Thời gian như ngừng trôi. Nhiều phút đồng hồ liên tiếp, không một ai nhúc nhích, không một ai dám thở. Bob thậm chí có cảm giác là cả tim cậu cũng đứng lại.
Thế rồi Elouise Adams ngã nghiêng ra khỏi ghế.
– Bà Adams!
Ngay tức thì, hai người bạn gái và ba thám tử vây quanh người đàn bà.
– Khiêng cô ấy sang bên kia! – tiến sĩ Jones ra lệnh và họ cùng nhau khiêng bà Adams lên chiếc sofa màu đỏ. Tiến sĩ Jones độn tất cả những chiếc gối tìm được trong phòng xuống dưới chân người bất tỉnh.
– Mở cửa sổ ra!
Peter vội vàng tuân lệnh. Khi một làn gió mát mẻ thổi qua phòng khách, bà bác sĩ đếm mạch cho bà Adams. Nét mặt người đàn bà tội nghiệp trắng như vôi.
Tiến sĩ Jones lo âu lắc đầu.
– Không hay chút nào. Mạch rất yếu. Bernadette, ta cần gọi xe cứu thương!
– Nhưng mà Cecilia, chẳng lẽ em cho rằng…
– Em là bác sĩ, Bernadette! Gọi xe cứu thương!
Khi xe cứu thương tới nơi thì bà Adams đã tỉnh trở lại, nhưng chưa đủ sức ngồi dậy. Tiến sĩ Jones và những người hộ lý đều thống nhất là phải đưa bà vào bệnh viện và quan sát ở đó qua đêm. Bà Adams đồng ý – rõ ràng là bà chẳng thích gì hơn ngoài việc thật nhanh chóng rời bỏ ngôi nhà này. Bà O Donnell quyết định đi cùng để chăm sóc cho bạn mình và cả ba người bạn gái rời nhà.
Thế là ba thám tử có vài phút tự do.
– Tội nghiệp bà Adams! – Bob nói. – Đã có lúc mình thoáng nghĩ là bà ấy bị đau tim đột ngột. Có lẽ nên nói cho bà ấy sự thật thì hay hơn. Nếu bà ấy biết cô Mathilda không phải là cô đồng thì chắc bà ấy không xúc động mạnh đến thế.
– Thế sao? – Justus nói. – Nhưng hôm nay cô Mathilda đâu có mặt ở đây, chả lẽ cậu không nhớ sao, và mặc dù vậy cuộc cầu hồn vẫn thành công cực kỳ. Cậu cứ tin mình đi, có nói ra cũng chẳng trấn an cho bà Adams chút nào đâu.
– Ừ thì, có thể cậu có lý.
– Đối với bọn mình, nó là một thành công, – Peter vừa nói vừa cười cái cười của người chiến thắng. – Mình đã quan sát rất chăm chú chuyển động của chiếc cốc. Và bây giờ thì mình biết ai là người đã đẩy nó đi!
– Cụ thể là ai? – Justus căng thẳng hỏi.
– Tiến sĩ Jones, – Peter nói thầm, mắt liếc ra phía cửa.
– Nếu người ta nhìn thật kỹ, người ta có thể nhận thấy là chiếc cốc chuyển động theo cánh tay của bà ấy chứ không phải ngược lại.
– Thật sao? – Justus hỏi vẻ thất vọng. – Ừ thì, mình cũng đâu có ngủ gật. Nhưng kết quả quan sát của mình lại hoàn toàn khác: nếu các cậu hỏi thật, thì mình cũng nói thật, rõ ràng là bà O Donnell!
Bob bối rối nhìn từ người này sang người kia. Cậu ngượng ngùng hắng giọng.
– Mình không muốn khiến các cậu thất vọng, và mình biết, nghe cũng có vẻ kỳ quặc: Nhưng mình lại nghĩ bà Adams! Ngón tay của bà ấy lúc nào cũng hơi cong cong một chút rồi kéo và đẩy, mình đã nhìn rất kỹ!
– Cậu không nói đùa đấy chứ! – Justus và Peter đồng thanh buột kêu lên.
– Mình nói thật.
– Tuyệt quá. vậy là mỗi đứa trong bọn mình nhìn thấy một điều khác.
– Và dĩ nhiên là cậu tin rằng, chỉ riêng kết qủa quan sát của cậu là đúng, – Peter đoán.
– Không. Mình tin rằng, việc điều tra trong một vụ như thế này phức tạp hơn là thoạt đầu mình đã tưởng. Sáu ngón tay trên một chiếc cốc, những lực đẩy và kéo rất nhỏ từ những hướng khác nhau – tất cả những điều đó dẫn tới chuyện kể cả khi chúng ta quan sát kỹ lưỡng nhất, hoặc không thể đưa ra một lời phỏng đoán chắc chắn nào. Theo cách này ta không tiến được nữa đâu. Ngoài ra, các cậu có nghe hay nhìn thấy điều gì lạ hay không?
Bob và Peter cùng lắc đầu.
– Đáng tiếc là mình cũng không, – Justus cáu kỉnh nói.
– Mà vị khách bí hiểm của chúng ta cũng không xuất hiện lần thứ hai. Điều đó có nghĩa là bọn ta phải bắt đầu lại từ đầu.
– Thế bây giờ ta làm gì, – Peter hỏi.
– Ta quan tâm đến chuyện mà có vẻ như đang được hồn ma của Dora quan tâm tới: Cái chết của bà ấy.
Chính lúc đó, tiến sĩ Jones quay trở lại.
– Cái bà Willow này thật khủng khiếp!
– Có phải ý cô muốn nói đến bà hàng xóm? – Justus hỏi.
– Đúng. Dĩ nhiên bà ấy đã ngay lập tức biết được là có một xe cứu thương đến đứng trước cửa nhà, và bà ấy đứng im mà nhìn như thể đây là chuyện sống còn của bà ấy. Đúng là một con người không thể chịu đựng nổi! – kiệt sức, tiến sĩ Jones ngồi vào ghế sofa, hai bờ vai trĩu xuống. Thế rồi bà bác sĩ nhìn bộ ba thám tử bằng vẻ lo lắng.
– Tội nghiệp Elouise! Có lẽ chúng ta không nên bắt cô ấy phải chịu đựng tất cả những chuyện đó.
– Đúng, – Justus nói. – Có lẽ thế.
– Tôi phải thú nhận điều này, mặc dầu tôi không yếu ớt như Elouise, nhưng thông diệp của Dora khiến tôi sốc nặng. Cô ấy bị giết! Trong ngôi nhà này! Trời đất ạ! Tôi không biết liệu đêm nay tôi có ngủ nổi hay không. Chắc tôi phải quay trở về với căn hộ cũ của mình. Ít nhất là trong khoảng thời gian cho tới khi hai người kia quay trở lại đây.
– Vậy là cô cũng tin vào thông điệp đó? – Câu hỏi cất lên, nghe như thể một lời khẳng định thì đúng hơn.
– Tại sao tôi lại phải nghi ngờ lời của Dora mới được chứ?
– Thôi được rồi, – Justus dàn hoà. – Ta cứ đặt trường hợp là người thiết lập liên lạc với chúng ta thật sự là cô Dora. Thế thì ai có thể giết cô ấy? Và tại sao? Và như thế nào?
– Làm sao mà tôi biết được?
– Chẳng phải cô đã nói rằng cô ấy gặp tai nạn.
– Qủa là như thế, – tiến sĩ Jones khẳng định. – Cô ấy đã ngã cầu thang. Nhưng những gì có vẻ ngoài của một vụ tai nạn, rất có thể là một vụ giết người – chỉ cần xem phim trên ti-vi là đủ biết.
– Cô có thể kể kỹ hơn cho bọn tôi nghe không? – Justus yêu cầu. – Ai đã tìm thấy cô ấy?
– Đó là bà giúp việc. Bà ấy có chìa khoá, một buổi chiều nọ bà ấy vào nhà và nhìn thấy cô bé Dora tội nghiệp nằm dưới chân cầu thang. Bà ấy ngay lập tức gọi điện cho bác sĩ cứu thương, nhưng lúc họ đến thì đã muộn rồi. Bác sĩ chỉ còn biết viết giấy khai tử mà thôi.
– Cô Dora có kẻ thù không?
– Kẻ thù hả? – tiến sĩ Jones nhắc lại, giọng như không thể tin nổi vào tai mình.
– Dora Masstratonio là một ngôi sao Ô-pê-ra tài năng! Cô ấy có biết bao nhiêu người hâm mộ, bao nhiều người say mê, làm sao có thể có kẻ thù!
– Có thể ai đó ghen ghét với thành công của cô ấy, – Bob đề nghị.
Nhưng tiến sĩ Jones qủa quyết lắc đầu.
– Không, tôi không hề biết tới chuyện đó. Nhưng rất có thể các cậu nên hỏi cô Elouise. Elouise thân với Dora hơn cả tôi nhiều.
Justus gật đầu.
– Chúng tôi sẽ làm điều đó, chừng nào cô ấy khỏe lại.
– Nhưng các cậu này, nghe các cậu hỏi tôi như người ta hỏi cung vậy. Chả lẽ các cậu định điều tra vụ này chắc?
– Vâng thì, vì chúng tôi đã không thể hoàn thành nhiệm vụ mà cô O Donnell đưa ra, nên cũng dễ hiểu thôi, nếu bây giờ chúng tôi quan tâm đến chuyện của cô Dora, đúng không nào?
– Chuyện của Dora ư?
– Nếu qủa thật là cô Masstratonio đã bị giết chết, thì chắc chắn cô ấy cũng muốn tôi giải thích vụ án này.
– Nói như thế thì qủa các cậu có lý.
Phải một lúc sau, Peter mới hiểu ra điều này có nghĩa là gì. Mãi rồi cậu mới cất lên thành lời, cậu vẫn chưa tin chắc liệu đám tóc sau gáy của cậu đang dựng đứng lên vì sợ hãi, hay qủa thật câu chuyện này kỳ quặc tới mức khiến người ta phải nổi da gà.
– Khoan đã nào, Justus. Chẳng lẽ điều đó có nghĩa là chúng ta phải điều tra từ bây giờ theo mệnh lệnh của một hồn ma?
Thám tử trưởng cười.
– Chính xác là như thế, Peter.
– Như thế thì… như thế thì điên quá!
– Đúng là rất điên, – Justus công nhận thẳng. – Nói một cách khác: Nó rất hợp với khẩu vị của mình.
Darren Higman sống trong một ngôi nhà nhỏ được quét sơn màu hồng nhạt bên một con phố tấp nập xe cộ tại Santa Monica. Biển và bến cảng ở gần đó, đủ gần để đưa lại tiếng sóng rầm rì và tiếng nổ của mô-tơ. Bob khoá xe đạp vào một cột đèn đường và dừng lại một thoáng, tận hưởng ánh nắng mặt trời và làn không khí trong lành.
Vào buổi tối hôm trước, sau khi bộ ba thám tử đã rời toà biệt thự của ngôi sao Ô-pê-ra Mastratonio, Justus đã trao nhiệm vụ cho Thám tử Thứ Ba tìm ra tất cả những thông tin cần thiết vế Dora Mastratonio. Bình thường ra, Bob thực hiện nhiệm vụ này tại thư viện, hoặc trong phòng lưu trữ báo chí, nhưng nếu một khi câu chuyện xoay quanh chủ đề âm nhạc thì cậu có một nguồn thông tin tốt hơn nhiều: Jelena Charkova, cô con gái của ngài giáo sư âm nhạc người Nga và là bạn gái của Thám tử Thứ Ba. Cậu đã gọi điện cho cô, trình bày vấn đề của mình. Ngay lập tức cô nhớ ra một người có thể giúp Bob: Darren Higman, người bạn của gia đình Charkova và ngoài ra còn là một người rất đam mê Ô-pê-ra. Jelena qủa quyết có thể coi Darren Higman là một chuyên gia thực thụ về Mastratonio, và thế là sau giờ học Bob đã ngay lập tức lên đường về phía Santa Monica, đến thăm ông Higman.
Cậu đi về phía cửa nhà và bấm chuông. Chỉ một chút sau, có tiếng bước chân vang lên và cánh cửa được mở ra. Đối diện với Bob là một người đàn ông cao lớn, tóc đen, khoảng 30 tuổi, người đàn ông đang nhìn cậu từ hai con mắt sáng màu đến kỳ lạ – nói đúng hơn, có vẻ như anh ta đang chăm chú quan sát kiểu tóc trên đầu Bob.
– Xin chào, phải anh là Darren Higman?
– Tôi đây, còn cậu thì chắc phải là Bob. Jelena vừa gọi điện báo trước cho tôi. Mời cậu vào đây! – Darren Higman chìa tay ra, cách bàn tay phải của Bob tới 20cm. Lúc đó thì Bob đột hiểu ra màu mắt đáng chú ý của Darren Higman.
Higman là người mù.
Một người hâm mộ khiếm thị.
Thật nhanh, Bob bắt lấy bàn tay của anh Darren Higman, không để cho anh nhận thấy sự ngạc nhiên của cậu.
– Cám ơn rất nhiều vì anh đã dành thời gian cho em.
– Có gì đâu. Tôi làm việc ở nhà, tại phòng âm thanh của riêng tôi. Cậu biết không! Có một vụ việc nhỏ, khác lạ nào đó nhưng thú vị rứt tôi ra khỏi công việc một lúc là chuyện mà tôi rất thích.
– Anh mỉm cười thân thiện và mời Bob vào nhà.
Ngôi nhà của Darren Higman được thiết kế nội thất rất đơn giản, thoạt đầu có thể gây ấn tưọng lạnh lùng. Thế nhưng Bob hiểu ra, ấn tượng này xuất hiện bởi cậu không thấy được một chỗ nào có vật trang trí. Dĩ nhiên ở trên tường không thể có hình, có tranh, và sự kết hợp màu sắc của tường, của bàn ghế và thảm trải có những chỗ rất táo bạo. Mặc dù vậy ngôi nhà của Darren Higman hoàn toàn không nhàm chán chút nào. Hầu như bên mảng tường nào cũng có để một kệ đựng đĩa CD – và tất cả đều đầy ắp. Thật khó mà ước tính nổi, nhưng ít nhất trong ngôi nhà này cũng phải tới cả mười ngàn đĩa CD, thêm vào đó là một vài ngàn đĩa nhựa cũ nữa.
– Ai cha! Bob ngạc nhiên thốt lên, dù bản thân cậu cũng là một người hâm mộ âm nhạc hết cỡ. – Tất cả đĩa này là của anh?
– Đúng. Tôi sống bằng âm nhạc. Và bằng tiếng động. Tôi làm việc cho nhiều xưởng phim khác nhau, trong ngành trộn âm thanh, bản thân tôi cũng làm công việc phối âm, và chỉnh sửa các núm vặn cho tới khi chuỗi âm thanh hoàn hảo. Ngoài ra, tôi còn viết nhạc cho những đoạn quảng cáo và viết các bài phê bình đĩa hát.
– Tuyệt quá đi, – Bob nói và đồng thời tự hỏi mình, làm sao mà Darren Higman có thể tìm ra được đúng chiếc đĩa CD anh đang cần tới khi mà anh không nhìn thấy chúng. Nhưng cậu không dám đặt câu hỏi này thành lời.
Như người mộng du nhưng không có một bước chân chuệch choạc, Higman dẫn Bob đi vào một hỗn hợp của phòng khách và phòng thu âm. Một dàn nhạc đầy ấn tượng bao gồm các bàn trộn âm thanh, các máy ghi âm, máy tính, máy hát loa và ampli, chiếm toàn bộ một mảng tường. Cả ở đây, Bob cũng thật sự không hiểu làm sao mà anh Higman có thể chuyển động được trong một rừng hỗn độn không biết bao nhiêu công tắc, nút điều chỉnh và dây cáp.
– Dora Mastratonio. – Darren Higman bắt đầu câu chuyện sau khi họ đã ngồi xuống. Anh nói tên nữ ca sĩ bằng vẻ ngưỡng mộ thống thiết. – Một nữ nghệ sĩ tài năng, rất đáng tiếc đã rời bỏ chúng ta quá sớm. Tôi xin cam đoan với cậu rằng, tôi có thể kể cho cậu nghe hầu như tất cả về con đường phát triển âm nhạc của cô ấy. Cậu chỉ cần nói cho tôi biết cậu muốn nghe điều gì.
– Em cũng không chắc là liệu em có thật sự quan tâm đến con đường danh vọng của cô ấy hay không, – Bob thú nhận.
– Thế sao? – Vẻ thất vọng lộ rõ trên nét mặt Higman. – Vậy thì cậu muốn biết gì?
Bob không biết cần phải nói với người đàn ông này như thế nào. Bản thân cậu đâu cũng hiểu cậu đang phải tìm điều gì.
– Có lẽ chút ít về cuộc sống riêng tư của cô ấy. Bạn bè của cô ấy. Và kẻ thù.
– Kể cả bạn bè lẫn kẻ thù cô ấy đều có đủ, như bất kỳ ngôi sao nào khác. Câu hỏi là, ai là những bạn bè thật sự. Rất nhiều người đã bám víu và hưởng ké danh tiếng của cô ấy, nhưng rất ít trong số họ thật sự quan tâm đến con người đó. Cô ấy đã phải nếm trải rất nhiều thất vọng trong đời mình, nhất là vào giai đoạn cô ấy bắt đầu nổi tiếng, khi cứ liên tục hết người này đến người kia, những kẻ tự xưng là bạn bè, lộ rõ ra là những kẻ ăn bám chỉ muốn lợi dụng. Cô ấy đã có một thời gian rất cay đắng về chuyện này. Nhưng rồi dần theo năm tháng, con người cô ấy trở nên cứng rắn hơn. Có lẽ quá cứng rắn. Rồi đến lượt cô ấy sử dụng những người bạn bè giả dối kia, để chỉ cho họ biết là cô ấy không cho phép họ muốn làm gì với mình thì làm. Cô ấy trở thành tự kỷ hơn và nhẫn tâm hơn. Rồi nhiều người nói rằng, danh tiếng đã làm cô ấy hư hỏng.
– Sau cái chết của người chồng, cô ấy có rất nhiều mối tình, nhưng lần lượt người tình nào cũng bị cô ấy nhanh chóng buông rơi. Thứ cô ấy thật sự quan tâm bao giờ cũng chỉ là sự tiến bộ trong nghề nghiệp, là quan hệ, và kể cả niềm vui, nhưng chẳng bao giờ là tình yêu thật sự. Trong nhưng năm cuối cùng, khoảng thời gian mà cô ấy ít biểu diễn hơn, người ta đồn cô ấy là một người tình hấp dẫn nhưng nguy hiểm, một chuyên gia hút hồn phái mạnh. Đám đàn ông hầu như đứng xếp hàng trước cửa nhà cô ấy, một phần vì nhan sắc của cô ca sĩ khiến người ta điên đảo, nhưng đáng tiếc, chính bản thân anh không thể nhận xét gì về điều này.
Darren Higman cười nhẹ.
– Dora Mastratonio ít nhất cũng ưa thích cái vai trò người quyến rũ đàn ông. Và nhất là, chuyện này hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến sự nổi danh của cố ấy. Những tờ báo lá cải yêu mến cô ấy chính vì kiểu sống phóng khoáng đó và thế là cho dù những thành công âm nhạc lớn nhất đã qua đi rất nhiều năm sau Dora vẫn còn là một ngôi sao lớn – cho đến tận ngày cô ấy qua đời một cách thảm thương.
Bob gật đầu. Chầm chậm, cái tên Dora Mastratonio trở thành một con người bằng xương bằng thịt trong đầu cậu.
– Thế các người bạn nữ của cô ấy thì sao?
– Có một số người chơi rất thân với cô ấy. Trong một lần phỏng vấn, Dora Mastratonio đã có lần nói, cô ấy định sống chung với ba người bạn gái khi trở về già. Nhưng người bạn gái tốt nhất mà cô ấy từng có chắc có lẽ là bà Adams.
– Elouise Adams?
– Đúng chính thế! Cô ấy thường đi theo Dora trong những lần biểu diễn, lúc nào cũng cạnh cô ấy. Ngược lại với rất nhiều người khác, cô Adams không bám theo để hưởng ké danh vọng của Dora. Cô Adams rất tận tâm với bạn mình. Một người bạn gái thực thụ. Có lẽ chính vì thế mà cô ấy đã được thừa kế toà biệt thự Mastratonio.
– Anh còn biết điều gì về hai người bạn gái kia không?
– Không. Họ không bao giờ xuất hiện trong công luận. Một người là bác sĩ, tôi tin như thế, và tôi cũng chỉ biết như vậy thôi.
– Ta hãy nói về kẻ thù của Dora, – Bob nói. – Hiện thời anh đang nghĩ đến ai?
– Một số người không nhỏ đâu, – Darren Higman nói ngay lập tức. – Nhưng không một ai đặc biệt. Có rất nhiều người không thể chịu đựng nổi Dora Mastratonio. Những người vợ bị cắm sừng, những người nghĩ cô ấy không xứng đáng với thành công của cô ấy, những người cho vẻ ngoài hào nhoáng của cô Dora là giả tạo và phóng đại, những nữ ca sĩ ghen ghét – danh sách thật sự rất dài, nhưng suy cho cùng thì không có một ai căm thù cô ấy đặc biệt, nếu cậu muốn hỏi tôi ý này.
– Kể cả trong môi trường riêng tư của cô ấy sao?
– Tôi không được biết về một chuyện gì hết. Nhưng tại sao cậu hỏi?
Higman cười khẽ.
– Nghe cứ như thể là Dora Mastratonio bị giết.
Bob rất mừng là anh Higman không nhìn được mắt cậu. Nếu không anh sẽ ngay lập tức đoán ra, nhưng đáng tiếc, cậu không thể nhanh chóng nghĩ ra được một câu trả lời nào. Và sự im lặng của cậu chắc đã đủ là một câu trả lời. Nụ cười của Higman biến đi, nhường chỗ cho vẻ kinh hoàng.
– Cậu không nghĩ thật đấy chứ, đúng không? Jelena có kể với tôi cậu là thám tử. Và cậu cùng bạn bè của cậu đang điều tra cho một vụ nào đó. Chẳng lẽ… Chẳng lẽ muốn nói tới một vụ giết người!
– Em… bọn em chưa biết, – cuối cùng Bob cũng cất lên lời.
– Cô ấy bị giết sao?
– Em nói rồi, bọn em vẫn chưa biết! – Bob nhắc lại, nhấn mạnh từng lời. Bọn em mới bắt đầu điều tra. Em tin rằng, giờ em phải đi rồi, anh Higman.
Darren Higman rõ ràng vẫn đang bị chấn động mạnh.
– Nếu chuyện đó là thật…
– Chẳng có gì là thật cả, anh Higman, anh tin em đi.
– Nếu cậu cần những thông tin khác, cậu cứ đến tìm tôi! – Darren Higman qủa quyết bảo đảm.
– Cám ơn anh. Em sẽ quay trở lại.
– Bob vội vàng rời nhà Darren Higman.
Trong thời gian Bob ở Santa Monica, Justus lại thêm một lần nữa lên đường về Malibu. Lần này không phải vì cô O Donnell, cô Adams, hay tiến sĩ Jones, mà vì người hàng xóm của họ, cặp vợ chồng nhà Willow. Tiến sĩ Jones đã nhắc cho cậu nghĩ tới điều này, khi bà tỏ ý bực dọc về tính tò mò của bà Willow.
Kinh ngiệm cho Justus biết rằng những người hàng xóm tò mò thường là nguồn thông tin thượng hạng – và đây chính là thứ mà Thám tử trưởng đang cần đến.
Giờ thì cậu đứng trong khoảng vườn của nhà Willow và đưa mắt nhìn quanh.
– Này cậu kia, tôi không tin là cậu có việc gì phải làm ở đây đâu.
Justus giật mình và xoay người lại. Đằng sau cậu là bà Willow, tay cầm lăm lăm một cái kéo làm vườn khổng lồ. Trong một thoáng, Thám tử trưởng đã e ngại là người đàn bà sắp tấn công cậu bằng cái kéo này, trông bà ta thù địch đến phát sợ.
– Đúng là cô có lý, thưa cô. Tôi rất tiếc. Tôi không định đột nhập vào đây mà không xin phép.
– Thế thì tại sao cậu ở đây?
– Tôi đang đi tìm cô, cô Willow?
– Tôi đây.
– Bà ta bước lại gần và nheo nhỏ mắt lại thành một vết mỏng dính. Bà ta mặc một cái tạp dề bẩn thỉu, hai bàn tay lem nhem đầy đất và mái tóc bạc được buộc gọn bằng một mảnh khăn vuông.
Đằng sau bà, ở góc bên kia của khoảng vườn là một người đàn ông bụng phệ đầu hói đang loay hoay cọ rửa dụng cụ làm vườn và xếp chúng vào một túp lều nhỏ làm bằng gỗ. Ông ta đứng sát bên đoạn hàng rào ngăn với khuôn viên toà biệt thự Mastratonio. Người đàn ông nhìn sang phía này, nhưng khi chạm phải ánh mắt của Justus. Ông ta lại hoảng hốt cúi xuống với công việc của mình.
– Tôi đâu có lạ gì cậu! Cậu là một trong ba thằng tiểu quỷ đã rình mò phía vườn bên kia tối hôm qua!
– Tôi là một trong ba thiếu niên tối hôm qua đã có điều tra chút ít ở khoảng vườn bên đó, – Justus sửa lại.
– Tên tôi là Justus Jonas.
– Điều tra hả? Điều tra cái gì?
– Chúng tôi làm việc theo yêu cầu của cô O Donnell. Chắc là cô biết cô ấy chứ?
– Dĩ nhiên là tôi biết cô ấy! – bà Willow rít lên như một con rắn.
– Một trong mấy kẻ mới đến! Thế bây giờ cậu muốn gì ở tôi hả?
– Vâng, thì, thành thật mà nói… – Justus hạ giọng xuống và cúi sát vào mặt người đối diện, vẻ tin tưởng, âm mưu.
– Tôi thấy ba bà cô bên kia hơi có vẻ kỳ quặc. Tôi đã hy vọng là cô có thể kể cho tôi nghe vài điều.
Bà Willow thâm độc cười khẩy.
– Kỳ quặc hả, đúng thế không? Đúng thế, chắc chắn là kỳ quặc rồi. Có đến ba người đàn bà sống chung trong một mái nhà, chỉ có thể dẫn đến chuyện kỳ cục mà thôi! Ai cha, tôi có thể viết tới tận ba cuốn sách về chuyện này!
– Cô thấy đấy, chính tôi cũng đã nghĩ như thế. Vì thế mà hôm nay tôi đến tìm cô.
Bà Willow trắng trợn nhìn cậu từ đầu xuống chân một lần nữa. Justus có thể đọc qua nét mặt của người đàn bà giống như người ta đọc trong một cuốn sách.
Bà ta không biết phải đánh giá cậu ra sao. Thế nhưng dần dần, cái sự thúc bách được ngồi lê đôi mách về những người hàng xóm của bà và thậm chí là có thể còn được biết thêm một vài thông tin mới mẻ, cứ mỗi lúc một mạnh hơn, một mạnh lên, và cuốn phăng đi cả những nghi ngờ cuối cùng.
– Thôi được, – cuối cùng bà ta nói và chùi tay vào tạp dề.
– Ta đi vào nhà. Ở đó không bị ai làm phiền.
– Thế rồi bà xoay người lại và thét lên:
– Jones!
Người đàn ông bên chiếc lều gỗ giật nảy mình lên.
– Sao em lại thét lên như thế!
– Suốt cả ngày hôm nay anh cứ chuyển dụng cụ từ góc này sang góc khác! Để ý đến hàng rào một chút đi, thay vì cứ loay hoay trong cái lều của anh! Em có khách đây! – không thèm chờ nghe câu trả lời, người đàn bà buông rơi cái kéo làm vườn và dẫn Justus vào trong.