Jack Stephano bị FBI bắt tại văn phòng của lão ở Oasinhtơn D.C. Lão bị giữ ba mươi phút trong phòng giam và rồi bị đưa đến một phòng xét xử nhỏ tại Tòa án Liên bang, nơi lão phải đối mặt với một thẩm phán Liên bang trong một cuộc thẩm vấn kín. Lão được thông báo rằng sẽ được thả ra ngay nếu tự nguyện chấp thuận là sẽ không rời khỏi địa phương và sẽ bị FBI theo dõi 24/24 giờ. Trong khi lão đang ở tòa án thì một nhóm các nhân viên đặc biệt đã ập vào văn phòng, tịch thu mọi hồ sơ, và cho những người làm của lão ra về.
Sau khi ra khỏi tòa án, Stephano được chở đến trụ sở FBI ở đại lộ Pennsylvania, nơi Hamilton Jaynes đang đợi lão. Khi còn lại hai người trong văn phòng của Jaynes, vị phó giám đốc đưa ra một lời xin lỗi tử tế về vụ bắt bớ này, nhưng nói rằng ông ta không còn lựa chọn nào khác. Nguời ta không thể không bắt giữ một kẻ bị Liên bang truy nã, đầu độc đối tượng, tra tấn, làm đối tượng suýt chết mà lại không bị kết vào tội gì.
Vấn đề là chỗ tiền kia. Vụ bắt giữ chỉ là đòn gây sức ép. Stephano thề là Patrick không hề khai ra điều gì.
Trong lúc họ trao đổi, cửa ra vào văn phòng của Stephano đã bị niêm phong lại và các thông báo của Liên bang được dán lên trên đó. Điện thoại tại nhà lão bị gắn thiết bị nghe trộm, trong khi bà Stephano đang còn mải chơi bài.
Sau cuộc gặp ngắn ngủi và không mang lại kết quả gì với Jaynes, lão được thả xuống gần Tòa án Tối cao. Do đã được lệnh không được lảng vảng đến văn phòng của mình, lão vẫy một chiếc tăcxi và bảo chở tới khách sạn Hay-Adams, góc phố H và phố 16. Lão ngồi trong xe, nhẫn nại đọc một tờ báo, thỉnh thoảng lại sờ sờ cái thiết bị theo dõi mà họ đã khâu vào nẹp chiếc áo khoác của lão. Đó là một cái máy phát nhỏ xíu nhưng cực mạnh được dùng để giám sát di chuyển của người, hàng hóa, thậm chí là cả xe cộ. Lão đã sờ lần trong lúc nói chuyện với Jaynes và lúc đó đã muốn dứt tung cái thiết bị này ra và quăng trả nó lên mặt bàn của ông ta.
Nhưng lão là một chuyên gia trong lĩnh vực theo dõi này. Lão nhét cái áo khoác xuống bên dưới ghế xe, rồi nhanh chóng đi vào khách sạn Hay-Adams, đối diện với công viên Lafayette. Được thông báo là không còn phòng, lão yêu cầu được gặp tay quản lý, một khách hàng cũ, và chỉ trong vòng vài phút lão đã được hộ tống lên một căn hộ ở tầng bốn, nơi mà từ đó có thể thấy toàn bộ quang cảnh Nhà Trắng. Lão cởi tuốt quần áo ra và cẩn thận đặt ngay ngắn từng thứ lên trên giường, kiểm tra kỹ càng từng phân vải một. Rồi lão gọi bữa trưa. Lão cũng gọi điện cho vợ nhưng không có ai trả lời.
Thế rồi lão gọi Benny Aricia, khách hàng của lão, người có chín mươi triệu đôla bị biến mất chỉ vài phút sau khi số tiền này được chuyển vào cái nhà băng ở Nassau. Phần của Benny là sáu mươi triệu, và ba mươi triệu còn lại thuộc về các luật sư của ông ta, Bogan, Vitrano và cái đám lừa đảo bẩn thỉu còn lại ở Biloxi. Thế nhưng, số tiền đã biến mất trước khi nó tới được tay Benny.
Ông ta đang náu mình ở khách sạn Willard, cũng gần với Nhà Trắng, chờ nghe tin tức từ Stephano.
Họ gặp nhau một giờ sau tại khách sạn Four Seasons ở Georgetown, trong một căn hộ mà Benny mới đặt trước đó một tuần.
Benny đã gần sáu mươi, nhưng trông trẻ hơn đến chục tuổi. Ông ta có một thân hình gọn gàng và nước da rám nắng của một tay nghỉ hưu giàu có ở Nam Florida do chơi gôn hàng ngày. Benny sống trong một căn nhà bên một con kênh đào ở Boca, cùng với một cô gái Thụy Điển trẻ trung chỉ bằng cỡ tuổi con gái mình.
Khi khoản tiền kia bị đánh cắp, hãng luật đó đang có một khoản bảo hiểm về các vụ lừa đảo và đánh cắp gây ra bởi các cổ đông và nhân viên của nó. Trò biển thủ là phổ biến trong các hãng luật. Khoản bảo hiểm đó, do công ty bảo hiểm Monarch-Sierra bán ra, có giới hạn tối đa là bốn triệu đôla và sẽ phải được trả cho hãng luật. Benny đã khởi kiện hãng luật với một nỗ lực rất lớn. Đơn kiện đòi sáu mươi triệu đôla; tất cả là thuộc về ông ta.
Do không còn mấy để mà thu hồi, và do hãng luật kia sắp phải ra tòa về vụ phá sản, Benny đành bằng lòng với khoản bốn triệu mà Monarch-Sierra trả. Ông ta đã tiêu gần một nửa số tiền đó vào việc tìm kiếm Patrick. Căn nhà mộng mơ ở Boca ngốn mất nửa triệu. Còn những chi tiêu khác ở chỗ này chỗ nọ, và Benny chỉ còn một triệu cuối cùng.
Ông ta đứng bên cửa sổ và nhấm nháp ly cà phê loại đã tách caphêin. “Liệu tôi có sắp sửa bị bắt không đấy?” Benny hỏi.
“Có lẽ là không. Nhưng dù sao thì tôi vẫn khuyên ông thận trọng.”
Benny đặt ly cà phê xuống bàn và ngồi đối diện với Stephano. “Ông đã nói chuyện với các công ty bảo hiểm chưa?”
“Chưa. Tôi sẽ gọi sau. Đám các ông thì không sao đâu.”
Northern Case Mutual, cái hãng bảo hiểm làm cho Trudy trở nên giàu có kia, đã âm thầm bỏ ra nửa triệu đôla cho cuộc tìm kiếm. Monarch-Sierra bỏ ra một triệu. Tổng cộng, cái tổ hợp nhỏ bé của Stephano đã cam kết và thực chi hơn ba triệu đôla vào cuộc săn lùng Patrick.
“Có may mắn gì với con bé kia không?” Benny hỏi.
“Chưa. Người của chúng tôi đang ở Rio. Họ đã tìm thấy bố con bé, nhưng lão ta không chịu nói. Với hãng luật của con ranh con cũng vậy. Họ nói nó vắng mặt ở thành phố vì công chuyện.”
Benny khoanh tay và ôn tồn nói, “Giờ thì cho tôi biết chính xác là hắn đã nói gì?”
“Tôi còn chưa nghe cuốn băng. Theo dự kiến thì nó sẽ được chuyển đến văn phòng của tôi vào chiều nay, nhưng lúc này mọi chuyện đã trở nên phức tạp. Cũng xin nói thêm là nó được gửi đi từ vùng rừng rậm Paragoay đấy.”
“Điều đó thì tôi biết.”
“Theo Guy, hắn đã gục sau năm giờ bị tra điện. Hắn nói là số tiền vẫn chưa bị động đến, được cất giấu trong nhiều nhà băng khác nhau, nhưng hắn không thể nói ra được tên một nhà băng nào. Guy đã suýt giết chết hắn khi hắn không thể, hoặc giả là không chịu, nói tên các nhà băng kia. Nhưng lúc đó thì Guy đã cân nhắc, một cách đứng đắn, rằng có ai khác đó kiểm soát khoản tiền kia. Vài cú đòn nữa và cái tên con bé kia bật ra. Người của Guy lập tức liên lạc với Rio, và xác nhận được về nhân thân con bé. Có điều là nó đã biến mất.”
“Tôi muốn nghe cuốn băng đó.”
“Tàn bạo lắm, Benny. Da thịt của hắn bị thiêu đốt và hắn kêu váng lên.”
Benny không thể nào nén cười. “Tôi biết. Đó chính là thứ mà tôi muốn nghe.”
Họ đưa Patrick tới cuối một dãy nhà trong cái bệnh viện của căn cứ. Phòng của hắn là căn phòng duy nhất ở nơi đây mà người ta có thể khóa từ bên ngoài và cửa sổ thì không mở ra được. Những tấm rèm cửa được che kín. Hai lính gác ngồi ngay ngoài hành lang.
Các vết thương của Patrick là nghiêm trọng và đau khủng khiếp, và bởi vậy các bác sĩ của hắn, bốn người tất cả, đã có một quyết định đơn giản là liên tục tiêm thuốc ngủ cho hắn trong lúc này. Không việc gì phải vội vã đưa hắn đi đâu cả. Hắn là một kẻ bị truy nã, nhưng sẽ phải mất ít ngày để quyết định xem ai có quyền nhận hắn trước.
Họ giữ cho căn phòng tối, với một chút âm nhạc, túi truyền lúc nào cũng căng đầy và Patrick ngủ yên với một giấc ngủ không mộng mị, quên hẳn đi cơn bão tố đang gào thét chờ đợi mình.
Vào tháng Tám năm 1992, năm tháng sau khi khoản tiền kia biến mất, một Thẩm phán Liên bang ở Biloxi đã truy tố Patrick về tội ăn cắp. Có bằng chứng đủ cho thấy rằng hắn đã làm vụ này và không hề có một dấu hiệu, dù là nhỏ nhất nào rằng, còn có ai khác nữa đáng bị tình nghi. Vụ việc diễn ra vượt qua các đường biên giới quốc tế, bởi vậy quyền tài phán thuộc về Liên bang.
Văn phòng cảnh sát trưởng quận Harrison và văn phòng công tố viên địa phương đã tiến hành một cuộc điều tra chung về vụ giết người này, nhưng đã từ lâu chuyển sang các vấn đề khác cấp bách hơn. Nay đột nhiên, vụ việc đó lại trở lại với họ.
Cuộc họp báo vào buổi trưa bị hoãn lại trong khi các nhà chức trách họp tại văn phòng của Cutter ở trung tâm Biloxi. Đó là một cuộc họp căng thẳng, mà những người dự họp có các lợi ích xung đột với nhau. Ngồi bên này bàn là Cutter và FBI, những người nhận lệnh từ Maurice Mast, công tố viên Liên bang phụ trách khu vực miền tây Mississippi vừa từ Jackson đến. Bên kia bàn là Raymond Sweeney, cảnh sát trưởng quận Harrison và phụ tá của ông ta là Grimshaw, cả hai đều ghét cay ghét đắng FBI. Người đại diện cho họ là T.L.Parrish, công tố viên phụ trách quận Harrison và các quận xung quanh.
Đó là chuyện xung đột giữa Liên bang và bang, giữa ngân sách lớn và nhỏ, với những con người đầy cá tính ngồi quanh phòng và ai cũng muốn được phần lớn nhất trong vụ Patrick này.
“Điều quan trọng ở đây là phải dùng án tử hình,” Parrish nói.
“Chúng ta có thể dùng án tử hình của Liên bang,” Mast nói một cách rụt rè.
Parrish mỉm cười và hạ ánh mắt xuống. Án tử hình mới được thông qua gần đây bởi một cái Quốc hội không biết làm thế nào để thực hiện nó. Tất nhiên, cũng là điều tốt khi Tổng thống ký nó thành luật, thế nhưng còn quá nhiều trở ngại.
Mặt khác, bang lại có một truyền thống phong phú và đã được kiểm nghiệm trong việc thực thi các án tử hình. “Luật của chúng tôi tốt hơn,” Parrish nói. “Và tất cả chúng ta đều biết điều đó.” Parrish đã đưa tám phạm nhân vào danh sách tử tù. Mast thì còn chưa có cơ hội truy tố một ai về tội giết người.
“Và còn vấn đề nhà tù,” Parish tiếp tục. “Chúng tôi sẽ đưa hắn tới Parchman, nơi mà hắn sẽ bị giam hai mươi ba giờ mỗi ngày, trong một căn phòng ẩm ướt với hai bữa ăn tồi tệ, hai lần tắm một tuần, đầy gián muỗi và những kẻ hiếp dâm đồng tính. Nếu hắn vào tay quý vị, hắn sẽ có cả một câu lạc bộ ngoại ô cho quãng đời còn lại trong khi các tòa án Liên bang sẽ nuông chiều hắn và tìm ra cả nghìn cách để cho hắn được sống.”
“Sẽ không phải là một cuộc dã ngoại đâu,” Mast nói một cách đầy lúng túng và bị động.
“Thì có lẽ cũng là một ngày đi biển. Nào thôi, Maurice. Vấn đề là sức ép. Chúng ta có hai điều bí ẩn, hai vấn đề phải được giải đáp trước khi Lanigan nằm xuống. Vấn đề lớn là tiền. Nó ở đâu? Hắn đã làm gì với số tiền đó? Có thể thu hồi và trả lại được cho những người chủ của nó hay không? Vấn đề thứ hai thì chính là chuyện ai đã được đem chôn ở đó. Tôi có linh cảm rằng chỉ có Lanigan mới có thể cho chúng ta biết, và hắn sẽ không nói trừ khi buộc phải nói. Phải làm cho hắn khiếp sợ, Maurice. Parchman thì kinh hoàng lắm. Tôi cam đoan với ngài rằng hắn đang cầu nguyện để được Liên bang truy tố đấy.”
Mast bị thuyết phục nhưng lại khó lòng mà đồng ý. Đơn giản là vụ này quá lớn, không thể trao cho tòa án địa phương được. Đám báo chí lúc này đang đổ xô đến đây.
” Ông biết đấy, còn có những tội danh khác,” ông ta nói. “Vụ trộm cắp xảy ra ở bên ngoài lãnh thổ, cách đây rất xa.”
“Phải, nhưng nạn nhân là một cư dân của quận này vào thời điểm đó,” Parrish nói.
“Vụ này không đơn giản.”
“Ông muốn nói gì?”
“Có lẽ là chúng ta nên làm chung, ” Mast nói, và sự căng thẳng giảm đi đáng kể. Liên bang có thể ra đòn trước bất kỳ lúc nào, và việc vị công tố Liên bang đề nghị chia xẻ trách nhiệm là điều cao nhất mà Parrish có thể hy vọng.
Parchman là vấn đề cốt lõi và ai trong căn phòng này cũng biết điều này. Tay luật sư Lanigan kia hẳn phải biết điều gì đang đợi hắn ở đó, và khả năng sống mười năm ở cái địa ngục đó trước khi chết có thể làm cho hắn phải mở miệng.
Một kế hoạch được thảo ra để chia cái bánh và cả Parrish lẫn Mast đều ngầm thỏa thuận về việc chia xẻ sự phô trương. FBI sẽ tiếp tục cuộc tìm kiếm khoản tiền kia. Giới chức địa phương sẽ tập trung vào vụ giết người. Parrish sẽ nhanh chóng nhóm họp cái hội thẩm đoàn của ông ta. Một mặt trận thống nhất sẽ được ra mắt công chúng. Những vấn đề rắc rối như việc xét xử và những kháng cáo sau đó được bỏ qua với một lời hứa vội vã là sẽ đề cập sau. Điều quan trọng lúc này là tìm ra được một cuộc ngừng bắn để bên này khỏi phải lo ngại về bên kia.
Do một phiên xét xử đang diễn ra trong tòa nhà Tòa án Liên bang, đám báo chí được lùa ngang phố sang Tòa án Biloxi, nơi có thể sử dụng phòng xét xử chính nằm trên tầng hai. Có vài chục phóng viên. Hầu hết là đám địa phương, nhưng cũng có những người khác đến từ Jackson, New Orleans và Mobile. Họ chen lấn và túm tụm ở đằng trước giống như đám trẻ con trong một cuộc diễu hành.
Mast và Parrish nghiêm trang bước tới một bục gỗ trên có để sẵn các micrô, loằng ngoằng dây rợ. Cutter và nhóm cảnh sát còn lại đứng thành một hàng ngang sau lưng họ. Đèn bật sáng và các máy ảnh chụp lia lịa.
Mast hắng giọng và nói, “Chúng tôi hài lòng được thông báo việc đã bắt giữ ông Patrick S.Lanigan, một cựu công dân của Biloxi. Ông ta vẫn còn sống, và khỏe mạnh, và hiện đang ở trong tay chúng tôi.” Ông ta ngừng lời nhằm gây ấn tượng, thưởng thức khoảnh khắc tắm trong luồng hào quang của mình, lắng nghe những tiếng kêu đầy kích động và hồi hộp như của một bầy kền kền. Tiếp đó, ông ta nói thêm về một số chi tiết của vụ bắt giữ đó – Braxin, hai ngày trước, những giấy tờ tùy thân giả mạo – mà không để lộ bất kỳ một dấu hiệu nhỏ nhất nào rằng cả ông ta lẫn FBI đều không làm được trò vè gì trong việc thực sự tìm ra Patrick. Tiếp đó là vài chi tiết vô dụng về việc đưa tù nhân đến, những tội danh có thể có, bàn tay kiên quyết và nhanh chóng của pháp luật Liên bang.
Parrish không diễn giải nhiều như vậy. Ông ta đã hứa hẹn việc nhanh chóng khởi tố tội giết người, và về bất kỳ tội danh nào khác mà ông ta có thể tính đến.
Các câu hỏi dồn dập được đưa ra. Mast và Parrish từ chối bình luận về gần như mọi thứ, và liên tiếp từ chối như vậy trong khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ.
oOo
Ả kiên quyết đòi cho Lance được có mặt trong suốt buổi gặp. Ả nói là cần gã. Trông gã rất chơi bời trong bộ đồ cộc bó chẽn. Đôi chân cuồn cuộn những bắp thịt của gã đầy lông lá và rám nắng. Viên luật sư cảm thấy kinh tởm, nhưng mà ông ta đã quá từng trải.
Trudy ăn mặc rất mốt — váy cộc bó chặt, chiếc áo blu màu đỏ khêu gợi, trang điểm kỹ càng và mang đầy đồ nữ trang. Ả bắt chéo cặp chân thon thả để thu hút sự chú ý của viên luật sư, và đặt tay trên vai Lance trong khi gã xoa nắn đầu gối ả.
Viên luật sư phớt lờ cả cặp chân đẹp lẫn cái trò vuốt ve kia.
Ả tuyên bố là cần phải đệ đơn xin ly hôn, điều mà ả đã nói vắn tắt trên điện thoại. Ả điên cuồng và chua chát. Làm sao hắn lại có thể làm điều này đối với ả? Và đối với Ashley Nicole, đứa con gái yêu quý của họ nữa? Ả đã yêu hắn say đắm. Cuộc sống của họ bên nhau đã từng tốt đẹp. Còn bây giờ thì chuyện như vậy.
“Việc ly hôn không phải là vấn đề,” viên luật sư nói, và không phải là lần đầu. Tên ông ta là J. Murray Riddleton, một chuyên gia về các vụ ly hôn với rất nhiều khách hàng. “Việc đó thật dễ dàng. Theo luật pháp bang Alabama, bà sẽ được ly hôn, có toàn quyền nuôi con, hưởng toàn bộ tài sản, tất cả.”
“Tôi muốn đệ đơn càng nhanh càng tốt,” ả nói.
“Tôi sẽ làm nó ngay vào buổi sáng mai.”
“Sẽ phải mất bao nhiêu thời gian?”
“Chín mươi ngày. Một giấc ngủ trưa dài thôi.”
Điều này không làm giảm nhẹ được mối lo âu của ả. “Tôi không hiểu tại sao người ta lại có thể làm như vậy đối với người mà mình yêu quý. Tôi cảm thấy bị lừa dối.” Bàn tay của Lance xoa bóp nhè nhẹ ngược lên phía trên.
Chuyện ly hôn là chuyện nhỏ nhất trong những mối lo ngại của ả. Viên luật sư biết điều đó. Ả có thể đã cố tỏ ra đau đớn, nhưng điều đó không lừa được ai.
“Bà đã có được bao nhiêu tiền bảo hiểm sinh mạng ” Ông ta hỏi, tay lật lật đám hồ sơ.
Ả giật nảy mình và gắt lên, “Chuyện đó thì có liên quan gì?”
“Bởi vì họ sắp sửa kiện bà để lấy lại số tiền đó. Ông ấy không có chết, thưa bà Trudy. Không chết, không có tiền bảo hiểm sinh mạng.”
“Ông đùa đấy à.”
“Không.”
“Họ không thể làm vậy. Đúng không? Không thể nào.”
“Nào, nào. Thực sự là họ sẽ làm việc đó rất nhanh chóng đấy.”
Lance rụt tay lại và co mình trong chiếc ghế của gã. Trudy thì há hốc miệng với hai mắt ngân ngấn. “Họ không thể.”
Viên luật sư lấy ra một tập giấy tờ mới và mở nắp bút. “Chúng ta hãy lập một danh mục.”
Ả đã trả một trăm ba mươi nghìn đôla cho chiếc Rolls-Royce và vẫn còn đang sở hữu nó. Lance dùng một chiếc Porsche mà ả mua cho với giá tám mươi lăm nghìn. Ngôi nhà được mua với giá chín trăm nghìn, tiền mặt, không thế chấp gì, và đang đứng tên Lance. Sáu mươi nghìn cho chiếc xuồng để gã buôn lậu ma túy. Một trăm nghìn cho những đồ trang sức của ả. Họ tính toán với các con số. Sau cùng thì bản danh mục này dừng lại ở con số khoảng một triệu rưỡi. Viên luật sư không nỡ lòng nào mà nói rằng những tài sản quý giá này của họ sẽ phải ra đi đầu tiên.
Giống như trò nhổ răng mà không dùng tới thuốc giảm đau, ông ta buộc Trudy phải ước tính tới các khoản chi tiêu hàng tháng của họ. Ả tính rằng nó vào chừng mười nghìn một tháng, trong suốt bốn năm qua. Họ đã có những chuyến đi hoang phí và tiêu tiền như rác đến mức không hãng bảo hiểm nào còn có gì hòng thu hồi lại được.
Ả thất nghiệp, điều mà ả ưa gọi là nghỉ hưu. Lance thì hẳn sẽ không đề cập tới nghề buôn lậu ma túy của gã. Họ cũng chẳng dám lộ ra, cho dù là với luật sư của mình, rằng họ đã cất giấu ba trăm nghìn đôla trong một nhà băng ở Florida.
“Ông nghĩ là khi nào thì họ sẽ khởi kiện?”
“Chỉ nội nhật tuần này,” viên luật sư đáp.
Trên thực tế thì việc khởi kiện đó xảy đến nhanh hơn nhiều. Vào giữa buổi họp báo, khi mà tin tức về sự sống lại của Patrick được công bố, các luật sư của công ty Northern Case Mutal đã lặng lẽ bước vào phòng tiếp nhận đơn khiếu kiện ở ngay tầng dưới và khởi kiện Trudy Lanigan để đòi lại toàn bộ hai triệu rưỡi đôla, cộng với lãi suất và tiền chi phí cho các luật sư. Đơn kiện này cũng bao gồm cả một yêu cầu xin tạm thời cấm Trudy di chuyển tài sản khi mà giờ đây ả đã không còn là một góa phụ nữa.
Các luật sư này mang yêu cầu đó của họ tới phòng của một thẩm phán, người mà họ đã có trao đổi trước đó vài giờ, và trong một cuộc điều trần kín khẩn cấp hoàn toàn thích đáng, vị thẩm phán này đã ban lệnh cấm di chuyển tài sản đối với Trudy. Là một thành viên có uy tín của cộng đồng pháp lý ở đây, vị thẩm phán này rất biết về vụ Patrick Lanigan. Vợ ông ta đã bị Trudy làm cho mất mặt ngay sau khi ả mua chiếc Rolls-Royce đỏ rực kia.
Trong lúc Trudy và Lance vừa sờ soạng nhau vừa bàn tính với viên luật sư của họ, một bản sao của cái lệnh cấm di chuyển tài sản kia được chuyển tới Mobile và trao cho viên thư ký tòa án quận. Hai giờ sau, trong lúc họ đang ngồi trước hiên nhà nhìn ra vịnh Mobile và nhấm nháp ly rượu đầu tiên thì một người chạy giấy đã vào đưa tận tay Trudy bản sao cái đơn kiện của công ty Northern Case Mutual, một trát gọi ra hầu tòa ở Biloxi, và một bản sao lệnh cấm di chuyển tài sản. Trong số những điều cấm của lệnh này, có điều cấm ả không được viết một tấm séc nào nữa cho đến khi tòa cho phép.