Giã từ nước mắt

Chương 04



Hơn bốn rưỡi, Milla lê bước vào căn hộ của mình. Cô mệt rã rời và chán nản tới mức không mong muốn gì hơn là được trèo lên giường và vùi mình dưới chăn.

Quá gần.

Cô không thể gạt điệp khúc đó ra khỏi đầu. Nhiều năm trời cô duy trì hi vọng và quyết tâm mà chẳng có gì bám víu, vậy mà giờ đây, khi đã thực sự trông thấy tên khốn đó và biết hắn còn sống, biết hắn đang ở đâu, cô lại chỉ cảm thấy tuyệt vọng vì đã không thể bắt được hắn.

“Mình sẽ không để việc đó làm mình nản lòng,” Milla nói to, đi vào phòng tắm và lột quần áo bẩn ra. “Mình sẽ không thế.” Đó là cách cô đã vượt qua địa ngục mười năm qua, đơn giản là cô không chịu đầu hàng. Đôi khi cô cảm thấy mình như những người lính Nhật Bản sau Thế chiến thứ Hai, vẫn tiếp tục chiến đấu rất lâu sau khi chiến tranh kết thúc bởi vì họ không chịu chấp nhận kết quả của nó.

Chiếc gương trong phòng tắm phản chiếu một khuôn mặt căng thẳng và nhợt nhạt vì kiệt sức, với đôi mắt nâu thâm quầng và đường môi mím chặt. Đêm nay, trông cô già hơn tuổi ba mươi ba rất nhiều. Lọn tóc bạc trên mái tóc rối bù của cô nổi rõ hơn dưới ánh đèn nê-ông. Vài ngày sau vụ bắt cóc, một y tá ở phòng khám đã nhận thấy một lọn tóc của cô biến thành màu trắng. Lọn tóc ấy luôn nổi bật trong những bức hình chụp tại các buổi gây quỹ, một lời nhắc nhở cho tất cả mọi người rằng cô biết quá rõ nỗi đau của những ông bố, bà mẹ mất con.

Cô nhớ ra tối mai lại có một buổi gây quỹ khác. Không, tối nay. Chỉ vì cô chưa đi ngủ không có nghĩa là ngày mới còn chưa tới.

Nhưng sau khi Milla đã tắm, mặc áo ngủ vào, rồi buông mình xuống giường, giấc ngủ vẫn không chịu tới. Đêm nay cô đã ở quá gần với kẻ bắt cóc Justin, và suýt chút nữa thì cô đã khiến cả cô và Brian bị giết. Nếu cô lao vào bốn gã kia, súng lăm lăm trong tay, chúng sẽ bắn vào cô và tất nhiên Brian sẽ phải bắn yểm trợ cô. Thật đáng sợ. Brian đã đúng khi thất vọng về cô. Đội tìm kiếm không phải là những kẻ săn mồi; họ không được huấn luyện để lao vào những vụ nổ súng. Các thành viên cốt cán trong đội đều tập bắn súng để biết cách bảo vệ bản thân khi cần thiết, nhưng chỉ có thế.

Nhưng vì việc này có dính dáng đến Justin, cô đã mất hoàn toàn lý trí, mọi ý thức cảnh giác. Cô sẽ phải làm tốt hơn thế, nếu không cô sẽ chết mà không bao giờ tìm được con mình.

Cuối cùng Milla cũng thiu thiu ngủ, và cô mơ thấy Justin. Đó là một giấc mơ quen thuộc cô thường mơ thấy trong vài năm đầu sau khi thằng bé bị bắt cóc, nhưng giờ tiềm thức của cô hiếm khi tái diễn nó nữa. Giấc mơ chỉ rất ngắn ngủi, nhưng nó thật đến kinh ngạc. Cô đang đu đưa thằng bé trong khi nó bú, cảm thấy trọng lượng bé nhỏ của nó trên hai cánh tay và hơi ấm của thân thể bé xíu ấy trên người mình. Cô ngửi thấy mùi trẻ sơ sinh ngọt ngào, chạm vào mái tóc vàng mềm mại và vuốt ve đôi má mượt như nhung của nó. Cô cảm thấy sữa của mình chảy ra, cái miệng chúm chím của thằng bé mút lấy núm vú cô… và cô cảm thấy yên bình vô cùng.

Milla thức dậy trong lúc đang khóc, như mọi khi. Cứ mỗi lần cơ thể mệt mỏi là cô không tài nào ngủ lại được. Sau nửa giờ cố gắng gạt giấc mơ ra khỏi tâm trí, cô đầu hàng, trở dậy pha ít cà phê; rồi trong lúc máy chạy, cô cởi bộ áo ngủ và tập vài động tác co duỗi cùng yoga ưa thích.

Vì Milla không bao giờ biết một vụ tìm kiếm sẽ đòi hỏi cô phải làm gì, chạy trên đường phố hay trèo lên núi đá, nên cô cố gắng giữ sức khỏe tốt. Nhưng chẳng có việc gì là dễ dàng hay tự nhiên đối với cô. Cô cực kì ghét đổ mồ hôi, gần bằng ghét côn trùng hay ghét bị bẩn vậy. Mặc dù vậy cô vẫn làm, vì đó là việc cô phải làm, cũng như cô đã học cách sử dụng vũ khí kể cả khi cô ghét tiếng ồn, khói, mùi và mọi thứ liên quan đến chúng, cố lắm cô cũng chỉ là tay súng xoàng, nhưng cô kiên trì tập luyện cho đến khi ít nhất cũng đạt được bậc trung bình. Để truy lùng kẻ đã bắt Justin, cô đã học cách làm rất nhiều thứ mà cô không thích, đã biến mình thành một người khác hẳn.

Không, chính là những tên khốn ấy đã thay đổi cô. Cô đã thay đổi kể từ giây phút Justin bị giật khỏi tay mình. Kể từ lúc tỉnh lại trong phòng khám nhỏ ấy, cô đã là một người phụ nữ khác, chỉ tập trung vào một việc: tìm lại đứa con.

Đó là lý do David ly dị cô.

Đúng, anh đã ly dị cô, nhưng anh không bỏ rơi cô. Anh khăng khăng mua căn hộ này cho cô ở bờ Tây El Paso, và hàng năm gửi cho cô bốn mươi ngàn đô la tiền trợ cấp. Hai việc ấy cho phép cô tập trung toàn thời gian cho Đội tìm kiếm.

Nếu cô để mặc anh, chắc David sẽ dốc hết tài sản để mua cho cô một căn biệt thự rộng thênh thang và gửi cho cô một khoản tiền lớn khác thường mỗi năm. Căn hộ này chỉ thuộc cỡ trung, rộng khoảng một trăm chín mươi mét vuông với hai phòng ngủ, hai phòng tắm trên tầng hai và một phòng tắm nhỏ dưới tầng một. Nó đã hai mươi năm tuổi, ấm cúng mà không hề phô trương. Con số bốn mươi ngàn đô một năm là nhiều hơn mức sống thoải mái của cô tới mười lăm ngàn, nhưng Milla hiểu đó là cách David giúp đỡ cô trong cuộc tìm kiếm. Anh không thể làm việc cô đang làm, vì thế anh làm những gì có thể, và nếu tính đến chuyện giờ anh đã có một gia đình, việc đó còn hơn cả rộng rãi.

Tập xong, cô rót một cốc cà phê và mang nó lên lầu để mặc quần áo. Hôm nay không cần mặc quần bò và đi ủng, ơn Chúa, cô có thể mặc váy và đi xăng-đan cho mát. Milla luôn tận dụng những ngày không phải đi lại để thong thả dưỡng ẩm da, chăm sóc mái tóc, trang điểm và xịt nước hoa; chỉ là những thứ vặt vãnh, những thứ cô làm cho chính mình, nhưng chúng xoa dịu nhu cầu trong cô. Mặc dù có những ngày cô sẽ trông giống một bản sao pha trộn giữa một nữ quân nhân với Thelma và Louise[1] ngay trước khi họ lao mình qua hẻm núi, bên trong cô vẫn là một người phụ nữ thích những thứ nữ tính.

[1] Hai nhân vật nữ chính trong bộ phim Thelma & Louise, được xây dựng với tính cách trái ngược nhau: Thelma yếu đuối và thụ động, còn Louise độc lập và mạnh mẽ. Với hai mẫu hình phụ nữ cá tính sát cánh bên nhau ấy, bộ phim được coi là biểu tượng cho khát vọng nam nữ bình quyền đầu thế kỉ XX.

Do phải tốn thêm thời gian chăm chút cho nhan sắc, Milla đến văn phòng muộn. Đội tìm kiếm đặt trụ sở trên tầng thượng của một nhà kho vốn do True Gallager – một doanh nhân ở El Paso quyên tặng. Tầng trệt của nó vẫn còn được sử dụng, và cô đã quen với tiếng động cơ cần cẩu ở bên dưới, tiếng hét của đám công nhân và tiếng những chiếc xe tải mười tám bánh tới để nhận hay chuyển máy móc.

Các văn phòng trên lầu rất sơ sài. Bóng đèn nê-ông không máng, sàn gạch rạn nứt và tường sơn xanh lá cây kiểu công nghiệp. Bàn làm việc bằng kim loại cũ kĩ đã trầy xước, phần lớn ghế ngồi đều phải quấn băng dính, và chỉ có hai căn phòng riêng – thực ra là nửa riêng tư, vì nửa trên của bức tường trước mặt cả hai căn phòng đều được trổ cửa sổ lớn. Tuy nhiên, hệ thống điện thoại là loại tối tân. Đội tìm kiếm đã bỏ tiền vào chỗ cần thiết nhất.

Milla yêu các nhân viên của cô. Chúa biết họ không làm việc tại đây vì tiền – vốn chỉ là một con số khiêm tốn. Họ làm việc nhiều giờ dài đằng đẵng, bao gồm hầu hết các ngày thứ bảy, và đôi khi làm luôn cả chủ nhật. Bản thân cô không có lương, kể cả lương danh nghĩa. Phần lớn thành viên của Đội tìm kiếm đều là tình nguyện viên, trải rộng trên khắp cả nước, họ tặng không thời gian và công sức bất kể khi nào được cần tới để tìm người bị mất tích trong khu vực của mình. Tuy nhiên, những thành viên cốt cán của đội, nhóm ở tại El Paso này thì cống hiến toàn bộ thời gian cho công việc và được trả lương.

Brian đang ở chỗ máy pha cà phê khi Milla đi vào. “Làm một cốc nhé?” cậu ta hỏi, và cô gật đầu.

Joann nhìn lên bằng ánh mắt lo lắng. “Tối qua thế nào? Cô tìm được gì không?”

“Kẻ bắt Justin đã có mặt ở đó,” Milla nói huỵch toẹt, và một loạt những tiếng xôn xao vang lên. Mọi người đều đẩy ghế ra và vội tiến lại.

“Chuyện gì đã xảy ra?” Debra hỏi, đôi mắt xanh của cô mở lớn. “Chị có nói chuyện với hắn không?”

Brian tiến lại và đặt cái cốc nhựa vào tay Milla. “Không, bọn chúng có bốn người, chúng tôi chỉ có hai.” Cậu ta liếc nhìn cô ngụ ý là cậu ta sẽ không để lộ chuyện cô đã thiếu xét đoán.

Mặc dù vậy Milla không định giấu giếm – cô nói thẳng: “Kế hoạch là thế, nghĩa là chúng tôi sẽ không manh động nếu chúng có hơn hai người. Nhưng khi trông thấy hắn, tôi đã mất kiểm soát. Tất cả những gì tôi muốn làm là siết tay quanh cổ họng hắn.”

“Lạy Chúa tôi,” Olivia buột miệng. “Chuyện gì đã xảy ra? Chúng có bắn hai người không?”

“Chúng không bao giờ biết chúng tôi ở đó. Tôi bị một gã khác đánh lén và hạ gục.”

“Lạy Chúa tôi,” Olivia lại nói. “Cô có bị thương không? Đã đi gặp bác sĩ chưa?”

“Tôi không sao.”

“Tôi không hiểu,” Joann nói. “Rõ ràng tên này biết cô ở đó, tại sao hắn không báo với bọn kia?”

“Hắn không cùng bọn. Hắn cũng đang theo dõi chúng.”

“Chà, lằng nhằng thật,” ai đó lẩm bẩm.

“Có biết đó là ai không?” Debra hỏi.

“Không. Tôi không nhìn thấy hắn. Mặc dù vậy, bất kể hắn định làm gì, hắn đã cứu mạng chúng tôi bằng cách đánh lén tôi. Và để tôi thú tội nốt – tôi cũng đã lao vào một quán rượu và đưa ra phần thưởng mười ngàn đô la cho bất kì ai có thể cho tôi biết tìm Diaz ở đâu. Vì thế, nếu các bạn có nhận được cuộc gọi nào hỏi về phần thưởng, thì đây là lý do nhé.”

“Hóa ra là thế,” Olivia nói, mày nhướng lên. “Ngay sáng sớm nay tôi đã nhận được một cuộc gọi đe dọa, bảo tôi tránh xa Diaz ra nếu không sẽ chết. Đại khái tôi nghĩ cô ta đã nói thế. Lúc ấy chưa uống cà phê, nên khả năng nghe tiếng Tây Ban Nha của tôi còn chưa được tăng tốc tối đa. Tôi đã bảo cô ta là tôi chẳng có bạn trai nào tên Diaz cả.”

“Cô ta à?” Milla hỏi, chân mày cô cũng nhướng lên.

“Chắc chắn là một ‘cô’. Thế nên tôi mới nghĩ tới một cô bạn gái đang giận dữ. Nghe như kiểu cô vừa làm ai đó điên tiết vậy.”

Phải, đúng vậy. Việc này thật hay ho. “Cô có lấy được số không?”

“Có chứ.” Olivia tới bên bàn làm việc của mình và – kiểm tra máy hiển thị cuộc gọi. “Số gọi từ El Paso, nhưng tôi không nhận ra số tổng đài.”

Brian chồm tới và nhìn vào dãy số. “Thẻ điện thoại,” cậu ta nói. “Không dò được đâu.”

Có điều gì đó nơi Brian luôn làm cho từng đầu dây thần kinh của Olivia cáu tiết. “Thật sao?” Giọng cô lạnh như băng. “Tôi đoán là cậu cũng có thể đọc vanh vách cả tuổi, giới tính và cân nặng từ một số điện thoại đấy nhỉ, anh chàng Thợ săn Da trắng Vĩ đại?” Câu cuối là lời nhiếc móc tinh tế vào tiểu sử quân nhân của cậu ta – Olivia vốn là một chú chim bồ câu bé nhỏ hiền lành cực kì miễn cưỡng khi phải học mọi thứ về vũ khí.

“Không phải giới tính,” Brian nói, cười toe toét. “Tôi dùng một phương pháp khác để tìm hiểu chuyện đó.” Cậu ta đổ thêm dầu vào lửa bằng cách xoa đầu cô trước khi thận trọng lùi khỏi tầm tay. “Tôi thường mua thẻ điện thoại để gọi các cuộc đường dài, vì thế tôi biết dãy số hiển thị lên máy sẽ như thế nào. Với kinh nghiệm lâu năm của mình, tôi dám nói rằng đó là một chiếc thẻ AT&T, có thể mua được dễ dàng ở bất kì siêu thị Wal-Mart nào và còn nhiều nơi khác nữa.”

Milla can thiệp. “Hãy xem lại mọi nhân tố nào. Chiều muộn ngày hôm qua, tôi nhận được một cuộc gọi trên điện thoại di động cung cấp manh mối về Diaz. Người gọi là đàn ông. Tôi không để ý số, nhưng tôi sẽ xem lại xem nó có khớp với số gọi hôm nay không. Brian và tôi đều nghĩ đó có thể là một cái bẫy, không phải cho chúng ta, mà cho Diaz. Ai đó muốn gạt hắn ra khỏi đường đi.”

“Chúng tôi đã tới chỗ hẹn, và trong số những gã có mặt, có kẻ đã bắt cóc Justin. Tôi chỉ nhận diện được hắn. Có thể hắn chính là Diaz, khả năng trùng hợp là khá lớn.”

Milla để ý thấy khi cô nói, Joann cắm cúi ghi chép từng ý một.

“Bốn gã đàn ông đến trong hai chiếc ô tô, mỗi xe hai gã, và lôi cái gì đó ra khỏi cốp một chiếc xe để chuyển sang cốp bên kia. Tôi không nhìn ra được đó là gì…”

“Một xác người,” Brian nói, thẳng thừng. “Bị quấn trong một cái bạt hoặc một cái chăn.”

Cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng Milla. Đáng lẽ cô phải nhận ra, nhưng cô đã quá chăm chú vào gã chột. Lại thêm một bằng chứng nữa cho thấy cô phải kiểm soát những cảm xúc của mình; cô đang bỏ qua những chi tiết quá rõ ràng.

“Tôi bị một kẻ tấn công giấu mặt hạ gục, hắn ta chỉ quan tâm tới bốn gã kia chứ không hề quan tâm tới chuyện tôi đang làm gì ở đó. Khi bốn tên kia lái xe đi, hắn đánh ngay vào huyệt để làm tôi bất tỉnh…”

“Chị đã không kể cho tôi chuyện đó,” Brian ngắt lời, ánh mắt sắc bén.

“Chỉ là bất tỉnh thôi. Ít nhất tôi không bị chấn động.”

“Đúng, nhưng nếu bị ấn lâu quá, chị có thể bị tổn thương não bộ đấy.”

Cô đã không nghĩ tới viễn cảnh mình có thể dễ dàng bị tật nguyền như thế nào. Nhưng cô cũng không thể làm gì để bảo vệ bản thân, ngoài việc không có mặt ở đó ngay từ đầu, còn chuyện rút lui khỏi cuộc tìm kiếm thì cô không bao giờ lựa chọn.

Milla lắc đầu gạt đi những hồi tưởng sợ hãi của mình. “Tôi cho là hắn đã đi theo một trong hai cái xe, nhưng cũng có thể hắn đã bám theo Brian và tôi. Tôi không thể nghĩ ra lý do hắn phải làm thế, ngoài tò mò, nhưng nó vẫn là một khả năng. Tôi đã đưa ra phần thưởng mười ngàn đô cho thông tin về Diaz trong một quán rượu đầy đàn ông, và sáng nay một phụ nữ gọi tới bảo chúng ta tránh xa Diaz ra nếu không sẽ chết.” Cô dừng lại. “Có ai muốn thêm gì vào đống lộn xộn này không?”

Không ai trả lời. Joann nghiên cứu các sự kiện. “Tôi thấy sự kiện bất thường nhất chính là gã đàn ông đã tấn công cô. Mọi thứ khác đều có lý. Gã chột có thể là Diaz và ai đó đã gài bẫy hắn. Khi cô đi vào trong quán rượu và tuyên bố thế kia, hắn đã nghe được, rõ ràng đoán ra cô suýt tóm được hắn, vì cô cũng ở cùng ngôi làng ấy vào cùng một thời điểm, và hắn đã cử ai đó gọi tới cảnh cáo cô.”

Milla cũng nghĩ vậy, nhưng không mạch lạc được như thế. Joann có sở trường tách bạch mọi chuyện khiến Milla thấy cô gái càng đáng giá.

“Rõ ràng người gọi tới cho tôi đầu tiên muốn chúng ta tóm được Diaz, vì một lý do nào đó. Có lẽ là cạnh tranh, nhưng tôi không quan tâm là vì sao. Giờ chúng ta chỉ biết chờ anh ta gọi lại lần nữa.”

Việc đó đi ngược lại ý cô. Cô muốn cào xới khắp làng Guadalupe, kể cả khi lôgic bảo với cô rằng việc đó chỉ tốn thời gian. Cô muốn hành động theo cách nào đó, bất kì cách nào, thay vì ngồi chờ một cú điện thoại có thể nhiều ngày, nhiều tuần, thậm chí không bao giờ tới.

Điện thoại reo ngay lúc ấy, và một nhân viên vội vã trả lời. Sau khi nghe một phút, anh ta nhìn lên và nói: “Báo động Amber[2] ở California, khu vực San Clemente.”

[2] Tức báo động khẩn cấp về trẻ em bị bắt cóc. Amber là tên của một đứa bé chín tuổi bị bắt cóc và giết hại ở bang Texas, Mỹ năm 1996.

Đó là hiệu lệnh vào trận. Chỉ trong vòng vài giây, tất cả mọi người đều gọi điện thoại, báo động đội quân tình nguyện viên ở San Clemente và vùng phụ cận, cử mọi người ra xa lộ và quốc lộ, tìm kiếm một chiếc xe khả nghi, chiếc Honda Accords màu xanh. Theo lời nhân chứng, một gã đàn ông đã chộp lấy cô bé mười hai tuổi trong bãi đỗ xe của tiệm đồ ăn nhanh và đẩy cô bé vào trong xe hắn. Một người phụ nữ đã đọc được một phần biển số xe khi chiếc xe lạng lách qua bãi đỗ.

Với thông tin đó, Đội tìm kiếm sẽ thiết lập những điểm quan sát – những người mang ống nhòm tìm kiếm chiếc Honda Accords màu xanh do đàn ông lái. Khi xác định được một chiếc, thông tin sẽ được chuyển tới những Người tìm kiếm đang trên xe, họ sẽ tiếp cận chiếc xe và kiểm tra biển số. Đội tìm kiếm không cố bắt người; nếu họ định vị được chiếc xe, đến lượt họ sẽ thông báo cho nhà chức trách trong khu vực và để nhà chức trách xử lý.

Milla kiểm tra đồng hồ: tám giờ bốn mươi ba phút ở California. Giao thông đang đông đúc, một việc có thể có ích hoặc không. Nếu một người đang nghe đài thì anh ta sẽ nghe thấy Báo động Amber, nhưng nếu anh ta đang nghe đĩa CD hoặc MP3 thì sẽ không hề biết.

Cô gạt mọi sự kiện đêm qua đi và tập trung vào việc tìm cô bé ở California trong khi cô bé vẫn còn sống.

Cô đã không thể làm việc đó cho chính con mình, nhưng cô có thể làm cho con người khác.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.