Không biết rằng nàng không chỉ có một mình trong mê cung hun hút, Julianna chờ trong im lặng căng thẳng để hoàn toàn chắc chắn rằng mẹ nàng sẽ không quay trở lại. Một lúc sau nàng thở ra một hơi dài và ló mình ra khỏi nơi ẩn náu.
Vì mê cung này dường như là nơi trốn tránh tốt nhất cho nàng trong vài giờ tới, nàng rẽ trái và tha thẩn đi xuống con đường mở vào một khoảng trống hình vuông cỏ mọc cao um tùm xung quanh, ở giữa có một cái ghế dài bằng đá trạm trổ công phu.
Nàng buồn bã suy tính lại tình cảnh của nàng, tìm kiếm một cách nào đó để thoát khỏi cái bẫy nhục nhã và không thể chịu đựng được mà nàng đang vướng vào, nhưng nàng biết sẽ chẳng có lối thoát nào cho nàng khỏi sự ám ảnh mù quáng của mẹ nàng với việc muốn thấy Julianna cưới một người nào đó “thực sự có địa vị”– bây giờ, trong khi cơ hội tới. Từ trước tới giờ điều duy nhất ngăn cản mẹ nàng khỏi mục tiêu đó chính là thực tế không có một người theo đuổi “thực sự có địa vị” “đủ tư cách” nào tuyên bố chính thức trong suốt những tuần lễ Julianna có mặt ở London.
Không may là, ngay trước khi họ rời London để tới đây, mẹ nàng đã thành công trong việc mồi chài được một lời cầu hôn từ Ngài Francis Bellhaven, một hiệp sĩ già nua đáng ghét có làn da xanh xao vàng vọt, đôi mắt nâu lồi ra ngoài trông như là sắp rớt xuống cổ áo của Julianna, và đôi môi dày cộp nhợt nhạt không ngừng nhắc nàng nhớ tới một con cá vàng chết. Chỉ riêng ý nghĩ bị trói vào Ngài Francis cả một buổi tối, chứ chưa nói đến là cả phần đời còn lại của nàng đã không thể chịu đựng được rồi. Ghê tởm. Đáng sợ.
Thế không có nghĩa là nàng sẽ có bất kì lựa chọn nào khác trong vấn đề này. Nếu nàng muốn có một sự lựa chọn thật sự, thì trốn tránh ở đây khỏi tất cả những người theo đuổi tiềm năng khác mà mẹ nàng tóm được là điều cuối cùng mà nàng nên làm. Nàng biết điều đó, nhưng nàng không thể ép mình quay trở lại phòng khiêu vũ được. Nàng không muốn có một người chồng. Nàng đã mười tám tuổi rồi, và nàng có những kế hoạch khác, những giấc mơ khác, cho cuộc đời nàng, nhưng chúng chẳng liên quan gì đến những ước muốn của mẹ nàng và vì thế chúng không đáng quan tâm. Không bao giờ. Điều làm cho mọi chuyện còn đáng giận hơn nữa là mẹ nàng thực sự tin bà đang hành động vì lợi ích tốt đẹp nhất của Julianna và bà biết điều gì là tốt nhất cho nàng.
Mặt trăng ló ra khỏi những đám mây, và Julianna nhìn đăm đăm vào chất lỏng nhàn nhạt trong ly của nàng. Cha nàng nói rằng một chút brandy thì không hại ai cả, rằng nó sẽ làm dịu mọi sự đớn đau, cản thiện khả năng tiêu hóa, và chữa được mọi buồn khổ. Julianna do dự, rồi trong một cơn bùng nổ của chống đối và tuyệt vọng, nàng quyết định thử nghiệm cái lý thuyết sau. Nâng ly rượu lên, nàng kẹp chặt mũi lại, ngửa đầu ra sau, và uống liền ba ngụm lớn. Nàng hạ ly xuống, rùng mình và thở hắt ra. Và chờ. Chờ một niềm hạnh phúc bừng nở. Nhiều giây trôi qua, rồi một phút. Chẳng có gì. Tất cả những gì nàng cảm thấy là một chút yếu đuối nơi hai đầu gối và khả năng chống chọi lại những giọt nước mắt vô nghĩa đang ngân ngấn trong mắt nàng giảm đi.
Chiều theo tứ chi bủn rủn của mình, Julianna bước tới bên chiếc ghế đá và ngồi xuống. Chiếc ghế rõ ràng là đã được trưng dụng trước đó trong buổi tối hôm nay, bởi vì có một ly rượu vơi một nửa ở một đầu ghế và vài ly rỗng ở bên dưới nó. Một lát sau nàng uống thêm một ngụm rượu brandy nữa và nhìn vào trong ly, lắc đều chất lỏng màu vàng để cho nó sóng sánh trong ánh sáng trăng khi nàng xem xét cảnh ngộ của mình.
Nàng mong bà nàng vẫn còn sống biết bao! Bà sẽ đặt dấu chấm hết cho những hoang tưởng điên rồ của mẹ Julianna về việc sắp đặt một “đám cưới huy hoàng.” Bà sẽ hiểu Julianna căm ghét bị ép buộc phải làm đám cưới với bất kì người nào. Trên đời này, chỉ có người mẹ đáng tôn quý của cha nàng là người duy nhất từng hiểu được Julianna. Bà của nàng là bạn nàng, thầy nàng, người cố vấn của nàng.
Trên lòng bà Julianna đã học về thế giới, về con người; ở đó và chỉ ở đó thôi nàng đã được khuyến khích nghĩ cho bản thân mình và nói bất kể điều gì nàng nghĩ, bất kể nó có xấc xược và ngang tàng đến đâu. Đổi lại, bà của nàng luôn luôn đối xử với nàng ngang hàng, chia sẻ những triết lý đặc biệt của chính bà về bất kì điều gì và về mọi thứ, từ mục đích của Thượng Đế khi tạo ra trái đất tới những điều bí ẩn giữa đàn ông và đàn bà.
Bà nội Skeffington không tin rằng hôn nhân là câu trả lời cho giấc mơ của một người phụ nữ, hay thậm chí là đàn ông thì cao thượng và thông thái hơn đàn bà! “Thử nghĩ một chút đến đức ông chồng của chính bà mà xem,” bà nói với nụ cười trêu đùa một buổi chiều mùa đông ngay trước Giáng sinh năm Julianna được mười lăm tuổi. “Cháu không biết ông nội cháu, cầu Chúa phù hộ linh hồn ông ấy, nhưng nếu ông ấy có một bộ óc để suy nghĩ, thì bà chưa bao giờ thấy bằng chứng của nó. Giống như tất cả những bậc tiền bối của ông ấy, ông ấy không thể nào tính toán hai con số trong đầu và viết ra được một câu nào thông minh, và ông ấy còn kém nhạy cảm hơn cả một đứa trẻ đang bú mẹ.”
“Thật ạ?” Julianna hỏi, ngạc nhiên và hơi hoảng sợ bởi lời nhận xét không tôn trọng gì với một người đàn ông đã mất, người là chồng của bà nội nàng và là ông nội của Julianna.
Bà của nàng gật đầu nhấn mạnh. “Những người đàn ông nhà Skeffington đều như thế cả – những người cục mịch kém tưởng tượng, lười biếng, tất cả bọn họ.”
“Nhưng chắc chắn bà không thể nói Papa như thế được,” Julianna tranh cãi vì lòng trung thành. “Cha là người con duy nhất còn sống của bà.”
“Bà sẽ không bao giờ mô tả cha cháu là một người cục mịch,” bà nói không hề nao núng. “Bà sẽ nói nó là một thằng ngu!”
Julianna nuốt lại một tiếng cười khúc khích trước một câu nói dị thường như thế, nhưng trước khi nàng có thể nghĩ ra một lời bào chữa đúng đắn nào, bà nàng đã nói tiếp, “Mặt khác, những người phụ nữ nhà Skeffington lại thường thể hiện một kiểu trí tuệ hiếm có và tài tháo vát. Hãy quan sát kĩ hơn và cháu sẽ khám phá ra rằng thông thường những người phụ nữ mới là những người sống sót nhờ vào trí khôn và sự quyết đoán của họ, chứ không phải đàn ông. Đàn ông không hơn gì đàn bà trừ sức mạnh cơ bắp.” Khi trông Julianna có vẻ không chắc chắn lắm, bà nàng nói thêm một cách đỏm dáng, “Nếu cháu có đọc cuốn sách mà bà cho cháu tuần trước, cháu sẽ sớm nhận ra rằng phụ nữ không phải luôn luôn phụ thuộc vào đàn ông. Tại sao ư, thời cổ xưa, chúng ta đã có sức mạnh và được kính trọng. Chúng ta là những vị thần và nhà tiên tri và người chữa bệnh, với những điều bí mật của vũ trụ trong trí óc và món quà của cuộc sống trong cơ thể chúng ta. Chúng ta lựa chọn bạn đời, chứ không phải là ngược lại. Đàn ông đã phải xin ý kiến của chúng ta và quỳ mọp dưới chân chúng ta và ghen tị với sức mạnh của chúng ta. Tại sao, chúng ta nổi trội hơn họ về mọi mặt. Chúng ta biết điều ấy, và họ cũng đã biết điều ấy.”
“Nếu chúng ta thực sự thông minh hơn và tài năng hơn,” Julianna nói khi bà của nàng nhướn mày lên, tìm kiếm phản ứng cho mẩu thông tin gây sửng sốt ấy, “vậy thì làm thế nào mà chúng ta lại mất tất cả những sức mạnh và lòng tôn kính ấy và để mình bị phụ thuộc vào đàn ông?”
“Họ đã thuyết phục chúng ta rằng chúng ta cần sức mạnh cơ bắp của họ để bảo vệ chúng ta,” bà nói với một cảm xúc vừa oán giận vừa khinh bỉ. “Rồi họ “bảo vệ” chúng ta khỏi tất cả những đặc ân và quyền lợi của chính ta. Họ đã lừa chúng ta.”
Julianna cảm thấy hoảng sợ trước lý lẽ ấy, và lông mày nàng nhíu lại suy tư. “Nếu là như thế,” nàng nói sau một lúc, “thì họ không thể nào ngu đần như bà nghĩ. Họ phải rất thông minh, chẳng phải sao?”
Trong một giây bà nội nàng nhìn đăm đăm xuống nàng, rồi bà cười lục khục tán thưởng. “Ý hay đấy, cháu yêu, và là một ý tưởng đáng để xem xét. Bà nghĩ cháu nên viết ý tưởng đó xuống để cháu có thể nghiền ngẫm về nó nhiều hơn. Có lẽ cháu sẽ viết một cuốn sách của chính mình về việc làm thế nào mà những người đàn ông đã thực hiện cái hành vi lừa gạt tinh vi ấy với đàn bà trong suốt những thế kỉ qua. Bà chỉ hi vọng cháu sẽ không quyết định phí phạm trí tuệ và tài năng của cháu vào một gã dốt nát nào đó muốn cháu vì nhan sắc và cố thuyết phục cháu rằng giá trị duy nhất của cháu là ở việc sinh cho hắn ta những đứa con và chăm sóc những ước muốn của hắn ta. Cháu có thể làm nên điều khác biệt, Julianna. Bà biết cháu có thể.”
Bà do dự, như thể đang quyết định chuyện gì đó, rồi nói, “Điều đó mang chúng ta tới vấn đề tiếp theo mà bà muốn bàn với cháu. Lúc này dường như là lúc thích hợp nhất để nói.”
Bà nội Skeffington đứng dậy và đi đến bên lò sưởi ở bức tường đối diện trong căn phòng nhỏ ấm cúng, những cử động của bà chậm chạp vì tuổi tác, mái tóc bạc được buộc gọn lại thành một búi sau gáy. Đặt một bàn tay lên những cành cây thường xuân bà trang trí trên bệ lò sưởi, bà cúi xuống để cào than. “Như cháu đã biết, bà đã sống lâu hơn một ông chồng và một đứa con trai. Bà đã sống lâu, và đã chuẩn bị đầy đủ để kết thúc tháng ngày của mình trên mặt đất này bất kể khi nào thời khắc tới. Mặc dù bà sẽ không ở mãi đây với cháu, bà hi vọng sẽ đền bù cho điều đó bằng cách để lại gì đó cho cháu… một khoản thừa kế để cháu sử dụng. Nó không nhiều.”
Đề tài cái chết của bà nội chưa bao giờ được nhắc đến trước đó, và chỉ ý nghĩ mất bà thôi đã làm ngực Julianna thắt lại đau đớn.
“Như bà đã nói, nó không nhiều, nhưng nếu cháu hết sức tằn tiện, nó có thể cho phép cháu sống rất giản dị ở London trong vài năm trong khi cháu trải nghiệm cuộc sống nhiều hơn và mài dũa tài viết lách của cháu.”
Trong trái tim mình Julianna điên cuồng phản đối rằng sống mà không có bà nội là không thể được, rằng nàng không hề mong muốn đến sống ở London, và rằng giấc mơ chung của họ về việc nàng có thể thực sự trở thành một nhà văn nổi tiếng là không tưởng. Sợ rằng một cơn bùng nổ cảm xúc như thế có thể xúc phạm đến bà, Julianna ngồi yên trên chiếc ghế để chân trước mặt cái ghế bành căng phồng yêu thích của bà, trong lòng xáo trộn đầy cảm xúc mạnh mẽ, nhưng bên ngoài kiềm chế, bình tĩnh đọc lướt qua một cuốn sách. “Cháu không có gì để nói về kế hoạch của bà dành cho cháu ư, cô bé? Bà thì mong nhìn thấy cháu nhảy lên vui sướng. Thể hiện một chút nhiệt tình là nên làm trong trường hợp này để đổi lại những sự cần kiệm mà ta đã tích cực thực hiện những mong để lại cho cháu cái di sản nhỏ nhoi này.”
Julianna biết bà đang châm chọc, cố khơi gợi để nàng hoặc là đối đáp lại một cách khôn ngoan hoặc là bàn luận một cách kiềm chế. Julianna rất giỏi trong cả hai việc đó sau nhiều năm dài thực hành, nhưng nàng không có khả năng bàn bạc về cái chết của bà nàng với sự hài hước cũng như là nàng không thể bình tĩnh một cách vô cảm được. Hơn nữa, nàng cực kì bị tổn thương khi bà có thể nói về chuyện rời xa nàng mãi mãi mà không có một chút hàm ý hối hận nào.
“Bà phải nói là cháu không có vẻ biết ơn gì cả.”
Julianna vụt ngước đầu lên, đôi mắt màu tím của nàng long lanh với những giọt nước mắt giận dữ. “Cháu không biết ơn gì hết, Bà nội, cháu cũng không muốn bàn về chuyện này bây giờ. Đã gần đến Giáng Sinh rồi, đó là thời gian cho niềm vui –“
“Cái chết là một nhân tố của cuộc sống,” bà nàng chỉ ra ngắn gọn. “Thật vô ích khi co rúm lại sợ hãi nó.”
“Nhưng bà là toàn bộ cuộc sống của cháu,” Julianna òa ra khóc bởi vì nàng không thể ngăn mình được. “Và – và cháu không thích chút nào khi bà – khi bà có thể nói với cháu về tiền như thể nó là một tặng vật từ cái chết của bà vậy.”
“Cháu nghĩ bà lạnh lùng và nhẫn tâm?” “Vâng, cháu nghĩ vậy đấy!”
Đó là cuộc cãi vã đầu tiên của họ, và Julianna ghét nó.
Bà nàng nhìn nàng hiền dịu trong một lúc trước khi hỏi, “Cháu có biết bà sẽ nhớ điều gì khi rời khỏi mặt đất không?”
“Rõ ràng là chẳng có gì cả.”
“Bà sẽ nhớ một thứ và chỉ có một thứ mà thôi.” Khi Julianna không đòi giải thích, bà của nàng nói tiếp: “Bà sẽ nhớ cháu.”
Câu trả lời hoàn toàn đối lập với giọng nói vô cảm và nét mặt nghiêm trang của bà đến nỗi Julianna nhìn bà chằm chằm nghi ngại.
“Bà sẽ nhớ khiếu hài hước và sự tự tin và tài năng tuyệt vời của cháu trong việc nhìn thấy lý lẽ của cả hai phía về bất kì vấn đề gì. Bà sẽ đặc biệt nhớ việc được đọc những thứ cháu viết ra hàng ngày. Cháu đã là điểm sáng duy nhất trong sự tồn tại của bà.”
Khi bà nói xong, bà tiến lên phía trước và đặt bàn tay lành lạnh của bà lên má Julianna, gạt đi những giọt nước mắt chảy dài từ khóe mắt nàng. “Chúng ta là hai tâm hồn đồng điệu, cháu và bà. Nếu cháu được sinh ra sớm hơn nhiều, chúng ta có thể thành bạn tâm giao của nhau.”
“Chúng ta là bạn,” Julianna thì thầm quyết liệt khi nàng đặt bàn tay của nàng lên tay bà và dụi má nàng vào bàn tay ấy. “Chúng ta sẽ là bạn mãi mãi và mãi mãi! Khi bà… ra đi, cháu sẽ vẫn kể lể với bà và viết cho bà – sẽ viết thư cho bà như thể bà chỉ dọn đi mà thôi!”
“Thật là một ý tưởng thú vị,” bà nàng nói đùa. “Và cháu cũng sẽ gửi chúng cho bà chứ?”
“Tất nhiên là không, nhưng dù thế nào rồi bà cũng sẽ biết những gì cháu viết thôi.”
“Điều gì làm cháu nghĩ như thế?” bà hỏi, thực sự ngạc nhiên.
“Bởi vì cháu đã nghe bà nói với cha xứ rất rõ ràng rằng thật vô lý khi cho rằng Đấng Toàn Năng định để cho chúng ta nằm xuống ngủ mơ trong khi chờ đến Ngày Phán Quyết. Bà đã nói rằng, sau khi đã không ngừng cảnh cáo chúng ta rằng gieo nhân nào thì gặt quả ấy, Chúa chắc chắn sẽ bắt chúng ta phải chứng kiến những gì chúng ta đã gieo từ một tầm nhìn rộng lớn hơn rất nhiều.”
“Cháu yêu, ta không nghĩ thế là khôn ngoan khi cháu đặt nhiều lòng tin vào những khái niệm về mặt lý thuyết của ta hơn những lời giảng đúng đắn của cha xứ đâu. Ta không nên mong cháu phí hoài tài năng của cháu vào việc viết thư cho ta sau khi ta đã đi, thay vì viết gì đó cho những người còn sống đọc.”
“Cháu sẽ không phí hoài thời gian của mình,” Julianna nói với nụ cười tự tin, một trong những cuộc tranh luận thông thường của họ về những điều vụn vặn đã làm nàng thấy vui hơn. “Nếu cháu viết thư cho bà, cháu cực kì tin tưởng rằng bà sẽ xoay sở được cách để đọc chúng bất kể là bà đang ở đâu.”
“Bởi vì cháu tin bà có những quyền năng thần bí?”
“Không,” Julianna trêu, “bởi vì bà không thể từ chối không sửa lỗi phát âm cho cháu!”
“Nhóc con xấc láo này,” bà nổi quạu, nhưng bà cười lớn và những ngón tay bà mở ra, nắm lấy bàn tay Julianna trong một cái siết tay thật chặt, đầy yêu thương.
Năm sau đó, trong ngày lễ Noel, bà nội nàng qua đời, nắm lấy bàn tay Julianna một lần cuối cùng. “Cháu sẽ viết cho bà, bà ơi.” Julianna khóc nức nở khi đôi mắt bà nhắm lại mãi mãi. “Đừng quên theo dõi những bức thư của cháu. Đừng quên.