Con nhà nghèo
Chương 6
Đêm ấy bà Chủ thỏ thẻ tỏ cho chồng hay rằng bà Hội đồng đã bằng lòng gả cô Tư Thục cho quan Kinh lý và cậy chồng mời giùm quan Kinh lý bữa chủ nhật đi ra Vĩnh Thạnh chơi đặng cho ổng thấy cô Tư Thục.
Hương chủ Khanh tử tế thật thà, thuở nay ăn ở ông hay làm vừa lòng mọi người, nhứt là ở trong nhà, tuy ông không bầy biểu việc chi, nhưng mà trừ ra sự cưới vợ bé ông nhất định không chịu nghe lời, còn có việc khác, xúi làm việc chi ông cũng làm hết thảy. Ông nghe bà biểu mời quan Kinh lý ra nhà thầy Hội đồng thì ông gật đầu nói:
– Mời thì mời. Mời ổng ra đặng ổng coi con Thục phải không?
– Ý chị Hai muốn cho hai đàng thấy nhau chán chường.
– Vậy thì phải nói trước cho ổng biết chớ.
– Ậy, đừng có nói. Mời thì nói mời đi chơi mà thôi. Để ổng thấy con Thục rồi mình sẽ nói…
– Coi vợ cái gì mà kỳ cục vậy?
– Ậy, thì ông cứ nghe lời tôi mà.
– Không nói trước cho ổng hiểu, ổng có dè chuyện gì đâu mà ổng ngó con Thục?
– Ông đừng có cãi mà. Ông cứ mời giùm đi, còn việc gì khác ông để mặc tôi.
– À, thôi, tôi mời thì tôi mời đi chơi, bà tính sao đó tự bà, tôi không biết đa… Nè, mà vợ chồng mình không có con mình đứng làm mai dong coi kỳ quá. Thuở nay làm mai phải lựa người có con cháu đông mới được chứ.
– Nó là cháu, mình kiếm đôi bạn cho nó, chớ làm mai dong giống gì không biết. Ông nhiều chuyện quá.
– Cháu mình cũng phải cầu kiết cho nó chớ. Mình đừng làm mai, rủi sau vợ chồng nó không có con, nó đổ thừa tại mình cho bà coi.
– Có con hay là không có, ấy là tại số mạng chớ nào phải người làm mai hay sao? Vậy chớ vịt gà mấy ai làm mai, mà cũng đẻ bầy này qua bầy kia đó sao?
– Vợ chồng mình không có hên, mà nếu bà muốn làm mai thì tự ý bà, tôi không cãi.
– Thây kệ tôi. Ông cứ mời đừng có nói việc gì cho quan Kinh lý biết hết. Hễ ông định ngày nào thì tôi sẽ cho ngoài nhà hay.
Chiều bữa sau ăn cơm rồi. Hương chủ Khanh đi qua nhà việc tính lại chơi với quan Kinh lý. Ông gặp quan Kinh lý đương ngồi nói chuyện với hai vị phái viên là Hương bộ và Hương thân. Quan Kinh lý vừa ngó ra thấy Hương chủ thì la lớn lên:
– À, ông Chủ, may dữ không! Vô đây ông Chủ, vô mà xử giùm vụ này một chút.
Hương chủ bước vô, không biết quan Kinh lý muốn nói chuyện gì nên coi ái ngại, quan Kinh lý kéo ghế mời Hương chủ ngồi rồi nói:
– Hồi chiều hôm qua tôi ở bên nhà ông tôi về, tôi gặp ông Hương bộ, ngồi chờ tôi đây. Hương bộ nói với tôi rằng bà Hương bộ Bảy bị Trần Văn Hùng lấn ranh đất bả, nên bả cậy Hương bộ nói với tôi giúp giùm cho bả, bả đền ơn cho tôi 200 đồng bạc. Hương bộ nói rồi liền móc túi đưa cho tôi hai tấm giấy 100. Tôi lấy tôi cất rồi tôi dặn Hương bộ sáng bữa nay phải đòi Hương bộ Bảy lại đây cho tôi nói chuyện. Hồi sớm mai này Hương bộ dắt bà gài lại. Tôi trả 200 đồng cho bả và tôi nói cho bà biết rằng vụ người ta giành đất của bả đó thì bả có lý lắm, không cần gì phải lo tiền. Không ai mà lấy một tấc đất nào của bả đâu mà sợ. Bà già về rồi từ hồi sớm đến giờ, Hương bộ cứ theo làm phiềntôi, ổng nói bà Hương bộ Bảy giàu có lớn, bả đền ơn cho tôi sao tôi không lấy. Nếu bả có lý thì tôi lấy tiền có hại gì đâu mà sợ. Tôi cắt nghĩa về lương tâm, về liêm sĩ, nói thế nào ổng cũng không chịu hiểu, ổng chỉ tiếc 200 đồng bạc, cứ nói lấy tiền của nhà giàu mà có hại gì hoài. Ông làm Chủ, ông phải xử tội ông Hương bộ, chớ nếu ông dung thứ thì hại trong làng lắm.
Hương chủ cười mà đáp:
– Cái tục của ta phần đông đều vậy đó. Hễ có việc thì đem tiền đút lót, quấy cũng lo, phải cũng lo. Không tốn tiền thì không yên trong bụng. Ông phải làm sao cho mấy ông quan đừng thèm lấy tiền thì hay hơn chớ biểu dân đừng lo tiền sao được. Họ có phải như ông vậy đâu; dầu mình phải cho mấy đi nữa hễ không tiền thì họ làm khó khăn lắm. Còn chú Hương bộ chú làm làng mà đem mối dem manh như vậy thì chú quấy thiệt. Song cái đó cũng là phong tục của mình xưa nay. Nếu làm tội Hương bộ thì phải làm tội cả ngàn cả muôn Hương bộ khác mới công bình.
Quan Kinh lý rùn vai lắc đầu mà nói:
– Phong tục gì khốn nạn quá vậy! Phải làm sao, chớ để vậy thì dân trong nước mỗi người là một tên bợm bãi, ai cũng lo lường gạt nhau, còn ai mà lo tân hóa.
Hương chủ đáp:
– Vậy chớ sao! Đời tiền bạc.
Quan Kinh lý ngồi lặng thinh một hồi rồi nói:
– Thôi chuyện đó bỏ đi, có chuyện này ngộ, để tôi thuật lại cho ông Chủ nghe chơi. Làng cử hai ông Phái viên đặng phụ sự với tôi, mà hai ổng không hiệp ý nhau. Hồi nãy ông Hương thân nói có cô nào ở chợ đây không biết coi bộ cô muốn tôi, nên hễ tôi đi đo về thì cô cứ đi qua đi lại trước nhà việc mà bẹo tôi. Tôi không chắc tôi có duyên đến nỗi con gái hễ thấy mặt tôi thì thương tôi liền. Tôi chưa kịp cãi Hương thân thì Hương bộ lại vọt miệng nói: “Ối con nhỏ đó mà kể gì! Quan Kinh lý là bậc sang trọng, lẽ nào đi lấy thứ con nhà nghèo hay sao mà nói. Quan Kinh lý có muốn vợ, để tôi làm mai cho con bà Cả cựu đây mới đúng chớ. Bà Cả đứng bộ hơn một trăm mẫu điền, mà bà có một người con trai với một người con gái đó. Bà nhiều tiền lắm, hễ rớ vô đó thì no”. Hương thân cãi lại, nói con bà Cả xấu, còn cô nào ngoài chợ đây lịch sự. Tôi nghe hai ông cãi lẽ tôi bật cười.
Hương bộ không đợi cho quan Kinh lý nói dứt lời, ông chận ngang mà nói:
– Bẩm ông, chuyện 200 đồng bạc, tuy tôi khuyên ông lấy tôi không quấy gì, song ông nói tôi có lỗi thôi tôi chịu có lỗi, tôi không dám nói nữa. Còn cái chuyện này, nếu ông cho quấy nữa thì ức tôi lắm. Ông với ông Chủ nghĩ coi, con bà Cả cựu người ta giàu có, còn con chú Thêm là Thằng bán bánh in, nghĩa lý gì mà nói chuyện.
– Hương thân nói con bà Cả xấu lắm.
– Ối! Đời này có tiếng giàu thì xấu cũng tốt, còn không tiền dầu tốt cũng xấu. Xấu hay tốt mà làm giống gì. Vợ xấy là vợ của mình, còn vợ lịch sự là vợ của thiên hạ.
Hương thân không nhịn được, nên đứng dậy cãi:
– Nói như anh vậy, miễn là có tiền thì thôi, đui hay cùi gì cũng được hay sao?
– Con bà Cả đui hay cùi gì đó hay sao?
– Không có đui, không cùi, song con bà Cả đen đúa, kịch cợm coi không xứng với quan Kinh lý.
– Con gái nhà quê thì là vậy chớ sao. Về quan Kinh lý rồi sẳn tiền ổng dọn dẹp dồi phấn, ướp dầu thơm rồi đây coi ngon lắm chớ.
Quan Kinh lý ngó ông Chủ mà cười ngất. Ông can hai đàng rằng:
– Tôi xin hai ông đừng có cãi với nhau nữa. Tôi đương kiếm vợ, mà nghe hai ông luận cách chọn vợ thì tôi chán quá. Theo ông Hương thân thì kiếm vợ phải chọn người có sắc, không cần giàu nghèo. Theo ông Hương bộ thì kiếm vợ phải chọn người có tiền không cần xấu tốt. Hai ông nói đều không hợp ý tôi chút nào. Kiếm vợ ta phải lựa người có đức chớ lựa có tiền hay là có sắc, mà làm chi, phải không ông Chủ?
Hương chủ gật đầu khen phải, Hương bộ với Hương thân hết cãi, kiếm chỗ mà ngồi, coi bộ xẻn lẻn.
Hương chủ thấy êm rồi, ông mới tỏ lời mời quan Kinh lý chúa nhựt đi với ông ra Vĩnh Thạnh chơi.
Quan Kinh lý cười và hỏi:
– Ra nhà ông Hội đồng phải không?
– Bẩm phải.
– Hai ông bà theo mời tôi hoài. Nếu từ thì tôi có lỗi. Mà nếu đi thì ai làm việc?
– Bữa chúa nhựt ông nghỉ đi chơi mà hại gì.
– Ngày thường tôi đo, chúa nhựt tôi phải làm bản đồ chớ.
– Việc nhà nước cần gì phải lo cho mệt. Chừng nào rồi lại không được.
– Nói như ông vậy sao phải. Tuy tôi ăn lương nhà nước, song tiền đó là tiền của dân. Làm quan mà cầm câu đặng chờ ngày lãnh lương thì có tội với dân chớ.
– Làm quan ít ai nói như ông vậy lắm.
– Làm quan phải giữ cho tròn phận sự chớ.
– Giữ phận sự thì ngày thường làm việc hẳn hòi còn chúa nhựt là ngày nhà nước cho mình nghỉ thì chơi cho giải lao chớ.
– Ông muốn tôi ra nhà Hội đồng lắm sao?
– Hai vợ chồng ảnh mới biết ông, mà coi bộ ưa lắm. Hôm qua đã mời rồi, mà hồi sớm mai này còn sai người vô biểu tôi mời giùm nữa.
– Đi bằng cái gì?
– Đi xe ngựa. Đi chừng nửa giờ thì tới. Có năm sáu ngàn thước.
– Đi giờ nào? Sớm mai đi một lát rồi về được không?
– Được. Ra chơi một lát ăn cơm rồi về.
– Ăn cơm nữa hay sao? Mời ra chơi cho biết nhà, chớ có mời ăn cơm đâu.
– Cách Việt Nam thì là vậy đó đa. Tới chơi nghĩa là ăn cơm.
– Ông Hội đồng có con gái, tới chơi rồi chà lết ăn cơm coi kỳ quá.
– Có hại gì.
– Thôi, đi thì đi.
– Sớm mai chúa nhựt ông sửa soạn rồi chừng 7 giờ tôi đem xe lại đây rước ông.
– Được.
Hương chủ Khanh mời được thì mừng, nên lật đật về cho vợ hay. Sáng bữa sau bà Chủ sai người nhà ra Vĩnh Thạnh nói cho anh chị hay trước rằng bữa chúa nhựt, chừng bảy giờ rưỡi sáng, sẽ có quan Kinh lý ra tới.
Trưa thứ bảy, bà Chủ nói với chồng rồi bà đi trước ra ngoài nhà đặng sắp đặt cuộc tiếp khách giùm cho anh chị.
Bà ra tới thì thấy nhà cửa trong ngoài quét tước dọn dẹp sạch sẽ, còn vợ chồng Hội đồng thì vui vẻ khác thường. Bà chưa có dịp mà nói với anh sự bà tính gả cô Tư Thục cho quan Kinh lý, bởi vậy gặp thầy Hội đồng bà nói ngay:
– Anh Hai, tôi tính làm mai đặng gả con Thục cho quan Kinh lý đa. Chị Hai chịu rồi. Còn anh Hai chịu hay không?
– Sao lại không chịu?
Bà Hội đồng nói tiếp:
– Được rể như vậy dầu nó xài hết nhà cửa tôi, tôi cũng không tiếc, chớ thứ đồ ngu nó phá của thiệt tức quá.
Bà Chủ cười mà nói:
– Người đáng lắm mà, không ham tiền mà cũng không mê gái. Hôm trước ông Chủ đi qua nhà việc ổng về ổng trầm trồ khen hoài. Ông nói con gái chợ Giồng muốn quan Kinh lý, nên áp theo ve vãn, mà ổng không thèm đứa nào hết. Bà Hương bộ Bảy đem lo cho ổng đến 200 đồng bạc mà ổng không thèm ăn, ổng kêu ổng trả lại. Còn nhỏ tuổi mà tánh tình như vậy đó. Tôi nói con Thục đụng ổng nó có phước lắm mà.
Bà Hội đồng ngồi ngẫm nghĩ rồi nói rằng:
– Không thèm gái thì phải, chớ người ta đem tiền lo lót, sợ giống gì mà không ăn.
– Người ta thanh liêm nên người ta không thèm ăn, chớ sợ giống gì, chị.
– Chắc hôm trước ổng nói giấu mình. Thế khi cha mẹ ổng giàu lắm nên ổng không thèm hối lộ chớ gì.
– Không biết chừng đâu. Dưới Bạc Liêu họ giàu thất kinh. Không lẽ ổng khoe với mình cha mẹ ổng giàu phải không chị Hai!
– Tôi nghi lắm. Nếu ổng làm quan mà cha mẹ giàu nữa, thì đúng biết chừng nào.
– Mình nhứt định rồi, thế nào cũng gả, đừng nói gì nữa hết. Mà chị có sắp đồ ăn đặng mai dọn cơm hay không? Người ta ra sớm đa.
– Cá thịt kho sẵn hết rồi. Khuya sẽ biểu bầy trẻ làm gà làm vịt.
– Chị này hà tiện quá! Ta làm một con heo mà đã coi cho xôm.
– Làm heo rồi ai ăn cho hết. Có mời ai đâu.
– Để tối nay tôi dặn con Thục đặng nó báo quan Kinh lý chơi.
Nãy giờ thầy Hội đồng ngồi lặng thinh mà nghe hai bà nói chuyện. Bây giờ mới xen vô mà nói:
– Tính lăng xăng ổng rồi ổng không ưng con Thục đây ngã ngửa hết.
Bà Hội đồng chau mày đáp:
– Khéo nói vô duyên. Sao mà không ưng?
– Ta noi thí dụ mà nghe vậy chớ.
– Thí cái giống gì. Hễ mở miệng ra thì nói lời xui xẻo hoài.
– Thôi, thôi. Tôi không nói nữa đâu. Tôi xui nên tôi gả con Diệu mới vậy đó. Bây giờ ai làm sao thì làm.
Thầy Hội đồng đứng dậy mà đi ra sân để cho hai bà bàn tính thong thả.
Tối lại bà Hội đồng biểu sắp trẻ ở trong nhà đi ngủ hết, đặng khuya thức dậy sớm mà nấu nướng. Bà Chủ kêu cô Tư Thục mà nói rằng:
– Này con, cha với má tính gả con cho quan Kinh lý là người ăn cơm nhà cô hôm trước đó. Người ta sang trọng tử tế lắm, chớ không phải như người thường vậy đâu. Sáng mai quan Kinh lý ra đây chơi, con ra chào hỏi ổng, bưng nước, dọn cơm như thường, đừng có mắc cỡ gì hết. Người ta ngó thì ngó, con đừng sợ. Muốn làm bà Kinh lý thì phải dạn dĩ mới được. Con đừng có ngó người ta quá mà cách lịch sự. Nếu con muốn ngó thì con liếc mà thôi. Cô coi cặp mắt con đó hễ liếc thì quan Kinh lý chịu không nổi. Sáng mai cô biểu con làm sao thì con cứ làm theo y lời cô. Chừng khách ngồi ăn cơm thì con ra đó coi ăn. Nhớ nghe không, đừng nhút nhát rồi ổng cười mình nhà quê.
Cô Tư Thục đứng nghe dặn mà miệng chúm chím cười hoài coi bộ không mắc cỡ chút nào hết.
Sáng ngày thầy Hội đồng thì coi cho trẻ quét nhà lau ghế, bà Hội đồng thì coi chừng chị bếp nấu ăn, còn bà Chủ Khanh với cô Hai Diệu, cô Tư Thục đều ra đứng trên thềm mà tiếp khách.
Bữa nay quan Kinh lý bận môt. bồ đồ tít so mới, áo sơ – mi luạ rằn, nơ rằn, giày vàng. Ông nhảy xuống xe gọn gàng, rồi bước lên thềm dở nón chào mỗi người. Chừng quan Kinh lý chào tới hai cô thì bà Chủ Khanh nói:
– Hai đứa nhỏ này là con của anh Hội đồng. Ảnh với chỉ có hai đứa đó, không có con trai.
Quan Kinh lý ngó ngay cô Tư Thục, miệng ông chúm chím cười, cô cũng liếc lại rồi cô bước lùi lại sau.
Chủ khách dắt nhau vô nhà mời ngồi lăng xăng. Quan Kinh lý ngó cùng trong nhà rồi nói với thầy Hội đồng:
– Nhà ông tốt và rộng quá mà không có con trai, thiệt là uổng. Phải trời sinh tôi làm con trai ông, chắc là tôi sung sướng lắm.
– Tôi có một đứa con trai, nuôi nó tới 19 tuổi nó lăn đùng ra chết. Nó mới chết hồi năm ngoái.
– Rủi dữ hôn! Mà ông còn khá hơn ông Chủ. Ông còn có hai người con gái, ông Chủ không có chút nào hết.
– Thứ con gái có cũng như không. Con lớn tôi gả lấy chồng rồi, thằng chồng nó chơi bời bài bạc, nó nói không được nó giận nó về đó. Còn con nhỏ, họ đi nói mấy chỗ rồi, mà má nó cưng nó lắm, dục dặc chưa chịu gả.
Cô Tư Thục bưng nước ra rồi đứng rót cho mỗi người một tách. Cô đứng ngang mặt quan Kinh lý, mà ông không dám ngó, ông liếc hai tay cô rót nước mà thôi.
Bà Chủ bước lại mời uống nước và bà nói:
– Quan Kinh lý ra chơi thiệt anh chị Hai tôi mừng lắm. Hai ông bà gặp quan Kinh lý có môt. lần mà về khen hoài, nên cậy ông Chủ làm sao cũng phải mời cho được quan Kinh lý ra nhà chơi một chuyến.
Quan Kinh lý đáp:
– Tôi thấy ông Hội đồng bà Hội đồng có tình mời tôi hoài, nếu không đi thì tôi có lỗi, bởi vậy tôi phải ráng chớ thiệt công việc của tôi nhiều lắm. Tôi ham đi chơi lắm; nếu tôi rảnh thì ở đâu tôi lại không đi.
Khách ngồi nói chuyện, cô Tư Thục ra vô như thường. Cô đi đứng tề chỉnh, không nhút nhát chút nào hết. Đến 10 giờ, dọn cơm ăn thì cô đứng coi ăn, cô sớt đồ ăn, cô rót rượu chát, tay gọn gàng, bộ nhanh nhẹ. Cô rót rượu cho quan Kinh lý thì ông lấy tay đậy ly và cười, ngó cô mà nói:
– Thưa cô, tôi không biết uống rượu. Xin cô cho tôi một ly nước lạnh, tôi cảm ơn lắm.
Cô cũng cười mà đáp:
– Nếu ông không dùng rượu thôi để tôi lấy nước suối – Cô nói rồi thì liền mở tủ lấy một chai nước suối mà khui và đem lại rót cho quan Kinh lý một ly. Quan Kinh lý cám ơn, cô cười ngòn ngoẻn.
Ăn cơm rồi, trời mưa một đám thiệt lớn làm quan Kinh lý phải ở chơi cho tới 3 giờ chiều mới về được. Bà Chủ theo xe mà về một lượt. Khi xe chạy được một khúc đường, thình lình quan Kinh lý hỏi:
– Ông Hội đồng làm sao mà ông có thẹo dữ vậy ông Chủ? Hổm nay tôi tính để hỏi ông mà tôi quên hoài.
Hương chủ Khanh bị hỏi thình lình ông chưa trả lời, thì bà Chủ hớt mà nói:
– Hồi trước ảnh bị té xe đó đa. Tưởng ảnh chết rồi chớ. Đi thứ xe ngựa thiệt hiểm nghèo quá.
Hương chủ ngó vợ rồi chúm chím cười.
Tánh bà Chủ Khanh mau mắn nhậm lẹ, đi về dọc đường bà đã muốn trổ mặt làm mai, ngặt vì xe bánh sắt khua rầy tai, lại bà ngồi cách quan Kinh lý, nên bà không nói được. Về đến nhà rồi thì bà liền khuyên chồng phải liệu thế nào mời quan Kinh lý qua đặng cho bà nói chuyện. Không phải Hương chủ trái ý với vợ, nhưng vì ông mời nhiều lần quá, bây giờ ông ái ngại, nên dục dặc đến ba bốn bữa mà ông chưa chịu đi.
Thình lình một buổi tối, quan Kinh lý rảnh việc lại thấy trời thanh bạch, ông bận đồ mát đi lên cầu đứng hứng mát rồi ông đi luôn xuống thăm vợ chồng Hương chủ. Bà Chủ hết sức mừng rỡ lật đật hối bầy trẻ đốt đèn măng – sông, chế nước trà mới.
Quan Kinh lý chưa nói chuyện với ông Chủ được mấy câu thì bà Chủ đã hỏi rằng:
– Bẩm quan Kinh lý, ông nhắm coi nhà của anh Hội đồng mà ông ra chơi bữa hổm đó được hay không?
– Được là sao? Nhà cửa rộng rãi đồ đạc đẹp lắm, coi được chớ sao lại không được.
– Không. Tôi muốn hỏi chuyện kia kìa.
– Ý bà muốn hỏi chuyện chi?
– Ông nghĩ vợ chồng ảnh thế nào?
– Hai ông bà là người giàu có, tuy ở đồng ở ruộng, song tiếp khách tử tế lắm.
– Còn con gái nhỏ của ảnh, ông nghĩ thế nào?
– Tôi đâu dám nghĩ đến sự đó. Có lẽ nào đến nhà người ta tiếp đãi trọng hậu rồi về dị nghị con gái người ta.
– Có hại chi đâu. Theo ý quan Kinh lý thì con nhỏ đó coi được hay không?
– Cô dạn dĩ, không trắng mà gương mặt coi đẹp, nhất là cặp con mắt cô lanh lắm.
– Quan Kinh lý coi thiệt là kỹ.
– Tôi ở chơi gần một ngày, cô ra vô qua lại trước mặt tôi hoài, tự nhiên tôi phải ngó thấy, chớ có phải là tôi chú ý cô đâu.
– Tôi muốn làm mai nó cho quan Kinh lý quá; không biết quan Kinh lý chịu hay không?
– Bà hỏi câu đó tôi không dám trả lời.
– Sao vậy?
– Bởi vì việc đó quan hệ, tôi trả lời bất tử vậy sao được.
– Hôm quan Kinh lý mới đến, quan Kinh lý có biểu vợ chồng tôi coi có chỗ nào tử tế thì chỉ giùm đặng quan Kinh lý cưới vợ. Tôi nghĩ tôi có một đứa cháu đó, tuy nó quê mùa thiệt thà, nhan sắc coi vừa được chớ không ngộ cho lắm, song nó là con nhà giàu có tử tế, có lẽ làm bà Kinh lý cũng xứng đáng. Bẩm quan Kinh lý bữa nay tôi xin tỏ thiệt với quan Kinh lý, vợ chồng tôi muốn cho quan Kinh lý thấy con nhỏ đó, nên vợ chồng tôi tọc mạch nói với anh Hai chị Hai tôi mời quan Kinh lý ra nhà chơi đó.
– Trời ơi! Vậy mà ông Chủ không thèm nói trước cho tôi biết chớ! Ông này thiệt là bất nhân!
Hương chủ Khanh cười hì hì và đáp:
– Nói trước làm chi, để tự nhiên cho ông coi chớ. Nói cho ông biết trước, rồi ông mắc cỡ, ông ngó chán chường đâu.
Quan Kinh lý ngồi lặng thinh suy nghĩ.
Bà Chủ ngồi ăn trầu, bà xỉa thuốc sống ngoài rạch mà nói:
– Cách đi coi vợ phải làm như vậy đó, chàng rể coi mới kỹ lưỡng được. Tôi thấy họ coi vợ làm sao mà con dâu ở trong buồng nó xẹt ra như tên bắn, nó xá vài cái rồi xây lưng đi vô liền. Có nhiều chàng rể vô ý thấy cái mặt không kịp, thấy có cái lưng mà thôi.
Quan Kinh lý chau mày thở ra mà nói:
– Hai ông bà báo hại cho tôi mang lỗi nhiều quá!
Hương chủ cười và hỏi:
– Có lỗi chỗ nào đâu?
– Lỗi với cha má tôi nhiều lắm.
– Sao vậy?
– Chẳng giấu hai ông bà làm chi, cha mẹ tôi bây giờ có trâu có ruộng, chớ hồi tôi còn nhỏ thì trong nhà không mấy gì khá cho lắm. Tuy vậy mà cha mẹ tôi sanh một mình tôi, quyết chí cho tôi ăn học đến nơi đến chốn, đặng ngày sau tôi trở nên người phải nối nghiệp tổ tông. Tôi đi học mười mấy năm trường, cha mẹ tôi tốn hao với tôi không biết bao nhiêu mà kể, lớp bánh hàng, lớp quần áo, lớp sách vở, lớp thuốc men. Nay tôi học đã nên rồi, nghĩ lại công ơn cha mẹ tôi lớn không biết chừng nào mà noí. Hôm bữa tôi thi đậu rồi về thăm nhà thì cha mẹ tôi tính việc cưới vợ cho tôi. Và việc hệ chồng là việc hệ trọng, đạo làm con phải để cho cha mẹ định cho vui lòng cha mẹ, bởi vậy tôi có thưa với cha mẹ tôi, muốn định nơi nào tôi cũng bằng lòng hết thảy, chớ tôi không dám tự chuyên. Hôm nay tôi không có thưa cho cha mẹ tôi hay, mà tôi đi coi vợ, là sái lễ nghĩa quá. Việc này thiệt tôi ăn năn không biết chừng nào cho hết.
– Ông giữ theo xưa quá. Phải, việc cưới vợ cho mình thì phải để cho cha mẹ đứng cưới. Mà mình chọn lựa vừa con mắt mình rồi mình thưa cho cha mẹ hay, đặng cha mẹ đi nói mà cưới cho mình, làm như vậy có lỗi gì đâu.
– Sao lại không lỗi? Chớ chi tôi gặp ngoài đường, hay là tình cờ tôi tới nhà chơi mà ngó thấy, thì chẳng nói làm chi. Ngặt vì ông Hội đồng bày ra một cái lễ hẳn hòi, nghĩ lại thiệt rõ ràng là lễ coi vợ. Tôi làm con mà coi vợ trước cha mẹ, thiệt tôi quấy nhiều lắm. Tôi trách ông Chủ bà Chủ, tại hai ông bà mà tôi mang lỗi với cha mẹ tôi. Chớ chi hai ông bà nói trước cho tôi biết, đặng tôi thưa cho cha mẹ tôi hay, như cha mẹ tôi bằng lòng thì dắt tôi đi coi, làm như vậy mới trúng lễ nghĩa.
Ông Chủ không cãi được nữa. Bà Chủ bèn thay chồng mà trả lời:
– Quan Kinh lý nói như vậy thì phải lắm. Nhưng theo ý tôi thì việc này cũng chẳng hại gì. Bây giờ quan Kinh lý gởi thơ cho ông bà dưới nhà mà thưa rằng quan Kinh lý nghe một chỗ tử tế người ta muốn gả con cho quan Kinh lý nên mời ông bà lên coi. Ông bà lên đây rồi tôi dắt đi coi, quan Kinh lý thấy thêm một lần nữa, thì càng rõ ràng hơn, chớ có hại chi đâu.
– Có lý nào mà tôi dám nói dối với cha mẹ tôi. Làm con mà giả dối với cha mẹ như vậy sao cho phải.
– Nếu quan Kinh lý có ngại thì thưa thiệt rằng quan Kinh lý đi chơi, ngó thấy con nhỏ đó rồi, quan Kinh lý ưng bụng, nên mời ông bà lên coi, tôi tưởng cũng không có lỗi gì.
– Tôi trách hai ông bà lắm.
– Quan Kinh lý trách thì vợ chồng tôi phải chịu. Nhưng mà lời trách này oan cho vợ chồng tôi lắm. Xin quan Kinh lý nhớ lại coi ngày quan Kinh lý mới đổi lại, vợ chồng tôi hỏi thăm thì quan Kinh lý nói chưa có vợ và cậy vợ chồng tôi chỉ giùm. Tại quan Kinh lý nói như vậy nên vợ chồng tôi mới dám làm mai chớ.
– Tôi xin chỉ giùm, thì bà chỉ, chớ sao dắt tôi đi coi, mà không nói trước cho tôi biết. Tôi phiền là phiền chỗ đó. Nếu nói trước thì tôi thưa cho cha mẹ tôi hay, như cha mẹ tôi không lên được, và cho pép tôi đi coi thì tôi mới dám.
– Thôi, bây giờ tôi hỏi thiệt quan Kinh lý, vậy chớ quan Kinh lý coi con cháu tôi đó được hay không?
– Bà hỏi câu đó khó cho tôi trả lời quá. Được hay không được tự ý cha mẹ tôi chớ tôi đâu dám nói.
– Không. Đã biết việc cưới vợ thì để cho cha mẹ định, nhưng mà quan Kinh lý nói thử nghe chơi, coi quan Kinh lý có chê chỗ nào hay không chớ.
Quan Kinh lý ngồi suy nghĩ một hồi mới đáp rằng:
– Tôi thấy là thấy tướng mạo mà thôi chớ tôi có biết tánh tình thế nào đâu mà dám chê hay khen.
– Tướng mạo nó đó coi được không?
– Theo tướng thì tôi không chỗ nào chê được, nhưng mà cưới vợ cần phải chọn lựa tánh tình, chớ tướng mạo không can hệ gì cho lắm.
– Con cháu tôi nó thiệt thà lắm. Con nhà giàu có, mà nó không kiêu hãnh, nó không hỗn láo với ai hết, bởi vậy tá điền tá thổ ai cũng yêu mến. Nó cũng không chịu a dua như con người ta, cha mẹ sắm cho vật gì thì sắm, nó không đòi vật gì hết. Tôi là cô nó không lẽ tôi thêu dệt nhiều lời. Chừng quan Kinh lý cưới nó rồi, thì sẽ thấy mấy lời tôi nói đó có quả thiệt như vậy hay là lời chuốt ngót.
Quan Kinh lý nghe nói mấy lời thì ông chúm chím cười hoài. Bà Chủ muốn buộc cho mau nên bà lại nói rằng:
– Hai vợ chồng anh Hội đồng của tôi khó lắm, kén rể thất kinh. Mấy chỗ đi nói rồi, chỗ nào cũng xứng đáng quá chớ, mà ảnh chỉ không chịu gả. Không biết trời khiến hay sao mà ảnh chỉ thấy quan Kinh lý lại đem lòng thương. Tôi dọ ý rồi, hễ quan Kinh lý nói thì ảnh gả liền. Còn con nhỏ hễ tôi hỏi nó thì nó cười rồi nó bỏ đi. Cách con gái hễ nó làm như vậy đó nghĩa là nó ưng rồi.
Tánh quan Kinh lý ưa nói pha lửng, nhưng mà đến việc hôn nhân, là việc quan hệ, ông lại dè dặt, cứ ngồi mà cười, không tỏ một lời nào cho vợ chồng Hương chủ Khanh biết ông chịu hay là không chịu. Ông bắt nói qua chuyện khác rồi thừa dịp đứng dậy cáo từ mà về, làm bà Chủ sợ ông chê cháu mình, nên trong lòng bà không an.
Sáng bữa sau bà Hội đồng vô thăm bà Chủ, tuy nói đi thăm, chớ kỳ thiệt là bà muốn dọ coi quan Kinh lý thấy con của bà rồi ông về ông có tỏ ý chịu hay không. Bà Chủ vừa gặp chị, thì bà nói:
– Ông Kinh lý vui vẻ, mà ý ổng kín đáo lắm đa chị, chớ không phải như người ta vậy đâu. Hổm nay ông Chủ dọ hết sức, tôi cũng có hỏi ổng nữa, mà ổng không chịu nói coi ổng đành con Thục hay không. Để thủng thẳng đợi ít ngày nữa coi.
Bà Hội đồng nghe nói như vậy thì bà ngồi buồn xo. Người có tiền mà kiến thức hẹp hòi, tưởng ai dòm thấy nhà mình là tốt, ai nghe nói ruộng mình nhiều, cũng đều mê hết thảy, bởi vậy hễ nghe ai không ái mộ cái tiếng “giàu” của mình thì trong bụng không vui. Bà Hội đồng Nghĩa thuộc hạng người ấy. Từ bữa bà tính gả cô Thục cho quan Kinh lý Hai thì bà chắc mẩm rằng hễ quen Kinh lý thấy nhà cửa bà, thấy con gái của bà, thì quan Kinh lý mê mẩn rồi năn nỉ cầu khẩn mà xin cưới, chớ chẳng đợi bà Chủ làm mai. Hôm nay bà hay bà Chủ đã xuống làm mai mà quan Kinh lý dục dặc, bà không hiểu tâm tánh quan Kinh lý, nên bà suy nghĩ một hồi, rồi chau mày mà nói:
– Thứ đồ làm khách! Cha chả đụng con nhỏ tôi cũng như chuột rớt trong hủ nếp, khéo làm bộ.
Bà Chủ cười và đáp:
– Ấy, chị đừng có nóng mà hư việc. Ông không có chê con Thục, ổng khen tướng mạo nó chớ. Song người học giỏi người ta dè dặt biết không? Ổng nói nghe cũng phải, ổng nói việc cưới vợ là viêc. quan hệ, để ổng thưa lại cho cha mẹ ổng hay coi cha mẹ ổng định lẽ nào, rồi sẽ hay. Vậy để chờ ít ngày coi, chớ gả con mà chị gấp quá vậy sao được, nhứt là muốn con mình làm bà “Kinh lý ” thì phải chậm chậm mà tính chớ.
– Nói chuyện mà nghe vậy thôi, chớ có gấp chi đâu.
– Ờ, để chậm chậm một chút rồi tôi tính. Chị để đó tôi lo cho, bề nào tôi gả con Thục cũng được mà. Tôi thấy tánh ý quan Kinh lý sao tôi thương quá.
– Hai vợ chồng tôi cũng thương nên mới chịu gả, chớ phải mê chức Kinh lý đó hay sao. Hổm nay tôi tính hễ chồng cưới con Thục rồi tôi mua một chiếc xe hơi tôi cho vợ chồng nó đi chơi. Vợ chồng con Thục đi xe hơi mới xứng đáng, chớ thằng Kỉnh mà nó đi xe hơi, thiệt tôi thấy ghét quá.
– Cha chả! Quan Kinh lý cưới con Thục rồi chị dám mua xe hơi cho lận sao?
– Sao lại không dám. Hai ba ngàn đồng bạc chớ bao nhiêu.
– Ý, họ nói tới bốn năm ngàn chớ.
– Mua xe lớn làm chi. Mua xe nho nhỏ, đủ hai vợ chồng nó đi thì thôi, tốn chừng hai ba ngàn chớ bao nhiêu.
– Chị này cưng rể lớn đa. Ruộng của anh và của chị đứng bộ tính chung hết thảy được bao nhiêu vậy chị?
– Ổng có tính thử một lần, ổng nói được hai trăm tám mươi mấy mẫu đó tôi không nhớ chắc.
– Nếu vậy thì ngày sau hai thằng rể của chị chia ra mỗi đứa cũng hơn 140 mẫu.
– Ý! Thằng Kỉnh ai mà chia cho nó.
– Nó cũng là rể, chị không chia sao được.
– Ruộng đất của vợ chồng tôi, vợ chồng tôi muốn cho ai thì cho, không muốn cho thì thôi, ai mà cãi được, cô.
– Chị nói như vậy, con Diệu nó làm giặc chớ. Con cũng đồng con mà nó là con lớn nữa, chị cất phần ăn của nó sao được.
– Chia cho nó đặng chồng nó bán mà đánh me, chớ chia làm gì. Tôi mới tính với ổng hồi hôm, tôi nhứt định ngày sau tôi cho con Diệu chút đỉnh đủ nuôi con nó mà thôi, còn bao nhiêu tôi cho hết vợ chồng con Thục.
– Nếu vậy hễ quan Kinh lý cưới con Thục thì ổng no lắm.
– Vậy chớ cô không biết tánh ý tôi hay sao? Hễ tôi thương ai thì người đó ăn ngập mặt, còn hễ tôi ghét ai thì người đó phải mạt.
– Nếu ông Kinh lý biết như vậy chắc là ổng ưa lắm.
– Tôi nghe ổng dục dặc sao tôi phát ghét. Chắc là ổng không dè vợ chồng tôi giàu, ổng không dè con Thục sẽ hưởng một cái gia tài lớn, nên ổng mới làm bộ như vậy chớ gì.
– Chị nói phải lắm. Tôi làm mai mà tôi quên nói chuyện đó cho ổng biết. Để bữa nào ổng có qua chơi rồi tôi sẽ nói. Còn con Thục, chị có dọ ý coi nó ưng hay không?
– Con nhỏ thì nó ưng rồi, cần gì phải dọ. Nó khoe với con chị nó, nó nói nó lấy chồng làm quan rồi đây nó được đi xứ này xứ kia nó chơi, chớ không phải lục đục ở nhà như con chị nó vậy. Hồi hôm này con Diệu mét với tôi, nó nói con Thục lo thêu khăn đặng cho chồng nó.
– Nếu vậy thì ưng rồi. Thôi chị để đó mặc tôi.
Bà Hội đồng nói chuyện chơi đến trưa bà mới về.
Ông Kinh lý Hai từ nhỏ chí lớn mắc lo ăn học, ông cố tâm học cho thành danh mà thôi, chớ ông không tính cưới vợ. Ngày ông thi đậu rồi về thăm nhà, cha mẹ nói tới chuyện cưới vợ thì ông mới để ý đến. Tuy ông để ý, ông gặp ai ông cũng pha lửng cậy làm mai giùm, nhưng trong trí ông chưa nhứt định coi người vợ phải thế nào. Tình cờ bà chủ Khanh tỏ sự bà muốn làm mai cô Tư Thục, là người ông đã thấy chán chường trót hai phần ngày thì ông lấy làm bối rối, ông vừa sợ lỗi với cha mẹ, vừa lo nỗi duyên phận trăm năm. Sợ lỗi với cha mẹ, thì ông nói với vợ chồng Hương chủ Khanh được, chớ còn lo nỗi duyên phận trăm năm thì không thể nói ra, bởi vậy cho nên hôm nọ ông cứ ngồi mà cười hoài, không nỡ từ chối mà cũng không dám ưng chịu.
Ông về bên nhà việc đêm ấy ông ngủ không được, cứ suy tới tính lui hoài. Đi coi vợ mà không chờ lịnh mẹ cha, tuy là lỗi song cái lỗi ấy không phải không có chỗ đổ được. Cái điều khó tính hơn hết là không biết có nên nói mà cưới cô Tư Thục hay không.
Nhà thầy Hội đồng Nghĩa là nhà giàu có danh giá, vợ chồng thầy Hội đồng Nghĩa coi bộ là người tử tế thiệt thà. Cô Tư Thục tuy là gái ở đồng, nhưng mà bề nhan sắc dễ coi, cách tiếp khách cũng được. Bề ngoài là vậy đó, còn bề trong ra thế nào? Vợ chồng thầy Hội đồng tiếp khách thiệt là hậu, vậy mà đối với kẻ bề dưới ở trong làng hàng xóm hai ông bà có lấy lòng nhân huệ mà thương xót nhà nghèo hay không? Cô Tư Thục nhan sắc thiệt là đẹp, vậy mà tánh tình có đẹp như nhan sắc đó không? Cái nhà ấy có đáng cho mình vào làm con rể, cô ấy có đáng cho mình kết tóc trăm năm không?
Ông Kinh lý Hai suy nghĩ như vậy hoài, vừa muốn chịu rồi lại nghỉ, không biết liệu lẽ nào cho phải. Ông bàng hoàng không quyết định, mà hễ nằm nhắm mắt thì ông thấy hình dạng cô Tư Thục trước mặt hoài. Trót ngày sau đi đo đất ông cũng nhớ chuyện cô Tư Thục mà về ăn cơm ông cũng nhớ chuyện cô Tư Thục, lại hễ nhớ cô Tư Thục thì trong lòng ông khoan khoái dường như ông trông cho có dịp gặp mặt trao lời với cô chơi. Sợi dây ái tình đã vương vấn trong lòng ông rồi mà ông không dè, mấy bữa đầu tuy là khoan khoái mà ông còn vui cười, lần lần rồi sự khoan khoái ấy nó pha lộn sự buồn bực, làm cho ông lửng đửng lờ đờ, nằm ngồi không yên.
Một buổi chiều, ông lấy làm khó chịu trong lòng, ông muốn có người nói chuyện cô Tư Thục cho ông nghe chơi, nên ông lấy nón mà đội, rồi mon men đi qua nhà Hương chủ Khanh.
Vợ chồng Hương chủ thấy ông Kinh lý thì mừng rỡ cũng như mấy bữa trước. Bà Chủ có tánh mau mắn, nên ông Kinh lý vừa ngồi thì bà nói:
– Hổm nay quan Kinh lý suy nghĩ rồi hay chưa? Tôi chắc quan Kinh lý đã viết thơi về dưới nhà rồi.
Quan Kinh lý mỉm cười và đáp:
– Xin bà để chậm chậm một chút.
– Còn dục dặc giống gì mãi không biết. Gởi thơ thưa cho ông bà dưới nhà hay rồi lên đặng tính phứt cho rồi. Tôi dám bảo kết với quan Kinh lý, cháu tôi nó có hư chỗ nào tôi chịu hết thảy. Nếu cháu tôi nó không xứng đáng, vợ chồng tôi đâu dám làm mai.
Quan Kinh lý ngồi cười.
Bà Chủ thiệt là lanh, bà thấy bộ của ông thì bà biết ông đã đành rồi. Bà nhơn cơ hội ấy bà cứ đốc riết tới; bà đem mà thuật cho ông nghe những chuyện bà Hội đồng tính mua xe hơi cho vợ chồng ông đi chơi và chuyện bà Hội đồng nhất định phần ăn của rể lớn để giao hết cho rể nhỏ. Luôn dịp bà lại học sự cô Tư Thục đương thêu khăn mà cho chồng mới.
Quan Kinh lý đã cảm tình cô Tư Thục rồi, nay ông hay vợ chồng ông Hội đồng yêu mến trọng hậu ông, mà cô Tư Thục lại cũng đoái hoài đến ông nữa, thì ông lấy làm đắc ý. Ông đi thăm vợ chồng Hương chủ Khanh chuyến này về ông hớn hở trong lòng, ông không dụ dự như hổm nay vậy nữa, bởi vậy sáng bữa sau ông thức dậy sớm, ông viết một bức thơ mà tỏ tâm sự cho cha mẹ hay. Ông niêm thơ và sai người đi gởi rồi, ông mới rảnh trí mà đi đo đất.
Lúa cấy xong rồi hết. Vợ chồng Hương sư Cu rảnh rang nên bàn tính với nhau bữa nào mướn một cái xe lô – ca – xông rồi mời vợ chồng Bưởi về Gò Công thăm Kinh lý Hai và Ba Rạng chơi một chuyến. Mới tính bữa trước, kế bữa sau tiếp được thơ của quan Kinh lý. Hương sư không biết chữ, nên sai đứa ở, ra đường đón học sanh đi học về mà mượn học trò vô nhà đọc thơ giùm. Học trò mở phong thơ ra mà đọc như vầy: “Con trọng kính gởi lời về thăm cha với má, sau thăm cậu Hai mợ Hai và mấy anh mấy chị hết thảy được mạnh. Con ở trên này làm việc bình an như thường.
Trong mấy bức thơ trước, con đã có thưa cha với má hiểu cách ăn ở của con trên này. Tuy con ở tại nhà việc của làng mà con ăn cơm tháng của người ta nấu, song thân con cũng sung sướng thong thả chẳng có sự chi nhọc lòng, vậy xin cha với má đừng lo cho con!
Hôm nay con viết thơ này gởi cho cha với má là vì con có một việc riêng cần phải tỏ cho cha má hay. Số là từ ngày con lên ở tại làng Vĩnh Lợi, con có quen với vợ chồng Hương chủ Khanh. Hai vợ chồng đều trọng mà lại thương con lung lắm. Bà chủ Khanh là con của ông Cai tổng Hiếu mà vợ chồng ông Cai tổng khuất đã lâu rồi, bây giờ bà còn người anh cả, là thầy Hội đồng Nghĩa có hai người con gái, người lớn đã có chồng rồi, còn người nhỏ mới 17 tuổi chưa có chồng.
Bà chủ Khanh thấy con chưa vợ nên bà muốn làm mai cháu của bà, là cô 17 tuổi đó cho con. Con thưa thiệt với cha má, con đã ngó thấy cô nọ rồi, còn vợ chồng thầy Hội đồng Nghĩa muốn gả con đến nỗi chưa có gì mà đã tỏ ý hễ con cưới vợ rồi thì mua xe hơi cho con và ngày sau sẽ để sự nghiệp lại cho con chớ không chia cho người rể lớn. Không phải con nghĩ nghe nói xe hơi hay là gia tài đó mà ham, bởi vì nhân nghĩa mới đáng quý chớ đồ đó theo con thì không quý gì. Nhưng mà con nghĩ vợ chồng thầy Hội đồng Nghĩa là người giàu có tử tế, còn người con gái ấy con coi cũng xứng với con, bởi vậy con tưởng nếu con cưới vợ chỗ này, thì không lẽ con đến nỗi vô phước.
Tuy vậy mà áo mặc sao qua khỏi đầu, bề nào con cũng chờ lịnh cha với má. Con xin cha má nghĩ coi như được thì con mời cha má lên trên này ở chơi ít bữa đặng định cuộc tóc tơ cho con, còn như cha má không bằng lòng thì cũng xin trả lời cho con biết.
Con suy nghĩ cẩn thận rồi con mới viết bức thơ này, nếu con còn có điều chi lầm lỗi thì con xin cha má dung thứ.
Sau chót con kính dưng cha má bốn chữ: Khương, ninh, phước, thọ.
Nghe đọc dứt bức thơ rồi vợ chồng Hương sư Cu nhìn nhau trân trân, không biết sao mà nói được. Hương sư ngẫm nghĩ một hồi rồi gãi đầu mà nói:
– Vợ chồng mình vui vẻ hơn 20 năm rồi, bây giờ trót biểu mình chịu buồn rầu thì mình phải chịu chớ chạy đâu cho khỏi. Mình tính giấu nhẹm việc xưa, mà trời biểu phải đem ra, thì mình phải vưng chớ cãi sao được.
Bà Hương sư lau nước mắt rồi sai một đứa ở chạy đi mời Cai tuần Bưởi. Cai tuần Bưởi nghe em mời gấp thì lật đật đi liền. Thị Tố muốn biết coi việc gì cũng đội khăn đi theo chồng.
Hương sư thấy anh với chị bước vô cửa thì lắc đầu nói:
– Việc nhà tôi rối lắm, anh Hai chị Hai ôi!
– Tại sao mà rối?
– Tôi mới được thơ của thằng Hai nó gởi về nó nói vợ chồng cậu Hai Nghĩa muốn gả con cho nó. Nó thấy con gái của cậu Hai Nghĩa nó cũng đành rồi, nên nó xin vợ chồng tôi lên coi rồi nói mà cưới cho nó.
– Ủa! Nếu vậy thì ngộ lắm chớ, có gì đâu mà rối. Hồi nào họ hủy bạc nó, bây giờ mình cho nó lộn vào nhà họ chơi.
– Nói như anh vậy sao được!
– Sao lại không được? Con của dượng làm tới chức Kinh lý, chớ phải tầm thường sao. Còn dượng làm tới chức Hương sư rồi, nay mai đây dượng sẽ lên Chủ. Cả hai vợ chồng dượng đứng làm sui với vợ chồng cậu Hai Nghĩa lại không xứng đáng hay sao? Làm sui như vầy mới ngộ chớ, chịu đi, đừng dục dặc chi hết. Dượng nghe lời tôi đi mà.
Thị Tố nghe chồng nói vậy, chị ta liền tiếp theo mà xúi:
– Ờ, nhà tôi nói đó phải lắm đa, dượng Tư. Người ta muốn gả, mình sợ nỗi gì mà không dám cưới. Không biết cậu Hai Nghĩa con đông hay không?
Hương sư đáp:
– Trong thơ thằng Hai có nói cậu có hai đứa con gái mà thôi, con lớn có chồng rồi, bây giờ cậu muốn gả con nhỏ.
– Được lắm! Ngày trước cậu thấy mẹ con thằng Hai nghèo, cậu không nhìn nhận thằng Hai là con. Bây giờ mình phải cho nó vô đó đặng hưởng gia tài của cậu chớ. Gia tài đó là gia sản của nó, dại gì mà để người khác hưởng cho uổng.
– Chị cứ lo về phía tiền bạc hoài. Người phải mới quý, chớ tiền bạc mà quý gì đó, chị Hai. Phải mà vợ chồng tôi ham tiền bạc, hồi trước vợ chồng tôi lấy tiền rồi giao thằng Hai cho cô Ba Nhân, thì bây giờ vợ chồng tôi làm sao có con sang trọng làm tới chức Kinh lý đó.
– Dượng nói kỳ quá, tiền bạc sao lại không ham. Mà trong việc này mình ham tiền bạc, mình có quấy đâu. Dượng nghĩ kỹ mà coi theo thói thường cậu Hai Nghĩa phải nhìn thăng Hai rồi cậu chia cho nó một phần ăn. Cậu không thèm nhìn, nghĩa là cậu muốn cất phần ăn của nó. Bây giờ trời khiến cậu muốn gả con cho nó, nghĩa là trời biểu cậu phải trả phần ăn cho nó chớ gì. Dượng chịu là dượng vâng theo ý trời mà đòi phần ăn cho con dượng, có tham lam chi đâu mà dượng ngại.
– Vợ chồng tôi tuy không giàu, song cũng có chút đỉnh để cho con. Đã vậy mà con tôi nó làm quan rồi, bề nào nó cũng không đến nỗi đói rách. Nó có cần gia tài của ai làm chi.
– Dượng nói như vậy cũng phải. Nhưng ý tôi muốn thằng Hai cưới con cậu Hai Nghĩa đă.ngngười biết chuyện cũ họ cười cậu chơi. Hồi trước cậu không chịu nhìn nó là con, bây giờ nó cũng kêu cậu bằng cha được vậy. Dượng với cô Tư nghe lời vợ chồng tôi mà chịu đi.
Hương sư Cu dòm thấy vợ ngồi mặt mày buồn xo, thì nói:
– Việc này khó lắm, thôi để thủng thẳng rồi sẽ tính.
Vợ chồng Cai tuần Bưởi về rồi, Hương sư Cu mới hỏi vợ:
– Con nó gửi thơ nói như vậy, má nó liệu lẽ nào? Sao nãy giờ ngồi lặng thinh, không nói chi hết?
– Tôi biết nói sao bây giờ. Mình liệu thế nào phải thì thôi. Nhưng mà tôi xin mình đừng có nghe lời anh Hai, chị Hai lắm không được. Mình nghe hơi ảnh chỉ nói hồi nãy đó thì mình biết ảnh ham danh vọng còn chỉ chuộng gia tài, chớ không kể phải quấy chi hết.
– Tôi biết lắm chớ sao lại không biết. Nãy giờ tôi suy nghĩ gần bể trí khôn. Nếu mình để cho thằng Hai nó cưới con của cậu Hai Nghĩa thì mình làm cho anh em một cha mà lấy nhau; tội ác đó to lắm, ngày sau thằng Hai nó biết được nó còn coi tôi với mình ra giống gì nữa. Mà nếu mình ngăn cản, không cho nó cưới, nó hỏi tại duyên cớ nào mà mình cản, thì mình nói làm sao. Nếu nói thiệt thì còn gì là tình con thương yêu cha, còn gì sự con kính trọng mẹ. Ý hị! Vợ chồng mình có tội lỗi gì sao trời khiến cho gia đạo phải rắc rối như vầy không biết! Mình mong có một lòng thương con mà coi dèo trời không cho mình thương!
Ông nói dứt lời rồi ông ngồi khoanh tay thở ra. Bà lau nước mắt mà nói:
– Thà là tôi chịu hổ thẹn với con, chớ tôi không nỡ để cho con phạm tội loạn luân đâu.
Ông gật đầu nói:
– Má nó nghĩ như vậy là phải lắm. Tôi cũng vậy; thà là tôi mất con, chớ muốn con còn mà phải để cho nó lấy em nó như vậy sao được. Mà vợ chồng mình ở nhà bàn tính lăng xăng mệt bụng vô ích. Con mình nó có hiếu lắm. Má nó nhớ lại coi, cách mấy tháng trước mình biểu nó coi chỗ nào được thì mình nói mà cưới cho nó. Nó không chịu, nó nói hễ mình bằng lòng chỗ nào thì nó chịu chỗ nấy, nó để quyền ấy cho mình chớ nó không dám lựa chọn. Vậy tôi nói với má nó phải lên Gò Công trước thăm con, sao kiếm thế mà bắt bẻ con của cậu Hai Nghĩa. Không biết chừng mình cản nó được khỏi nói thiệt việc xưa cho nó biết.
– Bề nào mình cũng phải lên mà nói cho giáp mặt, chớ gửi thơ không tiện. Nhưng mà tôi đi khó lắm, tôi muốn mình đi một mình.
– Phải đi cho đủ vợ chồng chớ.
– Không phải tôi sợ thất công. Tôi không muốn đi là vì tôi sợ lên đó dần lân, rủi bể chuyện rồi tôi hổ thẹn với con quá, tôi chịu không nổi.
– Má nó nói như vậy, thì tôi phải đi một mình chớ biết làm sao.
– Sáng mai mình mướn một chiếc xe hơi mà đi. Đi vài ba bữa mình về, tốn hao chừng năm bảy chục hoặc một trăm, chớ bao nhiêu đó mà hà tiện.
Hương sư Cu nghe lời vợ, chiều lại lên chợ Hòa Bình mướn một cái xe hơi lô – ca – xông. Chủ xe chịu đi mỗi ngày tính 12 đồng, tiền mua dầu, xăng, nhớt, về phần người mướn chịu. GIá cả định xong rồi mới hẹn nhau sáng bữa sau xuống Vĩnh Mỹ mà rước.
Vợ chồng Cai tuần Bưởi hay Hương sư Cu mướn xe hơi đi lên Gò Công, thì đòi đi theo, đặng về thăm quê quán, vợ chồng Hương sư Cu không lẽ dám ngăn trở, nên phải cho đi, song cứ theo căn dặn lên gặp Kinh lý Hai thì phải giấu, chớ đừng thổ lộ chuyện xưa. Thị Tố gật đầu đáp:
– Vợ chồng tôi nói chuyện nghe chơi vậy thôi. Việc nhà của dượng tính thế nào tự ý dượng, ai xía vô làm chi.
Sáng bữa sau xe hơi đem xuống nhà, Hương sư Cu từ giã vợ rồi lên xe mà đi với vợ chồng Cai tuần Bưởi. Thị Tố được về quê quán mà thăm em lại về bằng xe hơi thì chị ta đắc ý lắm, bởi vậy đi dọc đường chị và nói chuyện không dứt tiếng; chị ta chê bà Hương sư nhút nhát không dám về mà đứng làm sui đặng lấy gia tài lại cho Kinh lý Hai. Ông Hương sư phải giải lợi hại về luân lý, tình nghĩa cho vợ chồng Bưởi nghe. Bưởi hiểu nên không dám đốc làm việc quấy nữa; còn Thị Tố tuy cũng không hiểu, nhưng không biết chị ta cố oán vợ chồng cậu Hai Nghĩa hay là chị ta muốn cho Kinh lý Hai hưởng gia tài của bà Cai Hiếu mà chị ta không chịu nghe, cứ nói Kinh lý Hai phải cưới con gái của cậu Hai Nghĩa mới hiệp ý trời.
Vì trên xe đã có bàn soạn trước rồi, và Hương sư Cu nghĩ ở nhà việc khó nói chuyện riêng được, nên xe lên tới ngã ba vô chợ Giồng Ông Huê thì Hương sư Cu biểu sốp – phơ quẹo vô chợ đặng rước Kinh lý Hai rồi sẽ trở ra nhà Ba Rạng mà trù liệu.
Xe vô nhà việc Vĩnh Lợi thì đã 4 giờ chiều. Bữa ấy ông Kinh lý Hai có hẹn ăn cơm bên nhà Hương chủ Khanh nên đi đo đất về tắm rửa thay áo đổi quần sửa soạn mà đi. Thình lình ông nghe xe hơi ngừng ngoài cửa, ông dòm ra ngó thấy cha với cậu mợ thì lật đật chạy ra mừng. Ông mời hai người vô nhà việc, mừng rỡ lăng xăng và hỏi cha:
– Sao má không lên chơi vậy cha?
– Má con ể mình nên không đi được.
– Má đau sao? Đau nhiều hay ít?
– Nhức đầu sổ mũi chút đỉnh, vài bữa thì hết, không sao đâu.
– Cha có được thơ của con hay không?
– Có. Cha được thơ của con hôm qua, nên cha mướn xe đi đây.
– Con ở nhà việc lôi thôi quá. Để con biểu bầy trẻ sửa soạn mua đồ đặng dọn cơm cho cha với cậu mợ ăn.
– Không. Cha không ăn cơm đâu. Cha đi thẳng vô đây là vô đặng rước con ra ngoài làng Bình Phú Tây chơi. Để ra ngoải rồi sẽ ăn cơm.
– Ra nhà ai? Cha có quen với ai ở đó hay sao?
Thị Tố cười và rước mà đáp:
– Mợ có người em ruột ở ngoải.
– Vậy hay sao? Trời ơi. Sao mà từ hồi nào cho tới bây giờ mợ không nói cho cháu biết.
– Thằng em của mợ có nghèo, nên nói cho cháu biết làm chi.
– Bà con mà nghèo giàu lại sao.
– Thôi cháu sửa soạn đặng đi. Ra đó biểu nó làm gà làm vịt dọn cơm ăn. Ra ngoải chơi, chớ ở đây nói chuyện giống gì được.
– Chiều nay ông Chủ trong làng mời cháu ăn cơm. Cháu có hẹn lỡ rồi; vậy để cháu viết ba chữ mà từ rồi cháu đi mới được.
Ông Kinh lý vô phòng lấy giấy viết ít chữ rồi sai một tên dân canh nhà việc cầm qua nhà mà đưa cho Hương chủ. Việc ấy xong rồi ông mới đội nón lên xe đi với cha và cậu mợ ra làng Bình Phú Tây.
Ba Rạng có một miếng đất, lại vợ chồng biết chuyện và lo củi đục làm ăn nên bề gia tư tuy chưa được “tiếng giàu”, song cũng đã được tiếng “có ăn”. Nhà cũng còn ở tại chỗ cũ, cũng lợp lá, nhưng mà cất bằng cột giông kê tán, cửa ván, vách bổ kho, trong nhà có tủ áo, có ván gỗ hẳn hòi, coi thảnh thơi hơn xưa nhiều lắm. Ba Rạng biết chữ Quốc Ngữ khá, nên làng có cử làm Hương chức, ban đầu làm Chánh lục bộ lần lần rồi lên tới chức Hương giáo. Tuy năm nay đã nghỉ, không can dự đến việc làng nữa, song người trong làng cũng còn do chức cũ mà kêu là Hương giáo Rạng hoài.
Xe hơi ra tới Bình Phú Tây, vừa mới ngừng, thì Thị Tố bươn bả chạy vô nhà. Vợ chồng Hương giáo Rạng thấy chị thì mừng rỡ hết sức, lật đật bước ra sân mà tiếp khách. Vợ Hương giáo Rạng ứa nước mắt mà nói:
– Dữ quá! Đi hơn 20 năm mới về thăm! Sắp nhỏ ở dưới mạnh giỏi hết hả? Sao cô Tư không về chơi vậy chị Hai?
Hương giáo Rạng thấy Kinh lý Hai y phục đoan trang không biết là ai, nên ngó Cai tuần Bưởi mà hỏi:
– Thầy đây là ai?
– Con của con Tư đó đa.
– Té ra mông – xừ Hai đây sao? Dữ hôn! Bây giờ tới bây lớn lận?
– Nó đi học, bây giờ nó làm quan Kinh lý. Nó ở trong chợ Giồng nó đo đất xưa rày.
– Vậy hay sao? Phải. Tôi nghe có quan Kinh lý xuống ở trong chợ Giồng đo đât mà tôi có dè mông – xừ Hai đâu. Bất nhân quá! Sao anh không gởi thơ cho tôi hay?
Cai tuần Bưởi nheo mắt lắc đầu mà không chịu trả lời, rồi bà con dắt nhau vô nhà. Thị Tố về được quê quán thì trong lòng khấp khởi, nói nói cười cười không ngớt, kêu ba đứa cháu ra mà coi đứa nào được bao lớn, hỏi thăm những người trong làng, trong xóm coi người nào mất người nào còn, hỏi Hương giáo Rạng còn làm làng hay không, rồi lại khoe việc làm ăn của mình và của vợ chồng Hương sư Cu ở dưới Vĩnh Mỹ.
Vợ chồng Hương giáo Rạng nghe bà con đi xa đều khá hết thì trong lòng mừng không kể xiết nên cứ theo hỏi việc này tóm thuật việc kia hoài. Cai tuần Bưởi phải chận mà hỏi:
– Này mợ Ba, tụi này chưa ăn cơm đa. Mợ phải biểu bầy trẻ nấu cơm ăn, rồi có sức sẽ nói chuyện.
Vợ chồng Hương giáo Rạng cười ngất rồi bỏ chạy xuống nhà dưới hối con bắt nước làm vịt nhóm lửa nấu cơm. Thị Tố đi thteo xuống nhà dưới nói chuyện om sòm, mỗi người đều có sắc vui, duy Hương sư Cu có hơi lo ra và Kinh lý Hai hơi bợ ngợ.
Lúc ấy mặt trời đã khuất dạng. Cai tuần Bưởi ra đứng trước cửa rồi kêu Hương sư vừa chỉ vừa nói:
– Dượng Tư, hồi trước nhà tôi cất chỗ đó phải không dượng?
Hương sư Cu gật đầu mà thôi, chớ không nói chi hết.
Hương giáo Rạng hỏi Bưởi:
– Chú Ba Cam bây giờ chú còn ở trên Sài Gòn hay không, anh Hai?
– Nó chết lâu rồi.
– Ủa, bao giờ vậy mà tôi không hay chớ.
– Mấy bức thơ gởi cho cậu, tôi không có nói chuyện đó hay sao?
– Không.
– Nếu vậy thì tại tôi quên.
– Tôi ưa chú Ba Cam quá. Chú xử sự thiệt là đúng. Mấy vết dao của chú từ hồi đó cho tới năm nay mà thẹo cũng còn hoài.
Hương sư liếc mắt khoát tay. Hương giáo Rạng hiểu ý nên ngó Kinh lý Hai rồi nói bắt qua chuyện khác.
Qua 8 giờ mới dọn cơm cho khách ăn. Bữa cơm duy có thịt vịt luộc nấu cháo với thịt gà, thứ xào mặn, thứ nấu ca – ri chớ chẳng có vật chi quý, nhưng mà phần thì đói bụng, phần thì gặp nhau vui mừng nên khách ăn coi ngon lắm.
Cơm nước xong rồi, Hương sư Cu nói với Hương giáo Rạng:
– Tôi về đây trước thăm anh chị, sau nói chuyện riêng với con tôi một chút.
– Được, được. Dượng muốn nói chuyện với quan Kinh lý thì cứ nói đi. Nhà tôi cũng như nhà dượng, đừng ngại chi hết.
Hương sư chau mày mà nói với con:
– Này con, cha được thơ con hôm qua, cha sợ con trông nên cha lật đật mướn xe lên đây. Chuyện con nói đó cha với má con liệu không được. Cưới vợ xa xôi quá không tiện. Cha với má con đã có lựa con thầy Ban Biện dưới Cà Mau cho con rồi, đợi có dịp con về, cha dắt con đi coi cho giáp mặt, hễ con đành, thì cha nói mà cưới liền.
Kinh lý Hai ngó sững cha, thấy cha vừa nói vừa day mặt chỗ khác, lại coi bộ buồn lắm, thì ông ngẩn ngơ ngẫm nghĩ một hồi rồi nói:
– Con đã có thưa với cha má, việc cưới vợ cho con, cha má định nơi nào con cũng chịu hết, con không dám cãi. Cha chê trên này xa cha tính để cưới dưới Cà Mau cho gần, cái đó cũng phải. Nhưng mà theo ý con nghĩ đời nay dưới sông thì tàu bè, trên bờ thì xe hơi xe lửa, không có chỗ nào mà xa hết. Chỗ này coi bộ người ta thương con lung lắm, mà con nhắm cô nọ cũng xứng với con, tại vậy đó nên con mới gởi thơ cho cha và má.
– Không được đâu con. Con phải nghe lời cha mẹ.
– Thưa cha, con đâu dám cãi, cha với má biểu chết con cũng vâng lời nữa. Nhưng mà con không hiểu tại sao cha với má chưa biết nhà, chưa thấy mặt người ta, mà cha với má lại nói không được.
– Cha với má con muốn con cưới con thầy Bang Biện ở dưới Cà Mau cho gần, chớ có tại sao đâu.
– Dầu cưới con ai cũng vậy, hễ cưới rồi thì dắt con đi, chớ có ở nhà đâu mà cha với má lựa gần chê xa.
– Ý má của con muốn làm sui ở dưới mình cho dễ.
– Ở trên này người ta cũng dễ lắm. Họ nói hễ cha với má đành thì họ cho cưới một lễ, không đòi lễ vật chi hết.
– Tại sao mà con muốn cưới vợ chỗ đó dữ vậy?
– Con xin thưa thiệt với cha vì con thấy tánh tình vợ chồng thầy Hội đồng con mến, mà con thấy cô nọ con cũng thương lỡ rồi.
Hương sư nghe mấy lời ấy chẳng khác nào sét đánh bên tay. Ông giựt mình, ông la “ý “, ông ngó con trân trân, mặt ông biến sắc, nước mắt chảy rưng rưng. Kinh lý thấy bộ cha như vậy thì lo sợ, nên đứng dậy thưa rằng:
– Thưa cha, con không dè việc con làm đó mà đến nỗi phiền lòng cha. Vậy con cúi xin cha tha lỗi cho con.
Hương sư Cu lắc đầu, day mặt vô trong, không nói chi hết.
Kinh lý Hai lấy làm ái ngại không biết liệu lẽ nào, nên bước trái ra ngoài sây chắp tay sau lưng đi lên đi xuống mà suy nghĩ.
Thị Tố ngồi nghe cha con Hương sư nói chuyện nãy giờ chị ta ngứa họng lắm, ngặt vì Hương sư đã có dặn trước nên chị ta không dám hở môi. Bây giờ chị ta thấy Kinh lý Hai bước ra ngoài sân, lén kêu Kinh lý mà nói nhỏ:
– Cha cháu bày đặt chuyện, chớ không có con Bang Biện nào hết. Cháu cứ đòi riết tự nhiên cha má cháu phải cưới chỗ này cho cháu. Mợ biết vợ chồng thầy Hội đồng Nghĩa nhiều lắm, người ta giàu có xứng đáng quá, còn chê nỗi gì?
Kinh lý Hai đương buồn, đương tức, mà nghe mấy lời của Thị Tố thì lấy làm kỳ. Tại sao cha mẹ mình không chịu mà mợ dâu mình lại đốc vô? Tại sao cha mình lại dối mình sự con Bang Biện làm chi vậy? Ông suy nghĩ hết sức mà tìm không ra nổi. Ông trở vô nhà, thấy cha ngồi buồn hiu, thì lấy làm bực bội trong trí chịu không được, nên rón rén thưa cha:
– Thưa cha, xưa rày con tưởng cưới vợ đặng làm cho vui lòng cha mẹ, chớ con không dè cưới vợ mà phải làm cha mẹ buồn như vậy. Nếu cha mẹ không muốn thì thôi, con cưới chỗ khác. Thà là con chịu buồn, chớ con không nỡ để cha mẹ vì con mà buồn. Nhưng mà con nghĩ chắc tại duyên cớ chi đây nên cha với má mới không chịu nói mà cưới con gái của thầy Hội đồng Nghĩa cho con. Con đã nên người rồi, nếu có chuyện chi, xin cha tỏ thiệt cho con hiểu. Nãy giờ con thấy cha buồn, thì con buồn lắm. Nếu cha giấu con thì cha buồn hoài, rồi con làm sao mà vui được.
Hương sư Cu chau mày đáp:
– Nếu cha có sự chi mà muốn giấu con, ấy là vì cha thương con, chớ thiệt cha không có ý chi khác.
– Cha nói như vậy thì càng thêm giục lòng con phải năn nỉ mà xin cha tỏ thiệt sự che giấu con đó cho con biết.
Hương sư Cu bổn tâm đã muốn tỏ thiệt cội rễ của con cho nó biêt từ ngày con thi đậu, nhưng vì ông sợ phạm danh giá của vợ nên ông phải nín khe. Hôm nay gặp cảnh rất rắc rối, mà con lại theo năn nỉ hoài, ông lấy làm khó liệu. Một đàng là danh giá của vợ, một đàng là cốt nhục của con, ông không biết bên nào là nặng. Ông đương bối rối, ông sực nhớ lời vợ nói:
– Thà tôi chịu hổ thẹn với con, chớ tôi không nỡ để cho con phạm tội loạn luân.
Ông bèn ngẫm nghĩ một hồi lâu rồi đáp:
– Sự cha giấu con đó nó can hệ đến danh giá nhiều người, nên cha không có phép nói.
– Con xin cha cho con biết coi người nào có phép nói, đặng con tìm đến mà hỏi, chớ để như vầy con chịu không được.
– Má con mới có phép nói.
– Má con ở dưới nhà, con làm sao đi về dưới nhà mà hỏi cho được bây giờ. Cậu Hai đây cũng như mẹ. Vậy cậu biết việc gì xin cậu làm phước nói giùm lại cho cháu hiểu.
Thiệt Cai tuần Bưởi muốn cho cháu cưới con Hội đồng Nghĩa đặng rửa hờn chơi chớ không có ý muốn phanh phui chuyện cũ, nhưng vì anh ta thấy cháu buồn bực năn nỉ quá, anh ta cầm lòng không được, nên nói:
– Chuyện xưa nếu nói ra thì cháu thêm buồn, chớ nói làm giống gì.
– Cháu đã lớn rồi, dầu buồn dầu vui cũng không hại gì. Buồn mà hiểu chuyện, chớ buồn mà không hiểu thì chịu sao nổi.
– Đã hai mươi năm nay cha mẹ cháu giấu cháu. Bây giờ cháu muốn biết, thôi để cậu nói phứt cho cháu nghe.
Cai tuần Bưởi bèn ngồi thuật hết đầu đuôi việc trước lại cho Kinh lý Hai nghe. Anh ta bắt đầu kể chuyện Hai Nghĩa ỷ quyền áp bức lấy Lựu cho đến đẻ Kinh lý Hai rồi bỏ không thèm nhìn, mà lại còn để cha mẹ với vợ hún hiếp bắt Thị Tố đóng trăng lấy ruộng lại và đuổi Bưởi phải dỡ nhà mà đi. Ba Cam rửa nhục cho em phải bị bắt giải Tòa. Cu là con nhà nghèo, mồ côi cha mẹ ra thân ở đợ mà có lương tâm, thấy Lựu đẻ mà đau thì giúp tiền mua thuốc, nghe Cam bị bắt thì ráng sức chung lo, đến sau vì tình nặng nghĩa đầy, không kể tiếng thị phi, xướng ra xin cưới Lựu làm vợ, chịu nhìn Hai làm con, cho Lựu khỏi tiếng hư, cho Hai có người nuôi dưỡng.
Cai tuần Bưởi thuật thiệt là kỹ nhưng mà có sơ sót chút nào thì Thị Tố xen vô mà nhắc, rồi chỉ rõ ràng mấy chỗ đê tiện của Nghĩa và mấy chỗ tử tế của Cu cho Kinh lý Hai nghe.
Kinh lý Hai nghe rõ chuyện xưa rồi thì ngồi trơ trơ như người không hồn không trí, cứ chống tay trên trán mà gục mặt xuống đất, chớ không nói một tiếng chi hết. Trong nhà lặng trang, ai cũng có ý chờ coi Kinh lý Hai biết gốc gác rồi chàng liệu lẽ nào. Hương sư đợi không được; ông bèn nói rằng:
– Tuy cha dốt nát, song cha cũng biết phải quấy chớ chẳng không. Ngày cha nói mà cưới má con thì má con vì con nên ái ngại. Cha có hứa: con không có cha, thì cha thế làm cha. Trót hai mươi năm trường cha giấu mà nuôi con, một là vì cha thương con, hai vì cha sợ má con buồn, nên cha không dám nói cho con biết. Ngày con thi đậu, cha nghĩ nếu giấu nữa thì cha quấy, nên cha tính tỏ căn nguyên của con cho con biết. Má con khóc lóc nói rằng nếu con biết việc xưa thì chắc con hết kính trọng má con nữa. Cha vì tình mẫu tử của con, nên cha phải nghe lời mà nín luôn. Cha không dè trời không muốn cho nhà mình được thảnh thơi yên ổn nữa, nên mới khiến cho có cái chuyện hôn nhân như vậy. Cha được thơ con thì cha với má con hết hồn hết vía không biết liệu lẽ nào. Nếu nói thiệt cho con biết thì bối rối đạo nhà, còn nếu a ý theo con thì mang tội đại ác là khiến cho con phải loạn luân. Má con không lên đây là tại sợ hổ mặt với con chớ không có ốm chi hết. Tại con năn nỉ hỏi hoài, cực chẳng đã cha phải nói thiệt cho con biết, chớ cha cũng hiểu hễ con biết rõ chuyện xưa thì chắc con bớt kính trọng má con mà cũng bớt thương cha như xưa rày nữa, cha có muốn nói làm chi đâu.
Kinh lý Hai ngước mắt lên, nước mắt chảy chan hòa, chàng ngó Hương sư Cu mà nói:
– Thưa cha, con biết được căn nguyên của con rồi thì con càng thương má, kính cha bằng mười hồi trước nữa. Người như cha má mà con không thương yêu kính trọng thì con có phải là loài người đâu. Chẳng nói tới công sanh thành của má, công dưỡng dục của cha làm chi, nội một sự cha má cản hôn nhân của con đây thì cũng đủ cho con thương yêu kính trọng đời đời kiếp kiếp.
Hương sư Cu động lòng nên ngồi rấm rứt. Kinh lý Hai cũng òa khóc theo. Hương giáo Rạng nãy giờ không dám can dự đến việc nhà của người ta, chừng thấy cha con cảm tình như vậy, thì mới dám xen vô mà nói:
– Người ở như dượng Hương sư thiệt là đáng kính phục lắm. Nếu không có dượng thì mông – xừ Hai làm sao mà được làm quan Kinh lý.
Kinh lý Hai sợ ngồi lâu nữa chẳng khỏi nghe người ta bình phẩm tới cử chỉ của cha đẻ mình, nên đứng dậy nói:
– Trời đã khuya khoắt. Con xin cha trở về chợ Giồng nghỉ với con. Con không dám mời cậu Hai mợ Hai, là vì con ở tạm nơi nhà việc nên không có giường hoặc ván xứng đáng mà tiếp khách. Mà cậu Hai mợ Hai lâu ngày mới gặp cậu Hương giáo, có lẽ muốn ở ngoài này nói chuyện nên con không dám mời.
Hương sư Cu muốn để cho con thong thả trí mà suy nghĩ việc riêng nên ông nói để cho ông ngủ ngoài này đặng đàm đạo chơi với Hương giáo Rạng. Ông kêu sốp – phơ mà biểu đưa Kinh lý Hai về Vĩnh Lợi; ông hứa ở chơi vài bữa và ông dặn chiều mai sửa soạn đặng ông vô rước đi xuống chợ Gò Công chơi.
Hương chủ Khanh tiếp được thơ của Kinh lý Hai xin lỗi không qua ăn cơm được, vì có cha ở dưới Bạc Liêu lên, nên phải đi ra Bình Phú Tây với cha. Ôgn kêu bà mà nói lại cho bà hay. Bà Chủ nghe nói thì mừng. Bà kêu chú dân canh đem thơ mà hỏi thì chú nói chú thấy khách đi xe hơi, một người đàn bà với hai người đàn ông. Bà lại hỏi vậy chớ có nghe ra Bình Phú Tây mà ra nhà ai hay không. Chú dân canh lắc đầu thưa không biết, rồi xá ông Chủ bà Chủ mà về.
Bà chủ Khanh ngồi suy nghĩ một hồi rồi nói:
– Kỳ dữ hôn! Ở Bạc Liêu mà quen ai ngoài Bình Phú Tây kia! Mình không hay thì thôi, chớ mình hay người ta lên mà mình không mời người ta qua nhà sao cho phải. Lên có đàn ông đàn bà đủ, chắc là người ta chịu rồi, nên lên đặng coi con Thục. Để sớm mai tôi đi với ông qua nhà việc mà mời hết qua đây, chớ để ở bên nhà việc rồi cơm nước đâu mà ăn.
Hương chủ gật đầu. Bà thấy chồng hiệp ý với bà thì bà cười và nói tiếp:
– Ông già của quan Kinh lý có xe hơi đó thấy không. Tôi nói dưới Bạc Liêu họ giàu lắm, chớ không phải như trên mình đâu.
Hai vợ chồng đều mừng, khách cáo từ không ăn cơm mà không phiền.
Sáng bữa sau vợ chồng Hương chủ Khanh sửa soạn rồi lối chừng 7 giờ 30 dắt nhau qua nhà việc. Trọn đêm ấy Kinh lý Hai nằm không nhắm mắt, cứ trăn trở mà suy xét việc đời hoài. Tuy vậy mà sáng ông lại thức dậy sớm nữa, rửa mặt thay đồ cũng như thường ngày. Phần thì mệt, phần thì buồn nên ông nhất định nghỉ đi đo đất một bữa.
Hai vợ chồng Hương chủ bước vô nhà việc không thấy ai hết, duy có một mình quan Kinh lý ngồi dựa bàn, chống tay lên trán, mặt buồn hiu. Quan Kinh lý lật đật đứng dậy chào hỏi nhắc ghế mời ngồi, coi bộ không được vui vẻ như trước.
Bà Chủ vừa ngồi xong thì bà hỏi:
– Nghe nói có ông bà dưới nhà lên, nên vợ chồng tôi lật đật qua thăm rồi mời qua nhà tôi nghỉ cho tiện. Ông bà đi đâu mà không thấy ở đây?
– Thưa không có má tôi lên. Cha tôi với cậu Hai mợ Hai tôi lên mà thôi. Cha tôi dắt đi ra ngoài Bình Phú Tây.
– Ra nhà ai đó vậy quan Kinh lý?
– Thưa, nhà của Hương giáo Rạng.
– Hương giáo Rạng ở xóm nào kia?
Quan Kinh lý mắc đi kêu người ta đem nước đãi khách. Hương chủ rước mà trả lời với vợ:
– Hương giáo Rạng ở gần ngã ba chợ Dinh, xóm phía bên tay trái đó.
Bà Chủ ngồi ngẫm nghĩ, chừng thấy quan Kinh lý trở lại, bà bèn hỏi tiếp:
– Ổng ở dưới nhà lên, vậy mà quan Kinh lý có thưa việc đó lại cho ổng hay rồi chưa?
– Thưa có. Tôi thưa rồi.
– Ổng định thế nào? Ông có tính bữa nào đi ra nhà anh Hội đồng chơi đặng thấy con nhỏ hay kông?
– Thưa, không được. Cha tôi không chịu.
– Ủa! Sao vậy?
– Thưa, cha tôi nói má tôi có hứa làm sui với thầy Bang Biện phía dưới Cà Mau rồi.
– Bất nhân dữ không! Làm lở dở công chuyện hết. Cha chả! Mấy làng gần đây họ đã hay hết trọi rồi, nếu mà việc không thành, anh Hai chị Hai tôi mang tiếng biết chừng nào, mà vợ chồng tôi cũng mắc cỡ với họ nữa. Báo hại quá!
– Hai ông bà có lòng thương tôi, thật tôi mang ơn nhiều lắm. Nhưng mà việc không thành là tại trời, chớ không phải tại tôi. Vậy xin hai ông bà thứ lỗi giùm cho.
Hương chủ nói:
– Vậy mới thấy căn duyên thiệt là trời định. Có người đến gần ngày cưới, mà không phải căn duyên, rồi ông trời khiến xa, tự nhiên phải xa nhau.
Quan Kinh lý cười gượng mà đáp:
– Ông Chủ nói nghe phải lắm. Không biết chừng ông trời khiến xa như vậy đó mà ổng cũng thương hại cả hai đàng.
Bà Chủ ngồi buồn xo. Cách một hồi lâu bà thở ra mà than:
– Cha chả! Con nhỏ nó hay đây chắc là nó rầu lắm. Bộ nó thương quan Kinh lý quá, biết nói làm sao với nó bây giờ.
Bà Chủ ngẫm nghĩ thế nào không biết mà bà lại hỏi quan Kinh lý:
– Vậy chớ quan Kinh lý thưa với ông mà xin hồi ở dưới rồi cưới trên này không được hay sao?
– Sao cho được?
– Quan Kinh lý nói quan Kinh lý đã thương lỡ con nhỏ này rồi, sao lại không được?
– Tôi đâu dám như vậy. Làm con cái phải để cho cha mẹ định đôi bạn cho chớ. Hồi ban sơ tôi đã có tỏ sự ấy với bà; vậy bà quên hay sao?
Bà Chủ không biết dùng kế nào ép cho được nữa, bà cứ ngồi đó hoài không về. Bà hỏi chuyện dông dài một hồi rồi bà nói:
– Thôi, dầu việc thành hay là không thành cũng vậy, bề nào tôi cũng mời ông thân của quan Kinh lý với ông cậu bà mợ đến nhà tôi chơi cho biết, chừng nào ổng trở vô đây?
– Thưa, cha tôi không có nói. Tôi sợ không vô nữa.
Gần 10 giờ, hai vợ chồng Hương chủ mới từ mà về.
Bà Chủ gả cháu không được, bà ngồi không yên. Đến trưa bà xúi ông ra nhà Hương giáo Rạng làm quen với khách Bạc Liêu rồi mời vô nhà chơi. Ổng là người ít lời, ông không dám đảm nhận công việc khó khăn như vậy nên ông không chịu đi, bà cùng thế, bà không thèm kể lễ nghĩa chi nữa, nên bà kêu một cỗ xe ngựa bà đi với một con nhỏ ở.
Xe chạy tới ngã ba ra chợ Dinh, bà Chủ thấy có một cái xe hơi đậu dựa mé lộ, bà biết là xe hơi của khách Bạc Liêu. Bà ngừng xe dựa bên đường xe hơi mà hỏi thăm sốp – phơ, rồi bà leo xuống mà đi thẳng vô nhà Hương giáo Rạng.
Buổi sớm mai Hương sư Cu với vợ chồng Cai tuần Bưởi đi xuống Đập Ông Canh mà thăm mấy người quen cũ và viếng mồ mả ông bà cha mẹ. Về ăn cơm rồi, Thị Tố đội khăn đi dạo xóm chơi. Cai tuần Bưởi nằm trên võng dưới nhà dưới mà ngủ. Hương sư Cu với Hương giáo Rạng thì nằm ngang trên bộ ván giữa mà bàn luận chuyện đời. Hai người thấy bà Chủ Khanh sập dù bước vào cửa, không biết là ai nên lồm cồm ngồi dậy tiếp chào mà bộ coi bợ ngợ lắm.
Bà Chủ hỏi:
– Không biết phải nhà ông Hương giáo Rạng ở đây hay không?
Hương giáo Rạng gật đầu đáp rằng:
– Thưa phải. Nhà tôi, xin lỗi mà, không biết bà ở đâu lại?
Bà Chủ vừa cười vừa nói:
– Tôi là vợ Hương chủ Khanh ở trong chợ Giồng. Tôi nghe quan Kinh lý nói có ông thân của ngài ở dưới Bạc Liêu lên, nên tôi kiếm đặng thăm cho biết phải ông hay không?
Hương sư Cu nghe xưng là vợ Hương chủ Khanh, ông ngó kỹ lại thiệt quả là cô Ba Nhân, bây giờ tuy lớn tuổi hơn trước, xong gương mặt coi cũng không khác cho lắm. Ông liền cúi đầu đáp:
– Thưa, phải. Tôi là cha của Kinh lý Hai. Té ra cô là cô Ba, con của bà Cai mà. Vì tôi bỏ xứ đi hai mươi mấy năm rồi, tôi không có dịp gặp cô nữa nên gặp thình lình quá tôi quên, vậy xin cô tha lỗi, mời cô Ba ngồi.
Bà Chủ chưng hửng, không biết cha của quan Kinh lý ở Bạc Liêu mà sao lại biết mình. Bà đứng nhìn ông trân trân rồi hỏi:
– Ông biết tôi hay sao?
– Thưa, tôi biết lắm. Cô cũng biết tôi nữa chớ, tại lâu quá nên cô quên.
– Ông nói kỳ dữ hôn!
– Thưa, tôi nói thiệt chớ. Hồi nhỏ tôi ở dưới Đập Ông Canh chớ đâu, chừng tôi cưới vợ rồi tôi mới về chỗ này đây. Cô nhớ lại coi, cách hai mươi năm về trước, cô có ghé tại nhà này mà hỏi thăm vợ chồng tôi. Hồi đó tôi ở cái nhà lá nhỏ phía sau đây. Kinh lý Hai mới được chín mười tháng. Tôi bồng nó tôi ngồi trước cửa, cô bước vô hỏi rồi cô bồng nó; cô hỏi vợ chồng tôi đặng xin làm con nuôi, vợ chồng tôi không chịu cho, cô quên hay sao?
– Húy! Té ra quan Kinh lý là con của…
– Thưa, con của tôi. Hồi đó cô biểu vợ chồng tôi để cho cô nuôi, cô sẽ cho vợ chồng tôi hai ba trăm đồng bạc gì đó, vợ chồng tôi không chịu. Cô nhớ không?
– Té ra quan Kinh lý là con của… Lựu hay sao?
– Thưa, phải. Con của Tư Lựu, ở dưới Đập Ông Canh, cháu kêu Cai tuần Bưởi bằng cậu ruột.
Bà chủ Khanh biến sắc, bà ngồi sề nơi góc ván tay mặt, ngó ra ngoài sân, thấy bộ bà thì biết bà bối rối trong trí lung lắm. Hương sư Cu cắc cớ hỏi:
– Tôi về đây mới nghe nói bà Cai đã mất rồi. Bà mất hồi nào vậy cô Ba?
– Má tôi mất đã lâu rồi.
– Còn cậu Hai mợ Hai mạnh giỏi, cô Ba há?
– Mạnh.
– Dữ quá! Tôi đi gần 25 năm mới trở về đây. Tôi nghe trong bà con ai còn mạnh giỏi, tôi mừng hết sức.
Bà chủ Khanh liệu thế ngồi lâu người ta hỏi dần lân càng thêm thẹn thùa chớ không ích gì, nên bà đứng dậy cáo từ mà về. Hương sư Cu thấy bà bợ ngợ thì tội nghiệp không dám cầm bà ở chơi mà cũng không nỡ nói tiếng chi nữa hết.
Bà Chủ khi ra đi hăng hái bao nhiêu, thì bây giờ trở về bà cũng ngơ ngẩn bấy nhiêu. Khi mới về tới nhà, bà nói dối với chồng: ông thân của quan Kinh lý mắc đi chơi dưới chợ Gò Công, nên bà không gặp được. Nhưng mà tối lại, bà tỏ thiệt gôc tính của Kinh lý Hai cho chồng biết, rồi bà hỏi chồng vậy chớ có nên nói rõ lai lịch ấy cho vợ chồng thầy Hội đồng Nghĩa hiểu, hay là giấụ Hương chủ Khanh là người vô sự, không muốn lo tính việc chi hết mà ông nghe rõ đầu đuôi rồi ông chau mày nói:
– Việc này khó lắm, chớ không phải chơi đâu. Tưởng là ai kia, té ra ông Kinh lý với con Thục là anh em một cha mà cưới gả sao được. Hồi trước tôi nói với bà hay không hả? Tôi nói vợ chồng mình không có con, làm mai không có được. Bà cãi tôi, bây giờ bà thấy chưa? Còn bà tính nói thiệt anh Hai, chị Hai, cái đó không dễ đâu. Tánh chị Hai khó lòng lắm. Bà nói lậu ra cho chỉ biết đây chỉ làm giặc với ảnh cho mà coi. Bà phải kiếm chuyện nói cha mẹ ông Kinh lý đã nói vợ lỡ dưới Bạc Liêu cho ổng rồi. Như anh Hai có chất vấn lắm, thì nói thiệt cho một mình ảnh biết mà thôi, chớ đừng cho chị Hai với con Thục hiểu.
Bà Chủ khen chồng nói phải, nên bà tính bà sẽ làm theo ý chồng.
Chiều bữa đó Hương sư Cu đem xe vô chợ Giồng rước Kinh lý Hai đi Gò Công chơi với Hương giáo Rạng và Cai tuần Bưởi. Đêm ấy Kinh lý Hai ở ngủ nhà Hương giáo Rạng rồi sáng bữa sau Hương sư Cu với vợ chồng Bưởi trở về Bạc Liêu. Tánh Hương sư kỹ lưỡng, ông không muốn khêu cái buồn của con nên ông chẳng nhắc chuyện cũ nữa, mà ông cũng không chịu thuật chuyện bà Chủ Khanh ra Bình Phú Tây kiếm ông lại cho quan Kinh lý Hai nghe. Ông đưa Kinh lý Hai vô chợ Giồng rồi ông từ giã mà về. Kinh lý Hai nói:
– Cha với cậu mợ về dưới mạnh giỏi. Con kính gởi lời về thăm má con. Xin cha làm ơn nói giùm với má con đừng có buồn. Ngày nay con rõ được gốc tích của con rồi, con càng kính mến cha và thương yêu má gấp bội phần hồi trước. Thôi, cha về để lâu lâu con sẽ xin phép về thăm cha má.
Sốp – phơ mở máy cho xe chạy. Kinh lý Hai đứng ngó theo, hai hàng nước mắt chảy rưng rưng. Từ ấy Kinh lý Hai ban ngày lo làm việc, ban đêm nằm coi sách, không thèm đi chơi với ai nữa hết.
Bà Hội đồng muốn có rể làm quan Kinh lý quá, nên bà bôn chôn vô chợ Giồng hoài. Hôm trước bà nghe bà Chủ nói quan Kinh lý đã gởi thơ về Bạc Liêu rồi, nên bữa nay bà dắt con Thục vô có ý lóng nghe coi chai mẹ quan Kinh lý trả lời hay chưa. Bà đã có tánh thị đời, mà bà lại không thạo cách giao thiệp, bởi vậy bữa nay bà Chủ tiếp rước không được vui vẻ như mỗi lần trước, nhưng bà không hiểu, vừa mới ngồi thì bà nói ngay:
– Cô có nghe ông già bà già của quan Kinh lý trả lời hay chưa vậy cô Ba?
Bà Chủ giả không nghe, kêu trẻ lấy trầu chế nước cho khỏi trả lời câu ấy. Bà Hội đồng nói chuyện sơ sịa ít lời rồi cũng hỏi qua sự đó nữa. Bà Chủ không thể không trả lời nữa được nên bà nói:
– Dưới Bạc Liêu họ có lên.
– Có lên hay sao? Cô có mời họ bữa nào ra ngoài nhà hay không? Lên đủ hai ông bà hả?
– Không có. Lên có một mình cha của quan Kinh lý.
– Bộ đường xa quá bả đi không được chớ gì. Cô tính bữa nào mời ổng ra nhà?
– Ổng về mất rồi mà mời giống gì.
– Ủa! Sao vậy?
– Ổng lên nói với quan Kinh lý rằng ổng đã nói con Bang Biện nào ở dưới Cà Mau cho quan Kinh lý rồi…
– Hứ! Bậy dữ không?
Bà Hội đồng sững sờ không nói tiếng chi nữa được. Lúc ấy cô Tư Thục đương đứng gần đó, cô nghe rõ mấy lời của bà Chủ mới nói, thì cô cũng ngơ ngẩn bàng hoàng, nên đứng ngó bà Chủ trân trân.
Bà Chủ liếc thấy chị có sắc giận, cháu có sắc buồn, thì bà giả vui mà nói:
– Mình thương ổng, mà cha mẹ ổng không hay, nên nói vợ khác cho ổng thì thôi, có cần gì đâu. Thiếu gì chỗ khác còn tử tế hơn nữa. Con Thục, cháu đừng lo, gả cho quan Kinh lý không được, thôi để gả cho Trường Tiền, cho thầy thuốc, không biết chừng gả cho Huyện Phủ nữa đa! Đời này có tiền lo gì ế chồng.
Cô Tư Thục không trả lời, lại ngoe nguẩy bỏ đi lại cái cửa hông, đứng dựa cửa mà ngó mông ra vườn.
Bà Hội đồng vừa rọc rầu mà têm vừa nói rằng:
– Không phải mình sợ con mình ế chồng. Mình gả con bằng mười nữa, chớ vậy mà sang gì đó hay sao. Nhưng họ làm như vậy bỉ mặt mình quá, nếu họ không đành, thôi thì bữa cô khởi chuyện làm mai đó họ nói phứt chuyện đó đi, chớ sao lại gạt người ta rồi bây giờ kiếm chuyện mà hồi.
Bà Chủ đáp:
– Không phải tại quan Kinh lý đâu, chị Hai. Tại ông già bà già của ổng chớ.
– Nếu ổng thương con Thục, ổng không chịu chỗ nào hết, thì cha mẹ ổng ép ổng sao được. Vợ chồng tôi thấy người tánh nết dễ thương, nên mới chịu gả, chớ phải ham giàu ham sang gì đó hay sao mà họ làm núng. Thiên hạ đời nay thấy dễ ghét quá. Chắc là người ta nghe Bang Biện nào ở dưới đó giàu lắm người ta mê, nên người ta bỏ con Thục đó chớ gì?
– Đó là tại cha mẹ, chớ ổng có thấy ai đâu nên mình dám chắc ổng ham giàu.
– Thứ đồ dại nên mới chê con Thục. Tưởng đâu con Thục lôi thôi a. Phải, tôi có ít trăm mẫu điền, chớ tôi không có nhiều như họ ở dưới miệt Cà Mau. Mà ruộng tôi năm sáu trăm đồng một mẫu, chớ phải ruộng đồ bỏ như họ vậy đâu. Họ chê con Thục để họ cưới vợ khác coi bực nào.
– Ối! Mà gả con cháu đi xa quá, tôi nghĩ lại thiệt tôi cũng ngán. Ổng chê dó mình cũng cầu. Mình ít con ít cháu, thôi để kiếm chỗ nào gần gần mà gả, đặng đi thăm nom cho dễ.
Bà Hội đồng nói ít lời mà xả hơi giận, rồi bà từ mà về. Cô Tư Thục đội khăn theo mẹ mà bước lên xe, cặp mắt cô đỏ chạch
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.