Đến gần hai giờ sáng Ning mới về nhà. Tiếng người nói líu ríu huyên náo và tiếng động cơ ô tô đã dần lắng xuống, con phố lớn ngoài kia dã yên tĩnh trở lại, vậy mà tôi vẫn chưa nghe thấy tiếng chìa khóa lách cách trong ổ và tiếng kéo cửa tầng trệt rin rít.
Tôi rời bức tranh đang vẽ dở và đứng dậy đi ra cửa, xuống tầng. Dưới ánh đèn đêm, đám bàn ghế trống là những hình thù lờ mờ chìm trong bóng tối, sẵn sàng cho buổi dạ tiệc của quỷ dữ. Gián bò quanh tìm kiếm mẩu vụn thức ăn trong những góc sàn mà cái chổi bỏ quên.
Tôi tới bên cửa chính, tra khóa vào ổ, dỡ thanh chắn bằng sắt xuống và nhòm qua khe cửa. Chẳng có gì ngoài kia dưới ánh đèn đường sáng lóa. Gió thổi vụn giấy trắng bay tản mát trên mặt đường nhựa. Tôi mở cửa bước ra ngoài.
“Ning ơi,” tôi khẽ gọi.
Nó ngồi một góc, cằm tì vào đầu gối, gió quật rối tung mái tóc bông mềm.
“Sao thế?” tôi vừa hỏi vừa bước lại gần nó. Tôi quỳ xuống trước mặt nó và lắc mạnh vai nó.
“Nat…” Nó chậm chạp ngẩng đầu lên. “Em muốn một ngôi sao đêm. Hái cho em một ngôi sao đi, nhé?” Nó chỉ lên bầu trời.
“Vào nhà đi.” Tôi đứng dậy chìa tay chực đỡ nó đứng lên theo.
“Không vào đâu.” Nó lắc đầu quầy quậy. “Cho em một ngôi sao trước đã. Anh từng hái cho em cam thảo dây và hoa đậu biếc, nhớ không?”
“Ning…” Tôi thở dài. “Được rồi, để lát anh hái sao cho em.”
“Hu…ra!” Ning hò reo trước khi níu tay tôi đứng dậy. “Em yêu anh hơn bất kỳ ai trên thế giới này.” Nó ôm chặt tôi. Da nó, hơi thở nó đều phả ra mùi cồn.
“Sao lại uống rượu thế này?” tôi khẽ hỏi.
“Em cô đơn. Em chẳng có ai cả,” nó lầm bầm và dụi đầu vào lòng tôi.
“Vào nhà thôi.” Tôi đưa tay dịu dàng vuốt tóc nó. “Ngoài này lạnh cóng, không khéo lại ốm đấy.”
Tôi chật vật giúp nó leo lên cầu thang. Lúc không ngồi ì ra trên bậc thang ra chiều sẽ không đi thêm bước nào nữa thì nó lại lảm nhảm to đến mức tôi phải lấy tay bịt miệng nó lại.
“Cho em vào phòng anh đã,” khi chúng tôi lên đến tầng hai, nó đòi nằng nặc.
“Được rồi.” Tôi ngán ngẩm gật đầu.
“Em yêu anh lắm, anh trai.” Ning vòng tay ôm eo tôi. “Em yêu anh nhất quả đất.”
Tôi vừa mở của phòng, Ning lập tức lảo đảo đến bên giường và đổ vật xuống mép giường. Tôi nhìn trân trối rồi đi qua chỗ nó nằm, đến bên bàn kéo ghế ra ngồi. “Khát không?” tôi vừa hỏi vừa cầm bút chì lên.
“Anh đang làm gì thế?” Ning rướn người nhìn. “Lại một bức khác hả?”
“Chả có gì đặc biệt cả,” tôi đáp đoạn ném bút xuống bàn rồi nhét bức vẽ xuống dưới một chồng giấy.
“Cho em xem với.” Nó tụt khỏi giường ra chỗ tôi. “Sao lại giấu không cho em xem?”
“Anh không giấu.” Tôi giơ tay ngăn nhưng nó vọt tới lôi được bức vẽ ra.
“Trả lại đây ngay!” Tôi tìm cách giật lại nhưng nó ghì chặt bức vẽ vào lòng và chạy ù về giường.
“Ai đây?” Nó giơ bức vẽ lên nhìn trong khi tôi cố gắng thoát ra khỏi cái ghế đang bị kẹt vào bàn.
“À, em biết rồi!” Nó kêu lên sau khi ngẫm nghĩ một lát. “Là chị Jom, phải không?”
“Trả bức tranh đây.” Tôi bước về phía nó đầy đe dọa.
“Anh trả lời trước đã, phải hay không phải?” Nó nhét bức vẽ xuống dưới gối và ngồi lên.
“Phải,” tôi ngần ngừ thừa nhận. “Giờ đưa ngay đây.”
“Đây…anh cứ giữ lấy, em chẳng thèm,” nó sưng sỉa nói, kéo bức vẽ đã nhàu nát đưa cho tôi.
“Mày là đồ…” Tôi giơ nắm đấm lên, chỉ muốn táng cho nó mấy cú vào đầu.
“Ê!” Nó thè lưỡi ra. “Tranh gì mà xấu kinh!” Nó lăn qua lăn lại trên giường vẻ đầy sung sướng trong khi tôi cố gắng vuốt phẳng bức vẽ trên bàn. “Thế chị Jom về chưa?” nó bất chợt hỏi. “Sao anh không trả lời?” nó làu bàu khi thấy tôi làm lơ.
Chúng tôi im lặng hồi lâu. Một cơn gió lạnh thổi vào qua cửa sổ. Những đóa hồng khô trong chiếc bình trên bàn tôi run rẩy.
“Nat,” Ning khẽ gọi tôi. “Anh yêu chị ấy hả?”
Tôi ngồi im, dán mắt vào bức vẽ trước mặt… “Chị mà có mấy vại tiền, chị sẽ mua một mảnh đất ngay đây và xây một ngôi nhà nhỏ nổi giữa đầm.” Giọng nói của Jom bồng bềnh trôi tới cùng cơn gió. “Ý hay đấy, Jom. Như thế chị có thể tập đàn mà không sợ bị ném gạch.” “Ôi quỷ tha ma bắt cậu đi, Béo!” Tôi có thể mường tượng lại cảnh chị ôm đầu tôi mà lắc. “Cậu không bao giờ khuyến khích chị lấy được một câu.”
Tôi từ từ ngẩng đầu lên khỏi bức vẽ và quay lại nhìn chiếc giường. Ning đã ngủ say, nhịp thở sâu và đều đặn. Nụ cười hạnh phúc còn vương lại trên gương mặt nó gợi nhắc tôi đến khoảng thời gian cả hai chúng tôi còn nhỏ xíu nằm rúc vào nhau. Quãng đời kia đã qua lâu rồi và kể từ đó chúng tôi đã bị bứt ra khỏi nhau mà không có đứa nào có thể làm một điều chết toi gì để thay đổi sự ấy. Và đây chính là lý do vì sao chúng tôi một mình vật lộn và cô độc bước trên đường đời, không có một ai để quay sang mà cùng khóc cùng cười như ngày thơ ấu.
Tôi vẫn còn nhớ Ning đã nức nở trong lòng tôi như thế nào vào lần đầu tiên bác Amorn qua đêm tại nhà chúng tôi, và cái ngày nó bắt tôi hứa sẽ không bao giờ rời bỏ nó cùng mẹ nữa. Mặc dù chưa hề rời nơi đây, tôi không còn lấy một cơ hội để xích lại gần hai người ấy như trước kia. Mỗi người trong chúng tôi đều có một thế giới riêng, đóng cửa với những người còn lại và chúng tôi đơn độc vật lộn kiếm tìm ý nghĩa của cuộc đời.
Tôi nghĩ tới cuốn nhật ký màu đỏ và những gì được viết trong đó.
“Chúng tôi chỉ còn có điều này: chúng tôi có bốn người
Nhưng chẳng ai có ai – mỗi người đều một mình mỗi người khóc vì một nỗi và quệt đi nước mắt của chính mình mỗi người chúng tôi đều cô đơn với những giấc mơ đã vỡ – những giấc mơ không bao giờ thành hiện thực
Trơ trọi vùi dập – những giấc mơ”
Và
“Sau cái đêm ác mộng ghé thăm
Tôi học cách tự dỗ dành bản thân và không bao giờ làm phiền mẹ nữa với những cơn ác mộng của mình”
Và tôi cũng không thể tưởng được rằng mẹ sẽ cảm thấy thế nào nếu bà cũng biết. như tôi biết, về những cơn ác mộng đang thật sự hiện hữu trong cuộc sống của Ning. Có lẽ mẹ sẽ hối tiếc là đã đóng sập cửa phòng mình vào ngay đêm đầu tiên Ning trải qua ác mộng, hoặc không chừng bà sẽ không bao giờ mở lại cánh cửa ấy bước ra ngoài nữa.
Tôi bỏ lại bức vẽ trên bàn, đứng dậy, tới bên giường, lấy chăn đắp lên người em gái rồi cúi xuống nhẹ nhàng hôn lên trán nó.
Chuông điện thoại cứ reo, reo mãi mới có người nhấc máy.
“A lô. Đây có phải nhà ông Withoon không ạ? Làm ơn cho cháu nói chuyện với Jom.”
“Nó ra ngoài rồi.” Giọng nói ở đầu dây bên kia vang lên cộc cằn rồi một tiếng dập mạnh dội vào tai tôi và tiếp đó là tín hiệu bận.
Tôi sững sờ cúp máy. Mới có vài năm, quá nhiều thứ đã thay đổi trong nhà Jom và những gì đang diễn ra ở đó chắc hẳn là rất khắc nghiệt với mẹ chị. Tôi tự hỏi làm sao một người đàn bà mỏng manh, thầm lặng và yếu ớt này có thể chịu đựng một hoàn cảnh như vậy bấy lâu nay.
“Mụ ấy đang chờ mẹ chị chết đi để chiếm toàn bộ tài sản.” Tôi nhớ đến lời Jom nói trước khi chị đi Anh quốc. “Nhà cửa, ruộng đất, thậm chí cả công ty, tất cả đều do cả cha và mẹ chị đồng sở hữu.” Rồi chị nói thêm: “Nhưng mẹ bảo rằng mẹ sẽ không chết dễ dàng như vậy, rằng bà sẽ tiếp tục sống để chứng kiến cơn thèm khát của kẻ khác và chăm sóc chị cho tới khi chị học xong.”
“Mày đi đâu mà sớm thế này?” mẹ vừa đi xuống cầu thang vừa hỏi.
“Con qua nhà bạn ôn bài,” tôi đáp, nhìn lảng đi chỗ khác.
“Thế thì nhớ nhanh nhanh mà về,” mẹ ra lệnh. “Tôi nay tao tính đi Hart Yai, mày cũng đi cùng đi.”
“Để đòi lại bác Amorn ạ?” tôi khẽ khàng hỏi.
“Chứ còn gì nữa?” bà đốp lại.
“Mẹ đừng quên đến chỗ nha sĩ,” tôi nhắc bà.
“Hừ!” bà cao giọng. “Định mỉa mai mẹ mày đấy hả? Ý mày là tao sẽ đi cắn người ta, đúng thế không?”
“Ôi, mẹ, làm ơn đi!” Tôi lắc đầu, ngấy đến tận cổ.
Cơ hồ vào sáng Chủ nhật mọi thứ đều chậm lại như rùa bò. Các con phố ngày thường tấp nập nhộn nhịp giờ đây trống vắng đến mức ta cảm thấy quạnh quẽ. Thỉnh thoảng mới có một chiếc xe chạy qua. Các cửa hàng ngày thường sống động là vậy giờ đây lặng ngắt sau những cánh cửa đóng chặt. Chẳng có mấy người qua đường.
Tôi leo lên xe buýt mà không có một điểm đến cụ thể nào trong tâm trí, đi qua phố nối tiếp phố, ngang qua những con người và nơi chốn bỗng lạ lẫm so với ngày thường – thong thả, không hối hả, như thể họ còn mơ màng ngái ngủ hoặc chưa kịp hồi phục sau một tuần kiệt sức vừa qua.
Tôi xuống xe tại quảng trường Siam. Vẫn còn quá sớm, khu vực mua sắm này chưa mở cửa đón khách. Một con chó hoang đang nằm bẹp trong góc phố đứng lên nhìn tôi rồi lại nằm xuống cho lũ con bú tiếp. Một người quét rác ngồi bên vệ đường, dựa chổi vào đầu gối, tự cuộn một điếu thuốc lá sơ sài rồi trầm ngâm hút.
Tôi nhìn bóng mình trên kính các cửa hàng rôi đi qua, một hình ảnh mờ mờ, ẩn hiện nổi trên những món đồ trưng bày, từ quần áo đến đồ chơi, từ sách đến mẫu đồ ăn và tráng miệng giả sau khung kính của cửa hàng. Trông chúng lúc thì kỳ cục, lúc lại buồn cười khi ánh sáng và bóng tối thông đồng với nhau để tạo nên những hình thù méo mó quái dị.
Vào lúc ấy tôi chợt ngộ ra rằng, đôi khi, cái khiến chúng ta tưởng rằng mọi thứ đang thay đổi thật ra chỉ toàn là ảo ảnh.