngài đọc bài kệ:
Mọi pháp đều không sinh
Mọi pháp đều không diệt
Nếu hiểu được điều đó
Thì thấy Phật trước mặt
Không đến cũng không đi
Tôi hỏi tiếp: “Còn khi đã bất sinh bất diệt rồi thì sao?”, Ngài xua tay: “Đừng nói mê nữa”. Rồi ngài ngồi trong tư thế sư tử tọa mà hóa. Hai chú Pháp Không và Pháp Đăng khóc nấc lên, tôi tới ôm vai các chú bảo đừng khóc. Rồi chúng tôi quỳ bên giường đại sĩ, niệm Phật cho tới sáng.
“Trước đấy hai hôm, ngài đã có cho di chúc về việc trà tỳ nhục thân. Ngài bảo ngài không muốn có một lễ quốc táng do triều đình lo liệu. Ngài là người xuất gia của sơn môn Yên Tử và ngài muốn chính đệ tử ngài làm lễ hỏa táng ngài trong một nghi thức thật đơn sơ, Ngài dặn dựng hỏa dàn ngay tại trong am Ngọa Vân và làm lễ hỏa thiêu ngài trước khi báo về cho kinh sư biết. Để triều đình sau này không làm khó dễ sơn môn, ngài đã tự tay thảo di chúc hẳn hoi. Suốt ngày mồng hai, tôi và chú Pháp Không lo đốn gỗ thơm về đựng hỏa dàn. Tối ngày mồng hai, sau khi đưa nhục thân đại sĩ lên hỏa đàn, chúng tôi làm lễ khai hỏa. Am Ngọa Vân bốc cháy cùng với hỏa đàn. Mùi hương thơm bay lên sực nức. Chúng tôi nghe như có thiên nhạc trỗi lên vang dội trên hư không, và phía trên hỏa đàn có một đám mây năm sắc bay đến bao phủ. Lễ trà tỳ cử hành xong, rạng ngày mồng ba tôi cho chú Pháp Không về kinh thông báo. Sư đệ tôi là Pháp Loa từ chùa báo Ân nghe tin lập tức cùng chư tăng lên núi. Tất cả các thị giả và đệ tử của đại sĩ từ chùa Báo Ân đều tức tốc trở về. Đến chiều ngày mồng bốn, Pháp Loa và chư tăng lên tới. Sư đệ Pháp Loa sai nấu nước thơm rưới lên hỏa đàn và làm lễ thu nhập xá lợi. Ngọc xá lợi có đủ năm mầu, đếm cả thảy lớn nhỏ trên năm tram hạt. Tối hôm ấy, vua Anh Tông, Huệ Võ Vương và đình thần lục tục lên tới. Mọi người vừa lạy vừa khóc. Tiếng khóc của triều thần vang động cả núi rừng.
“Sáng hôm sau, vua và triều thần định xuống núi, bắt tôi phải về theo để tường trình cớ sự. Xá lợi của đại sĩ được rước về theo thuyền. Trên thuyền, các quan vẫn tiếp tục khóc thương, tiếng khóc rất ai oán. Có vị tỏ vẻ bất bình vì tôi và các chú Pháp Không và Pháp Đăng đã dám làm lễ trà tỳ mà không đợi lệnh triều đình. Họ còn nói là họ sẽ tâu vua làm tội tôi. Tôi nào có sợ gì, bởi vì tôi chỉ làm theo di giáo của đại sĩ. Tôi lại đem theo di chúc của ngài, và về tới kinh đô tôi đã trình lên vua”.
Sư huynh cho Huyền Trần biết là đại sĩ có dặn dò người về việc lo công chúa được xuất gia. Ngài dặn sư huynh làm lễ thế độ cho công chúa, cho công chúa thọ xuất gia bồ tát giới và tìm nơi cho công chúa tu học. Sư huynh bảo là sẽ nhờ một vị sư đệ của ông là thiền sư Bảo Phác lo lắng việc này. Công chuá sẽ xuất gia và thọ giới với thiền sư Bảo Phác ở núi Vũ Ninh và thiền sư sẽ cho công chúa nhập chúng tu học ở đó cho đến khi kiến thức Phật pháp của công chúa đã khá vững vàng. Sau đó thiền sư sẽ tìm một nơi thanh tịnh để công chúa an cư và tiếp tục tu học.
Huyền Trần đã vâng lời sư huynh Bảo Sát. Chỉ chưa đầy một tháng sau, nàng đã được xuất gia tại Vũ Ninh và được học Phật dưới sự chỉ dẫn của thiền sư Bảo Phác cùng vơi một số các vị tân ni khác. Nàng được thiền sư Bảo Phác cho pháp danh là Hương Tràng. Ni Sư Hương Tràng nhờ bản tính thông tuệ cho nên học Phật rất mau chóng. Bà rất được các bạn ni sinh quý mến. Tháng mười năm sau, bà được thiền sư Bảo Phác cử về chùa Hổ Sơn. Bà đã xin với thiền sư để đem sư muội của bà là Hương Nghiêm đi theo. Về tới Hổ Sơn được ba tháng, hai chị em thỉnh được Ni Sư Tĩnh Quang và Ni Sư Đàm Thái về nhập chúng. Tôn trọng Ni Sư Tĩnh Quang là bậc tiền bối và tu học lâu hơn bà tới mười năm, Hương Tràng mời bà đứng lên làm giám viện của chùa này.
Sư huynh Bảo Sát từ hôm ấy đã trở lại am Tử Tiêu trên núi. Chỉ mới năm ngoái đây thôi, ông đã phải rời am Tử Tiêu để về chùa Báo Ân lo việc khắc kinh. Vua Anh Tông nhân dịp này ban hành danh hiệu quốc sư cho ông và cho cả sư đệ ông là thiền sư Bảo Phác. Hương Tràng biết là thiền sư Bảo Sác không ưa gì cái danh hiệu quốc sư và sở dĩ ông phải rời am Tử Tiêu cũng bởi vì công việc san khắc Đại tạng kinh không thể trông cậy vào một ai khác. Theo nhận thức của bà thì trinh độ học Phật và tu chứng của thiền sư Bảo Sát rất thâm sâu. Chính tay sư huynh đã biên tập sách Trúc Lâm Đại Sĩ Thực Lục nhưng ông không ký tên tác giả. Sách này nói về cuộc đời và sự nghiệp hành đạo của Thượng hoàng. Ông đã nhờ thiền sư Huyền Quang duyệt lại bản thảo trước khi cho khắc bản. Những điều thiền sư Bảo Sát kể lại đều được ghi chép trở lại trong sách. Mới vừa hôm qua, Hương Tràng được đọc lại đoạn ấy và lần này bà đã trục nhận được tình sư đệ thâm sâu giữa hai thầy trò Trúc Lâm và Bảo Sát. “Khi thiền sư Mã Tổ bệnh, viện chủ hỏi ngài cảm thấy trong người thế nào? Mã Tổ đáp Ngày đối diện Phật, đêm đối diện Phật”. Nào phải là sư hynh không hiểu được điều đó. Sư huynh đem hỏi cốt là để dò xem trong giờ phút sắp nhập diệt, đại sĩ có vững chãi an trú trong chính niệm không. Đại sĩ biết ý mới mắng sư huynh: “Ngươi nghĩ Ngũ Đế Tam Hoàng là vật gì?”. Có ý nói rằng nhà ngươi coi thường ta quá. Bảo Sát đã mừng, nhưng muốn cho chắc ý hơn nữa nên hỏi thêm câu “tre Nam gỗ bắc…” Đại sĩ bảo: “Mù mắt ngươi đi” – Ngài có ý nói rằng pháp thể chân như vẫn hiện tiền mầu nhiệm trước mắt ngài, và người đệ tử thân yêu đừng có nên trêu ghẹo…
Trong một thời gian, Hương Tràng đã cảm thấy rất cơ đơn, nhất là sau khi bà nghe tin về cuộc viễn chinh của quân Đại Việt trên đất Chiêm Thành. Nền hòa bình mà đại sĩ đã xây dựng lên bằng cả tâm não của ngài và trong đó Hương Tràng đã đóng góp bằng cả cuộc đời mình, nền hòa bình đó ngắn ngủi và mong manh quá. Chỉ ba năm sau ngày Thượng hoàng băng, người ta đã gây lại cảnh binh đao giữa hai nước, đi ngược với ý chí của vị lãnh đạo tinh thần của cả nước. Ba năm đủ để xong thời kỳ tang chế. Cả hai người anh ruột của bà, vua Anh Tông và Huệ Võ Vương, đều có mặt trong cuộc viễn chinh. Không biết họ có nghĩ đến Thượng hoàng mà không làm theo được ý nguyện của ngài, trông cậy gì đến kẻ khác. Theo những điều bà đã được nghe thì chính vua Anh Tông cầm một đạo quân đi đường đồng bằng, còn anh Quốc Chẩn cầm một đạo quân đi đường núi. Thủy quân thì do tướng Trần Khánh Dư điều khiển. Cuộc xâm lăng này đã được chuẩn bị trước đó khá lâu, và viên trại chủ Câu Chiêm của nước Chiêm Thành đã hứa làm nội ứng. Vua Chế Chí tin lời vua Đại Việt đi thuyền từ Vijaya đến trại Câu Chiêm để làm lễ thần phục, mong mua lấy hòa bình. Ai ngờ đến nơi thì bị bắt. Quân Đại Việt đưa em của vua Chàm là Chế Năng lên coi việc nước và thiết lập nền đô hộ trên nước Chiêm Thành. Vua Chế Chí được áp giải về Thăng Long rồi đưa đi giam lỏng ở hành cung Gia Lâm. Để làm dịu bớt nỗi hận thù của người Chàm, vua Anh Tông ban cho vị vua cũ của Chiêm Thành tước hiệu là Hiệu Trung Vương. Một ông vua bị tù đày như thế thì cần gì tước hiệu? Hương Tràng biết rõ con người của vua Chế Chí. Hồi còn ở Chiêm, bà nhận thấy Chế Chí là một người con trai đôn hậu hiền lành. Chế Chí không có tài vũ dũng của cha nhưng lại có tình nghĩa. Trong con người có lưu chảy dòng máu Qua Oa, bởi hoàng hậu trước của vua Chế Mân là người xứ này. Biết vua Chế Chí đang bị an trí ở hành cung Gia Lâm nhưng Hương Tràng không dám đi thăm. Thăm hỏi làm gì, bà có quyền lực gì trong triều đình, một triều đình mà bà cảm thất rất xa lạ? Thăm hỏi chi để thêm chua xót cho cả hai bên. Những gì mà cha con bà xây dựng đã đổ nát tan tành trong giây phút. Hương Tràng nghe nói gần đây vì phẩn uất về việc Chế Chí bị tù đày trên đất Việt, dân Chàm đã nổi lên đánh phá ở miền biên giới. Mộng ước hòa bình giữa hai nước còn đâu?
Từ ngày đi đánh Chiêm về, anh Quốc Chẩn của bà không về núi thăm bà nữa. Có lẽ anh ấy sợ ngượng với bà chăng? Không. Huệ Võ Vương chỉ là thiên lôi, chỉ đâu đánh đó. Anh ấy không có đủ sức để có thể suy tư và hành động độc lập, nhưng còn vua Anh Tông, anh Thuyên của bà đâu có phải là một người thiếu óc phán đoán? Bà nghĩ đên những vị cận thần trong triều như Đoàn Nhữ Hài và Trần Khắc Chung mà thở dài. Nhưng nỗi cô đơn của Hương Tràng đột nhiên tan biến khi bà nghĩ tới những người như su huynh Bảo Sát. Đại sĩ tuy đã viên tịch nhưng công trình của người không phải là đã dứt đoạn. Hình bóng sư huynh Bảo Sát ngồi trên am Tử Tiêu vẫn làm ấm lòng bà… Trong triều ngoài họ còn biết bao nhiêu người thấy được con đường mà đại sĩ đã vạch ra. Hương Tràng nghe nói rằng chính ở chốn triều cung cũng có nhiều người chống đối cuộc viễn chinh Chiêm Thành, trong đó có cả Minh Hiện Vương, con trai út của vua Thái Tông ngày xưa. Tuệ giác và đức hiếu của đại sĩ, nghĩ cho kỹ, vẫn còn được tiếp nối ở mọi nẻo đường.
Hương Tràng tự dưng chú ý đến hơi thở của mình. Bà cảm thấy bà thở cho bà mà cũng thở cho Trúc Lâm đại sĩ. Thì ra trên núi Hổ Sơn từ lâu nay không lúc nào mà bà không thở những hơi thở của pháp thân đại sĩ. Bà biết trên đất nước này còn có nhiều người như bà, khắp nơi, đang nối tiếp con đường giác ngộ của đại sĩ. Chú Pháp Đăng hiện giờ ở đâu không biết, nhưng chắc chú cũng đang như bà, đang thở một nhịp với vị sơn tăng trên núi Yên Tử. Năm nay chú đã mười bảy hay mười tám tuổi gì đó rồi. Chưa đến tuổi thọ giới tỳ kheo, nhưng chắc chú đã tiến bộ nhiều trên bước đường tu học. Hương Tràng chợt thấy lại hai bàn tay của chú đang vọc nước trên giòng Hồ Khê. Đồng thời bà cũng thấy hiện ra trong trí hình ảnh bàn tay nhỏ xíu của đứa hài nhiều em trai thằng cu Lợi. Hôm mồng mười vừa qua, bà đã xuống núi thăm u thằng cu Lợi và đứa bé, và đã trông thấy hai bàn tay ấy. U thằng Lợi xin bà cho em bé sơ sinh một cái tên. Bà hứa sẽ cho nó một cái tên. Lợi đã cho bà biết là bà Tư có đề nghị đặt cho em nó tên Đa, Lê Văn Đa, nhưng u nó chưa chịu, cứ nằng nặc đòi Ni Sư ban cho một cái tên cho thật đàng hoàng. Cái tên Đa cũng hay đấy chứ. Trong óc của bà Tư, đó là hình ảnh của sự thịnh mầu, giàu có và hạnh phúc. Đa tư, đa tôn, đa phú quý. Trong khi đó cái âm Đa gợi lên trong trí Hương Tràng những hình ảnh khác. Trước hết là hình ảnh thằng bé sinh ra trong lúc chuông trống vang rền chào đón giờ Đản sinh của một người ngày xưa tên Tất Đạt Đa. Rồi đến một hình ảnh khác, hiện thực như núi sông và xa xôi như một tiền kiếp: Đó là hình ảnh của Dayada, con của bà, hiện thời không biết luân lạc nơi nào. Giọt máu ấy, dầu còn hay mất vẫn là chứng tích của tình hữu nghị, lòng thương yêu và ý chí xây dựng hòa bình. Cả hai cái tên đều mang âm vận “đa” trong lòng chữ. Cái cảnh u thằng cu Lợi cho con bú, Hương Tràng đã chứng kiến cách đây mươi hôm, nhưng sáng hôm nay đi trên con đường xuống núi này với người sư muội, bà mới thực sự trông thấy. Hình ảnh bàn tay nhỏ xíu của đứa bé đang bám chặt vào vú mẹ làm cho Hương Tràng thấy rõ mặt mũi của vạn hữu trong liên hệ duyên sinh. Đức Phật Đản sinh năm xưa ở thành Ca Tỳ La cũng là em bé giờ đây đang áp đầu vào vú mẹ. Hình bóng Dayada xa xôi bỗng nhiên cũng trở về đồng nhất với đứa bé. Hương Tràng có cảm giác chính mình, ngay trong giờ phút này, đang đưa ngực mình cho em bé bú. Bà thấy bà và u thằng Lợi là một. Bà thấy người đang đi trên núi và người đang cho con bú là một. U thằng Lợi đang cho em bé bú, nhưng người Ni Sư cảm thấy như sữa đang chảy từ ngực mình. Bao nhiêu ý thức phân biệt giữa quyền quý và bần hàn, giữa quá khứ và hiện tại, giữa phương Bắc và phương Nam đột nhiên tan biến như sương sớm dưới anh mặt trời. Cảnh tượng u thằng cu Lợi vạch yếm cho con bú đã trở về và giúp cho người sư nữ thoát nhiên siêu việt được cái hố thẳm sinh tử. Hương Tràng nhu một con chim vừa tung rách được chiếc lưới thời gian, bay thoát lên không gian tự do.
Hương Tràng vẫn đi những bước chậm rãi bên cạnh người sư muội trẻ tuổi. Chắc hẳn Hương Nghiêm không thấy được ánh hào quang vừa lóe sáng trong tâm người sư tỷ. Hương Nghiêm vừa hỏi Hương Tràng câu hỏi về nội dung buổi công phu khuya. Hương Tràng chưa kịp trả lời. Thời gian hình như không còn hiện hữu đối với bà. Bà muốn chia xẻ niềm vui và cái thấy mà mình vừa đạt được với người em đồng đạo, nhưng bà bỗng nhận thấy rằng Ni Sư Hương Nghiêm còn trẻ quá. Hương Nghiêm là một cô gái thông minh và có căn cơ linh lợi, nhưng cô vẫn còn là một đứa em gái ưa được nuông chiều. Từ hai năm nay, Hương Nghiêm nuôi mộng ước là được đi viếng núi Yên Tử với Hương Tràng. Cô đã nghe vị sư tỷ kể lại chuyện du hành của bà cùng với Trúc Lâm đại sĩ và sư bá Bảo Sát trên những ngọn núi danh tiếng kia, và ước ao được lên viếng núi trong một hoàn cảnh tương tự. Đại sĩ tịch rồi, chú Pháp Đăng không biết hiện giờ đang tu học ở đâu, nhưng được đi núi với Hương Tràng và được Hương Tràng hướng dẫn trong khi thăm viếng từng am tranh, từng dòng suối và từng tảng đá trên ấy, đó thật là chuyến du hành mà cô mong ước. Cô đã có nhiều dịp để đi lên núi hành hương, nhưng cô đã không đi bởi vì cô chỉ muốn lên núi theo điều kiện mà lòng cô đòi hỏi, cô nghĩ chỉ khi đi với Hương Tràng cô mới có hy vọng tìm thấy khung cảnh ngày xưa. Hương Tràng thì lại không muốn đặt chân lên núi Yên Tử nữa. Bà đã từng có cảm tưởng rằng không có Trúc Lâm đại sĩ trên đó thì Yên Tử không còn là Yên Tử của bà. Nhất là khi bà nghe nói hiện giờ trên ấy chùa tháp đã được tạo lập nhiều nơi và tiền của đã đổ ra để cho cung vàng điện ngọc được dựng lên khắp chốn. Bà biết rằng am Ngọa Vân ngày nay không còn nữa và trên nền am người ta đã xây tháp Huệ Quang để thờ xá lợi của đại sĩ. Cạnh đấy, người ta đã xây dựng lên một ngôi chùa lấy tên là chùa Vân Yên. Am Long Động cũng đã được xây thành chùa và vì mỗi năm có tới hàng mấy trăm vị tăng sĩ ghi tên nhập hạ cho nên người ta đã xây cất chùa chiền và tăng xá trên núi rất nhiều. Không muốn làm đổ vỡ núi Yên Tử linh thiêng trong tâm mình, Hương Tràng đã từ bao nhiêu năm nay không chịu đặt chân lên núi, và cũng vì vậy, bà vẫn chưa chìu theo được ý muốn của pháp muội mình. Nếu Hương Tràng chưa từ chối hẳn việc này, đó cũng là vì bà còn ái ngại và không muốn làm cho người em đồng sư thất vọng.
Nhưng cái thấy hôm nay chợt đến trong tâm bà đã khiến cho bà mở rộng tầm kiến thức. Tất cả những cội cây và hạt sỏi trên núi Hổ Sơn này đối với bà đã trở nên mầu nhiệm và mang hình ảnh thiêng liêng của Yên Tử ngày ấy. Đại sĩ không những có mặt ở Yên Tử ngày xưa mà còn có mặt ở Hổ Sơn hôm nay. Dayada còn đó, là vì thằng Lê Văn Đa còn đó, Tất Đạt Đa còn đó cũng vì thằng Lê Văn Đa còn đó. “Cái này có vì cái kia có, cái này sinh vì cái kia sinh”. Bà chăm sóc cho thằng Đa tức là đồng thời chăm sóc cho Dayada mà cũng là săn sóc cho Đức Phật sơ sinh. Hơi thở của Đa là hơi thở của chính đại sĩ, và bên cạnh bà, người sư muội tên Hương Nghiêm cũng đang thở những hơi thở của đại sĩ. Hương Tràng bỗng nhiên thấy mình có khuynh hướng muốn cưng chiều người sư muội. Bà thấy thái độ ngày xưa của mình là hẹp hòi. Hình ảnh thiêng liêng của núi Yên Tử trong lòng bà không thể nào sụp đổ. Hình ảnh đó bất diệt như pháp thân của đại sĩ. Bà có đức tin rằng dù bây giờ chùa tháp đã dựng lên khắp núi và dù người viếng núi có đông đúc đến chừng nào đi nữa, bà vẫn có thể tìm lại Yên Tử Sơn của ngày xưa và vẫn có thể đưa người sư muội của bà vào thẳng thế giới tâm linh cao khiết của người đại sĩ am Ngọa Vân ngày trước.
Hương Tràng lên tiếng:
– Tháng tám này, khi mùa an cư đã mãn và núi Yên Tử đã bớt người, chị sẽ đưa em về thăm núi.
Ni Sư Hương Nghiêm ngẩn ngơ. Cô không hiểu vì sao mình vừa hỏi một câu hỏi về buôi công phu sáng mà lại được Ni Sư Hương Tràng trả lời một câu về chuyến du hành núi Yên Tử. Nhưng vì không có thì giờ để thắc mắc lâu. Cô chỉ thấy lòng cô tràn đầy niềm hân hoan sung sướng. Chị Hương Tràng đã thương cô, đã chiều cô. Điều ấy là điều quan trọng nhất. Trong khi đó, Hương Tràng nghĩ đến những đám mây la cà trên đỉnh Ngọa Vân. Xung quanh cái am tranh đó, mỗi chiều, có nhiều đám mây tụ họp lại và bao phủ lấy am. Mây về am để ngủ. Nhưng người trong am không ngủ. Người trong am đang ngồi thiền định. Tuy đất trời và non sông còn chìm trong bóng tối, người ngồi trong am vẫn trông thấy những gì đang xảy ra ở kinh đô, ở biên giới miền Bắc, ở biên giới miền Tây và ở biên giới miền Nam. Người ngồi trong am đang lấy hào quang định lực của mình mà quán chiếu trong và ngoài, trên và dưới. Ở Ngọa Vân am, mây ngủ nhưng người còn thức. Hương Tràng cảm thấy tâm hồn rung động. Bà nghĩ có thể đặt tên cho em thằng cu Lợi là Thức.