Mặt mũi trịnh trọng và không hề bộc lộ gì, họ trở lại căn hộ Camille và lại ngồi vào chỗ cũ. Hầu hết đều bỏ áo khoác lại trong căn phòng kia, và đều đã xắn tay áo lên, nới lỏng cavát, vẻ như đang đầu tắt mặt tối với công việc vậy. Theo đồng hồ của Sandy, họ đã vắng mặt tới gần một tiếng rưỡi. Lúc này, Sprawling là người phát ngôn của họ.
“Về chỗ tiền,” ông ta bắt đầu, và Sandy lập tức biết rằng họ đã có một thỏa thuận. Bây giờ chỉ còn là vấn đề chi tiết. “Thân chủ của ông muốn trả lại bao nhiêu?”
“Tất cả.”
“Tất cả số hiện có chứ?”
“Tất cả chín mươi triệu.”
“Còn lãi suất thì sao?”
“Ai lại quan tâm tới chuyện lãi suất cơ chứ?”
“Chúng tôi.”
“Vì sao?”
“Cũng chỉ là công bằng thôi.”
“Công bằng với ai?”
“Hả, với những người đóng thuế.”
Sandy thực sự đã cười phá lên. “Thôi đi nào. Các ông làm việc cho chính phủ Liên bang. Các ông lo lắng tới việc bảo vệ cho những người đóng thuế từ khi nào vậy?”
” Đó là chuẩn mực trong những vụ liên quan tới trộm cắp và biển thủ,” Maurice Mast nói chêm vào.
“Bao nhiêu hả?” Sandy hỏi. “Với tỉ lệ nào?”
“Cơ bản là chín phần trăm,” Sprawling nói. “Thế sẽ là công bằng, tôi nghĩ như vậy.”
“Thật là ông nghĩ vậy ư? Cơ quan thuế Liên bang trả lại bao nhiêu khi họ xác định là tôi đã phải nộp quá nhiều và hoàn thuế cho tôi hả?”
Không ai có thể trả lời. “Sáu phần trăm,” Sandy nói. “Sáu phần trăm tồi tệ đó là tỉ lệ mà chính phủ trả.”
Sandy, dĩ nhiên, đã tính toán trước điều này. Anh đã ngừa sẵn các câu hỏi và đã chuẩn bị những câu trả lời, và thật tức cười khi trông họ lúng ta lúng túng để cố mà theo kịp vấn đề.
“Vậy là ông đề nghị sáu phần trăm phải không?” Sprawling hỏi. Ông ta nói chậm và thận trọng.
“Đương nhiên là không rồi. Chúng tôi nắm tiền; chúng tôi sẽ quyết định trả bao nhiêu. Đó cũng là nguyên tắc mà chính phủ đã áp dụng. Chúng ta hãy hình dung đơn giản là cứ để chỗ tiền đó quay trở lại với cái túi thủng ở Lầu Năm góc.”
“Chúng tôi không thể chấp nhận thế được,” Jaynes nói. Ông ta đã mệt mỏi và không muốn nghe dài dòng gì nữa.
“Chúng ta phải nhìn chỗ tiền đó theo cách thế này,” Sandy nói. “Lẽ ra thì nó đã mất hoàn toàn, rơi vào túi những kẻ lừa đảo đê tiện và không bao giờ còn thấy đâu nữa. Thân chủ của tôi đã ngăn chặn được việc đó, giữ lại chỗ tiền, và giờ đây sẵn sàng trả lại.”
“Vậv chúng tôi phải có thưởng cho anh ta hả?” Jaynes hỏi.
“Không. Có điều đừng tính lãi thôi.”
“Chúng tôi phải trình bày lại vụ này với một số người ở Oasinhtơn,” Sprawling nói, không hẳn là nài nỉ, nhưng rõ ràng cũng mềm xuống. “Hãy để cho trong tay chúng tôi có cái gì chứ.”
“Chúng tôi sẽ trả một nửa tỉ lệ của Cơ quan thuế Liên bang, và không thêm một xu nào nữa.”
Với vẻ mặt của một tay cờ bạc chuyên nghiệp, Sprawling nói, “Tôi sẽ trình bày lại với ông Bộ trưởng Tư pháp. Hy vọng là ông ấy đang ở trong tâm trạng vui vẻ.”
“Cho tôi gửi lời chào đến ông ấy nhé,” Sandy nói.
Jaynes ngừng ghi chép ngước mắt nhìn lên và hỏi, “Ba phần trăm phải không?”
“Đúng thế. Từ ngày 26 tháng Ba năm 1992 đến ngày 1 tháng Mười một năm 1996. Tổng cộng sẽ là một trăm mười ba triệu, cùng với một chút lẻ mà chúng tôi sẽ bỏ qua. Một trăm mười ba triệu chẵn.”
Con số đó nghe thật sướng tai, và đương nhiên là lọt tai mấy tay quan chức này của chính phủ. Mỗi người họ đều ghi nó vào sổ tay. Nghe được lắm. Ai còn có thể bàn tán gì về một thỏa thuận mang lại ngần ấy tiền trở về tay những người đóng thuế?
Đề nghị này được đưa ra chỉ có thể có một nghĩa duy nhất là Patrick đã đầu tư số tiền đó một cách rất sinh lợi. Đám người của Sprawling trước đó đã bỏ qua mất một vài con số. Cứ cho rằng Patrick đã bỏ tất cả số tiền đó vào những khoản đầu tư mang lại tám phần trăm lãi một năm, thì tổng số tiền đó giờ đây đã lên tới một trăm ba mươi mốt triệu. Mười phần trăm, con số đó sẽ là một trăm bốn mươi bốn triệu. Không phải đóng thuế là lẽ dĩ nhiên. Và có vẻ như là Patrick không chi tiêu gì nhiều lắm, bởi vậy hắn cũng sẽ vẫn còn là một người rất giàu.
“Tất cả chúng tôi đều quan tâm tới vụ kiện mà ông đã thay mặt Lanigan đệ ra tòa,” Sprawling nói.
“Chúng tôi sẽ đưa FBI ra khỏi hồ sơ khởi kiện, thế nhưng tôi cần ông Jaynes làm ơn cho một chút. Chúng ta có thể thảo luận chuyện đó sau. Đó là một chuyện nhỏ.”
“Được. Trở lại chuyện hiện nay nhé. Khi nào thì thân chủ của ông sẵn sàng ra cung khai trước đoàn đại bồi thẩm?”
“Bất kỳ khi nào các ông cần. Về mặt sức khỏe, anh ta có thể làm chuyện đó bất cứ lúc nào.”
“Chứng tôi muốn tiến hành nhanh vụ này.”
“Càng nhanh thì càng tốt cho thân chủ tôi.”
Sprawling khoanh các vòng tròn trên bản danh mục các vấn đề của ông ta. “Chúng tôi kiên quyết yêu cầu giữ kín. Không báo chí gì hết. Thỏa thuận này sẽ là đối tượng của nhiều sự chỉ trích lắm.”
“Chúng tôi sẽ không nói một lời,” Sandy hứa.
” Ông muốn cô Miranda được thả ra vào lúc nào?”
“Ngày mai. Và cô ấy cần phải được hộ tống từ nhà giam ở Miami ra phòng chờ riêng ở sân hay. Chúng tôi muốn có sự bảo vệ của FBI cho đến khi cô ấy đã ở trên máy bay.”
Jaynes nhún vai ra vẻ không hiểu. “Không có vấn đề gì,” ông ta nói.
“Còn gì nữa không?” Sandy hỏi, và xoa tay như thể một cuộc vui sắp bắt đầu.
“Phía chính phủ không còn gì nữa,” Sprawling đáp.
“Tốt. Bây giờ tôi đề nghị thế này,” Sandy nói, không để cho họ còn lựa chọn nào khác. “Tôi có hai thư ký với máy tính cá nhân sẵn sàng đây rồi. Chúng tôi cũng đã chuẩn bị một bản dự thảo thỏa thuận và lệnh hủy bỏ các cáo buộc của Liên bang. Sẽ không mất bao nhiêu thời gian để chỉnh trang câu chữ, rồi các ông ký vào. Tiếp đó, tôi sẽ mang nó tới cho thân chủ của tôi, và hy vọng là chúng tôi sẽ xong trong một hai tiếng. Ông Mast, tôi đề nghị ông liên hệ với ông Thẩm phán Liên bang và dàn xếp một hội nghị qua điện thoại càng nhanh càng tốt. Chúng ta sẽ fax đến cho ông ấy văn bản lệnh hủy bỏ các cáo buộc.”
“Khi nào thì chúng tôi có được các tài liệu và những cuộn băng kia?” Jaynes hỏi.
“Nếu như mọi thứ được ký và được chấp thuận trong vòng vài tiếng đồng hồ tới đây, các ông có thể có chúng vào lúc năm giờ chiều.”
“Tôi cần phải gọi điện thoại,” Sprawling nói. Mast và Jaynes cũng vậy. Họ tản ra các nơi trong căn hộ.
Những tù nhân thông thường được phép ra ngoài trời mỗi ngày một tiếng đồng hồ. Trời cuối tháng Mười, lạnh và nhiều mây, và Patrick quyết định đòi được hưởng cái quyền theo luật định đó. Đám cảnh sát ở hành lang từ chối; việc đó chưa được cho phép. Patrick gọi điện cho Karl Huskey và tất cả lập tức được chấp thuận. Hắn cũng hỏi xem Karl có thể ghé vào tiệm Rosetti trên phố Division mua một vài suất bánh phomát cùng thịt cua mang đến ăn trưa với hắn ở ngoài trời được không. Karl nói là rất vui lòng.
Họ cùng ngồi ăn trên một cái ghế dài làm bằng gỗ, gần một vòi phun nước nhỏ và một cái cây maple nhỏ nhắn, dễ thương. Xung quanh họ là các dãy nhà của bệnh viện. Karl cũng mang một ít bánh phomát cho đám cảnh sát, và họ ngồi ở gần đó, ngoài tầm tai.
Karl không biết gì về cuộc gặp đang diễn ra ở khách sạn và Patrick cũng không nói gì. Parrish có mặt ở đó, và ông ta sẽ nói lại ngay với ông Thẩm phán thôi mà.
“Mọi người đang nói gì về tôi vậy?” Patrick hỏi sau khi đã ăn được một phần ba chiếc bánh kẹp và đặt nó sang một bên.
“Những xầm xì cũng lắng xuống rồi. Mọi chuyện đã trở lại bình thường. Bạn bè của anh vẫn là bạn bè của anh.”
“Tôi đang viết thư cho mấy người trong số họ. Ông chuyển giúp được chứ?”
“Tất nhiên rồi.”
“Cảm ơn.”
“Tôi nghe nói là họ bắt được cô bạn gái của anh ở Miami.”
“Phải. Nhưng cô ấy sẽ được ra ngay ấy mà. Chỉ có chút rắc rối nhỏ với hộ chiếu thôi.”
Huskey làm một miếng bánh lớn và yên lặng nhai. Ông đã trở nên quen với những khoảng im lặng kéo dài trong những cuộc trò chuyện của họ. Ông cân nhắc chuyện gì phải nói tiếp theo. Còn Patrick thì không.
“Không khí trong lành thật là tuyệt vời,” sau cùng hắn nói. “Cảm ơn.”
“Theo luật thì anh có quyền hưởng không khí trong lành mà.”
“Ông đã tới Braxin bao giờ chưa?”
“Chưa.”
” Ông nên đi.”
“Giống như kiểu của anh, hay là cùng với gia đình tôi hả?”
“Không, không. Thăm thú một chút ấy mà.”
“Những bãi biển ư?”
“Không. Quên các bãi biển đi, và cả các thành phố. Nên đến vùng trung tâm của đất nước đó, tới những vùng đất bao la, nơi có bầu trời trong xanh, không khí dễ chịu, quang cảnh tuyệt đẹp, con người thì hiền lành và không phức tạp. Bây giờ tôi đã coi mảnh đất đó như là quê hương của mình vậy, Karl. Tôi chỉ muốn dược trở lại nơi đó.”
“Có thể là phải lâu lâu đấy.”
“Có lẽ thế, nhưng tôi có thể chờ đợi. Tôi không còn là Patrick nữa, Karl. Patrick đã chết rồi. Anh ta đã sa bẫy, đã bất hạnh. Anh ta béo mập và khốn khổ, và may mắn làm sao, anh ta đã ra đi. Bây giờ, tôi là Danilo, Danilo Silva, một người hạnh phúc hơn nhiều với một cuộc sống bình lặng ở một đất nước khác. Danilo có thể chờ đợi.”
Và với một người phụ nữ xinh đẹp cùng cả một tài sản lớn, Karl muốn nói, nhưng rồi lại thôi.
“Danilo sẽ trở lại Braxin như thế nào?” Karl hỏi.
“Tôi vẫn còn đang tính.”
“Này, Patrick — tôi cho rằng vẫn gọi anh là Patrick mà không phải là Danilo, được chứ?”
“Tất nhiên.”
“Tôi nghĩ đã đến lúc tôi phải lui xuống và chuyển vụ này lại cho Thẩm phán Trussel. Một kiến nghị sẽ phải được đưa ra, và rồi là một quyết định nữa. Tôi đã làm tất cả những gì có thể để giúp cho anh.”
” Ông đang bị phê phán gì ư?”
“Chút đỉnh, nhưng không có gì làm cho tôi phải lo ngại. Tôi không muốn gây tổn thương đến anh, nhưng tôi sợ rằng nếu tôi giữ vụ của anh lâu hơn chút nữa thì người ta có thể bất bình. Ai cũng biết chúng ta là chỗ bè bạn. Trời đất, anh thậm chí còn chọn tôi làm một trong những người hộ tang bên quan tài.”
“Tôi đã cảm ơn ông về chuyện đó chưa nhỉ?”
“Chưa. Lúc đó anh là người chết, vậy nên đừng nhắc đến nữa. Kể cũng vui.”
“Đúng thế, tôi biết mà.”
“Dù sao chăng nữa, tôi đã nói chuyện với Trussel, và ông ấy sẵn sàng nhận vụ này. Tôi cũng đã nói với ông ấy về những vết thương khủng khiếp của anh, và việc anh ở lại đây được càng lâu càng tốt là quan trọng như thế nào. Ông ấy hiểu chuyện.”
“Cảm ơn.”
“Nhưng anh cũng phải thực tế một chút. Một lúc nào đó, anh sẽ bị đưa vào nhà tù. Và có thể là anh sẽ phải ở trong đó một thời gian dài đấy.”
” Ông có nghĩ là tôi đã giết thằng bé đó không, Karl?”
Karl bỏ miếng bánh còn lại vào trong một cái túi và uống ngụm trà đá. Ông không định nói dối về chuyện này. “Đó là điều đáng ngờ. Thứ nhất, còn có hài cốt ở trong chiếc xe, bởi vậy phải có ai đó đã bị giết. Thứ hai FBI đã kiểm tra bằng máy tính tất cả những người bị mất tích vào ngày 9 tháng Hai năm 1992 hoặc trước đó một thời gian. Pepper là người duy nhất trong vòng bán kính ba trăm dặm mà người ta không hề có tin tức gì.”
“Nhưng như thế không đủ để kết tội tôi.”
“Câu hỏi của anh không phải là về việc kết tội “
“Phải. Ông có nghĩ là tôi đã giết thằng bé không?”
“Tôi không biết phải nghĩ gì nữa, Patrick. Tôi đã là một thẩm phán trong mười hai năm trời, tôi đã thấy những người đứng trước mặt tôi và thú nhận về những tội ác mà họ vẫn còn không thể nào tin được là họ đã phạm phải. Trong những hoàn cảnh nhất định, đúng là con người ta có thể làm bất cứ chuyện gì.”
“Nghĩa là ông tin vào chuyện đó?”
“Tôi không muốn vậy. Tôi không biết thế nào nữa.”
“Ông nghĩ là tôi có thể giết người ư?”
“Không. Nhưng tôi cũng đã không nghĩ rằng anh có thể vờ chết và cuỗm đi chín mươi triệu đôla. Những chuyện anh làm thời gian qua đầy dẫy những điều bất ngờ.”
Một khoảng im lặng kéo dài nữa. Karl đưa mắt nhìn đồng hồ. Patrick để ông ta ngồi lại một mình trên ghế và chầm chậm đi dạo quanh sân.
Bữa trưa tại căn hộ Camille là những chiếc bánh xăng uých được mang tới trên những cái khay nhựa, và nó đã bị gián đoạn bởi cú điện thoại trả lời của ông Thẩm phán Liên bang, người đã nhận vụ Patrick bốn năm về trước. Ông Thẩm phán đang mắc một phiên tòa ở Jackson và chỉ có thời gian một phút. Mast nói về thành phần đang có mặt tại căn hộ, và ông Thẩm phán đã đồng ý nói chuyện chung với tất cả qua điện thoại. Tiếp đó, Mast vắn tắt lại thỏa thuận đã được đề nghị. Ông Thẩm phán muốn được nghe phần trình bày của Sandy. Sprawling được hỏi một vài câu, và cuộc hội nghị ngắn ngủi qua điện thoại đã trở thành một cuộc họp dài. Có một lúc, Sprawling đã ra khỏi phòng để nói chuyện riêng với ông Thẩm phán. Ông ta đã chuyển lại những mong muổn khẩn thiết từ các cấp trên ở Oasinhtơn về việc đi tới môt thỏa thuận với Lanigan để có thể tóm được những con cá lớn hơn. Ông Thẩm phán cũng đã nói chuyện riêng với T.L.Parrish, người đã đưa ra những bảo đảm rằng Lanigan sẽ không phủi tay được với vụ này, rằng hắn sẽ phải đối mặt với những cáo buộc nghiêm trọng hơn, và rất nhiều khả năng, mặc dù không có gì bảo đảm được chắc chắn, là hắn sẽ phải ngồi tù nhiều năm.
Ông Thẩm phán không muốn hành động một cách vội vã, thế nhưng dưới sức ép của những người có liên quan chặt chẽ đến thế với vụ này, cộng với tầm cỡ của những người đang có mặt tại Biloxi, ông ta đành xuống nước và đồng ý ký lệnh hủy bỏ mọi cáo buộc của Liên bang đối với Patrick. Văn bản lệnh này nhanh chóng được fax đến cho ông ta, và ông ta ký ngay rồi fax trả lại.
Trong khi họ ăn nốt bữa trưa, Sandy tạm ra ngoài để chạy đến bệnh viện. Patrick đang ở trong phòng, viết thư cho mẹ hắn, lúc Sandy ào vào. “Thành công rồi!” Anh ném bản thỏa thuận lên trên mặt bàn làm việc của Patrick.
“Chúng ta đạt được mọi điều, mà chúng ta muốn,” Sandy nói.
“Chấm dứt mọi cáo buộc chứ hả?”
“Đúng thế. Ông Thẩm phán vừa ký xong.”
“Tiền thì bao nhiêu?”
“Chín mươi triệu, cộng ba phần trăm “
Patrick nhắm mắt và nắm chặt hai tay. Đống của đó vừa bị sạt đi quá lớn, thế nhưng phần còn lại cũng khá nhiều; đủ cho hắn và Eva có ngày ổn định được cuộc sống ở một nơi nào đó an toàn và có một ngôi nhà đầy nhóc trẻ con. Một ngôi nhà lớn. Và nhiều con.
Họ rà lại bản thỏa thuận. Patrick ký vào đó, rồi Sandy chạy như bay trở lại khách sạn.
Đám đông đã bớt đi vào lúc hai giờ chiều, thì cuộc gặp thứ hai bắt đầu. Sandy tiếp Talbot Mims và thân chủ của ông ta, một nhân vật cao cấp của Northern Case Mutual có tên là Shenault, người mang theo hai luật sư của công ty mà Sandy không nghe rõ tên. Để thận trọng, Mims cũng mang theo một trong các cộng sự của ông ta và một phụ tá nữa, cũng không rõ tên của cả hai. Sandy nhận các danh thiếp và đưa họ vào cùng cái căn phòng khách kế bên, nơi đã diễn ra cuộc gặp đầu tiên. Các phóng viên tòa án ngồi vào chỗ dành cho họ.
Jaynes và Sprawling ở trong căn phòng làm việc bên cạnh, đang nói chuyện điện thoại với Oasinhtơn. Họ đã cho đám tùy tùng xuống dưới sòng bạc giải trí trong một tiếng, với lệnh không được uống rượu.
Nhóm người của Monarch ít hơn, chỉ có Hal Ladd, một phụ tá của ông ta, và viên luật sư chính của Hãng, một tay có vóc người nhỏ bé, sang trọng, tên là Cohen. Những lời giới thiệu được trao đổi, và rồi tất cả đã sẵn sàng chờ nghe Sandy nói. Anh phân phát cho họ những cặp hồ sơ mỏng và yêu cầu họ xem qua. Trong mỗi chiếc cặp đó là bản sao hồ sơ vụ kiện của Patrick đối với FBI về những vết thương của hắn, cùng với một bộ ảnh màu chụp những vết thương kia. Đám người của các Hãng bảo hiểm đã được các luật sư của họ chuẩn bị trước cho rồi nên không thấy có gì bất ngờ với những thứ đó.
Sandy nói vắn tắt lại những gì đã nói hôm trước – rằng các vết thương trên người thân chủ của mình không phải là do FBI gây ra bởi lẽ FBI đã không tìm thấy Patrick. Mà là Stephano. Và Stephano làm việc cho ba khách hàng: Benny Aricia, Northern Case Mutual và Monarch-Sierra. Cả ba đều ở tình thế nghiêm trọng trong một vụ án dân sự mà Patrick sẽ khởi kiện.
“Làm sao ông chứng minh được rằng đó là việc làm của Stephano?” Talbot Mims hỏi.
“Xin chờ một giây,” Sandy nói. Anh mở cánh cửa dẫn sang căn phòng làm việc và xin Jaynes dành cho một phút. Jaynes bước vào phòng, và tự giới thiệu mình với nhóm người trong đó. Với vẻ thoải mái, ông ta mô tả lại chi tiết những gì mà Stephano đã kể lại về cuộc truy lùng Patrick; việc tài trợ của cái tổ hợp đó, những khoản tiền thưởng, những nguồn tin, cuộc săn đuổi ở Braxin, tay bác sĩ chỉnh hình, Nhóm Pluto, việc bắt giữ và cuộc tra tấn. Mọi chuyện. Và tất cả đều đã được tiến hành bằng tiền do Aricia, Monarch-Sierra và Northern Case Mutual cung cấp. Và tất cả đều được tiến hành thuần vì lợi ích của họ.
Đó là một màn trình diễn ngoạn mục mà bản thân Jaynes rất thích thú.
”Có câu hỏi nào dành cho ông Jaynes không?”
Sandy vui vẻ hỏi sau khi câu chuyện của Jaynes đi tới chỗ kết thúc.
Không có câu hỏi nào. Trong mười tám giờ qua, cả Shenault của Northern Case Mutual lẫn Cohen của Monarch-Sierra đều không thể nào xác định được ai trong Hãng của họ đã cho phép việc thuê mướn Jack Stephano. Họ khó mà biết được khi mà giờ đây mọi dấu tích đã được xóa đi.
Cả hai Hãng đều lớn và lắm tiền lắm của, với rất nhiều cổ đông và một ngân sách khổng lồ cho việc quảng cáo để bảo vệ tên tuổi của mình. Không Hãng nào lại muốn có vụ đau đầu này cả.
“Cảm ơn ông, Jaynes,” Sandy nói.
“Tôi ở phòng bên, nếu như các vị cần tới,” Jaynes nói vẻ như là ông ta không còn thích gì hơn là được quay trở lại và đóng thêm vài cái đinh nữa vào cỗ quan tài. Bản thân sự hiện diện của ông ta đã báo một điềm xấu. Vì sao vị Phó giám đốc FBI lại tới Biloxi, và vì sao ông ta lại sốt sắng muốn quy trách nhiệm cho họ như vậy?
“Đây là thỏa thuận,” Sandy nói sau khi cánh cửa khép lại. “Rất đơn giản, nhanh chóng, và không phải bàn cãi gì. Thứ nhất, thưa ông Shenault, đối với Northern Case Mutual, cuộc tấn công cuối cùng của khách hàng của ông trong cuộc chiến tranh nhỏ này là một nỗ lực nhằm thu lại hai triệu rưỡi đôla đã được chi trả cho bà Trudy Lanigan. Chúng tôi chỉ muốn ông hãy trở về. Bãi nại và quên Trudy đi, để cho cô ta được yên ổn. Cô ta còn phải nuôi con, và bên cạnh đó, có thế nào chăng nữa thì hầu hết số tiền đó cũng đã bị tiêu hết rồi. Bãi nại, và thân chủ của tôi sẽ không kiện cáo gì về những vết thương đó đối với Hãng của ông nữa.”
“Thế thôi ư?” Talbot Mims hỏi vẻ không tin nổi.
“Đúng. Có thế thôi.”
“Xong.”
“Chúng tôi muốn hội ý một chút,” Shenault nói, mặt vẫn căng thẳng.
“Không, không gì nữa,” Mims nói với thân chủ của ông ta. “Đó là một thỏa thuận tốt. Tất cả đã trên mặt bàn. Chúng ta chấp nhận. Cứ như vậy.”
Shenault nói, “Tôi muốn xem xét…”
“Thôi,” Mims nói, vẻ cáu kỉnh với Shenault. “Chúng ta chấp nhận thỏa thuận đó. Còn nếu ông muốn ai đó khác đại diện cho các ông thì cũng được thôi. Nhưng chừng nào mà tôi còn giữ cương vị đó thì tôi quyết định là luật sư đại diện chấp nhận thỏa thuận này, ngay bây giờ.”
Shenault không còn biết nói gì.
“Chúng tôi sẽ chấp nhận,” Mims nói.
“Ông Shenault?” Sandy hỏi.
“Thôi, được. Tôi cho rằng chúng tôi đồng ý.”
“Tốt lắm. Tôi có một dự thảo thỏa thuận để sẵn ở phòng bên cho các ông. Bây giờ, mời quý vị sang bên đó vài phút, tôi cần nói chuyện riêng với ông Ladd và thân chủ của ông ấy.”
Mims đưa nhóm của ông ta ra ngoài. Sandy chốt cửa và quay lại nói với Cohen, Hal Ladd và phụ tá của ông ta. “Tôi e rằng thỏa thuận với các ông có khác một chút so với họ. Phần họ thì nhẹ nhàng do còn vụ ly hôn kia. Nó rất phức tạp và rắc rối, và thân chủ của tôi có thể sử dụng yêu sách của anh ta đối với Northern Case Mutual theo hướng có lợi trong quá trình giải quyết vụ ly hôn. Họ đã dành ra nửa triệu đôla cho Stephano, các ông dành gấp đôi như thế. Các ông có trách nhiệm nhiều hơn, ở tình trạng nghiêm trọng hơn, và, theo chỗ chúng tôi biết, các ông có nhiều tiền hơn Northern Case Mutual nhiều.”
“Ông nghĩ tới bao nhiêu?” Cohen hỏi.
“Về phần Patrick thì không gì cả. Tuy nhiên, anh ta rất quan tâm tới đứa trẻ. Con bé mới sáu tuổi, và mẹ nó tiêu tiền như rác. Đó là một lý do để Northern Case Mutual chấp nhận nhanh như vậy – sẽ rất khó mà lấy lại được tiền từ Trudy Lanigan. Patrick muốn có một khoản tiền khiêm tốn gửi vào một quỹ ủy thác cho đứa trẻ, ngoài tầm tay với của mẹ nó.”
“Bao nhiêu?”
“Một phần tư triệu. Cùng với ngần ấy nữa để trang trải cho những khoản tiền lo luật sư của anh ta. Tổng cộng là nửa triệu, trả một cách lặng lẽ để thân chủ của ông sẽ không còn bị những tấm ảnh kia làm phiền nữa.”
Vùng bờ biển này vốn có truyền thống với những phán quyết rất hào phóng trong những ca gây thương tật và những cái chết oan khốc. Hal Ladd đã khuyên Cohen rằng ông ta có thể sẽ phải thấy một phán quyết nhiều triệu đôla đối với Aricia và các Hãng bảo hiểm về những gì đã gây ra cho Patrick. Cohen, một người từ CaHíornia đến, chắc chắn cũng hiểu rõ điều này. Hãng cũng muốn giải quyết mọi chuyện cho xong và rút êm.
“Dẹp bỏ mọi kiện tụng,” Cohen nói. “Và chúng tôi phải trả nửa triệu?”
“Đúng thế.”
“Chúng tôi chấp nhận.”
Sandy lấy trong cặp hồ sơ ra mấy tờ giấy. “Tôi đã có một dự thảo thỏa thuận sẵn đây cho các ông.” Anh trao cho họ, và để họ ngồi lại một mình.