Ngồi trên mép một kiện hàng, Vêrôních quay sang cười với Honorin. Nụ cười còn phảng phất lo âu, nụ cười phân vân rụt rè như tia nắng yếu ớt cố xuyên qua những lớp mây cuối cùng sau cơn giông tố. Dù sao nụ cười vẫn là biểu hiện của những điều tốt lành.
Một con người như Vêrôních đáng lẽ phải là hiện thân của sung sướng và hạnh phúc. Nàng có khuôn mặt đẹp tuyệt trần, khuôn mặt mang dấu ấn của sự thanh cao với vẻ e ấp đặc biệt thường thấy ở những thiếu phụ gặp cảnh ngộ éo le, tình duyên ngang trái hoặc đau khổ quá mức, trễ nải việc trang điểm mà nét mặt trở thành nghiêm nghị.
Mái tóc huyền hơi ngả xám ở hai bên thái dương được buộc thắt lại chỗ ngang gáy. Nàng có nước da bánh mật, nước da của phụ nữ miền Nam, đôi mắt to rất trong sáng, toàn bộ nhãn cầu đều có một màu xanh phơn phớt, màu xanh của bầu trời mùa đông. Thân hình nàng cao lớn, vai nở, cân đối. Tiếng nói dịu dàng, hơi trầm càng trở nên vui vẻ ấm áp khi nói về đứa con trai của nàng. Honorin vừa cho biết nó còn sống.
Honorin không sao lái được Vêrôních vào những chuyện đang làm đầu óc chị quay cuồng. Thỉnh thoảng chị lại gợi.
– Này, có hai việc tôi nghĩ mãi không ra. Ai đã viết những dấu chỉ đường cho bà từ Phaouê đến đây, tận chỗ tôi dùng làm bến lên xuống này? Tôi cho rằng nhất định phải có một người nào đó đã từ Phaouê ra đảo Xarếch trước bà! Và còn việc này nữa: việc cụ Magơnốc bỗng dưng đi khỏi đảo? Cụ ấy tự đi hay người ta giết rồi đem xác cụ ấy đi? Đem bằng cách nào?
– Thôi? Chị thắc mắc những cái đó làm gì! – Vêrôních gạt đi.
– Thật đấy. Bà thử nghĩ xem, ngoài chiếc xuồng của tôi dùng để chở thực phẩm từ Bếchmây hay Pônglabê ra đảo mỗi tháng hai chuyến, chỉ còn hai thuyền đánh cá thường xuyên ra khơi và đến tận Ôđiéc bán cá. Thế thì bà bảo Magơnốc đi khỏi đảo bằng cách nào? Rốt cuộc liệu có phải cụ ấy tự sát không? Nhưng nếu thế tại sao xác cụ ấy lại biến mất?
Vêrôních nói như van lơn.
– Thôi chị ơi… Lúc này, những chuyện ấy không quan trọng. Tất cả rồi sẽ sáng tỏ. Bây giờ, chị hãy nói về Phơrăngxoa. Có phải chị vừa nói Phơrăngxoa đã ra ngoài đảo phải không?
Honorin đành chiều theo lời khẩn khoản của người thiếu phụ trẻ.
– Ờ, Phơrăngxoa ra đảo trong cánh tay bồng bế của ông già Magơrnôc bất hạnh một vài ngày sau khi người ta đánh cắp nó. Cụ Magơnốc được ông Đecgơmông dặn trước nên đã nói với mọi người rằng có một bà ngoại quốc gửi đứa bé cho cụ và cụ giao nó cho người con gái cụ nuôi. Người con gái cụ chết từ dạo ấy. Còn tôi thì mới mười bốn tuổi đã sống với người Pari. Khi tôi trở về, đứa trẻ đã trở thành một cậu bé rắn rỏi chạy lăng xăng khắp bãi biển trên các bờ vực thẳng đứng. Đó chính là lúc bố bà đến Xarếch, và cũng là lúc tôi nhận giúp việc cho ông ấy. Khi người con gái cụ Magơnốc qua đời, người ta mang đứa trẻ về chỗ chúng tôi. Ông Đecgơmông người ta gọi là ông Ăngtoan. Đứa trẻ gọi ông bằng ông ngoại. Mọi người chẳng ai thắc mắc.
– Tính tình cháu thế nào?
– Cái đó, ồ, khỏi phải nói, thật là ơn phước Chúa ban – Honorin đáp – Tính nó không giống bố, cũng chẳng giống ông ngoại. Chính ông Đecgơmông đã thú nhận như vậy. Một thằng bé dễ thương, biết vâng lời, dịu dàng, không bao giờ nổi giận, nét mặt lúc nào cũng tươi tắn. Chính vì vậy nó đã chinh phục được ông ngoại đến mức làm ông phải chạnh nghĩ đến bà, người con gái ông đã ruồng bỏ. “Nỏ là tất cả hình ảnh của mẹ nó: Vêrôních dịu dàng, thắm thiết, đôn hậu và giàu lòng nhân ái”. Ông Đecgơmông nói như vậy và ông bắt đầu để ý tìm bà. Sau dần dần tin tôi, ông giao việc ấy cho tôi.
Mắt Vêrôních long lanh vui sướng. Những lúc như thế trông nàng càng giống con trai nàng. Thật là một đứa trẻ tươi tắn tốt bụng.
– Nhưng liệu cháu có nhận ra tôi không? Nó có biết mẹ nó còn sống không?
– Nếu biết thì còn nói gì nữa! Trước hết vì ông Đecgơmông muốn giữ bí mật. Nhưng tôi đã nói hết với nó rồi.
– Chị nói hết cho cháu nghe rồi hả?
– Không, nó vẫn đinh ninh bố nó chết, mẹ thì tu ở một tu viện nào đó không thể tìm ra. Trời, nó thèm khát tin tức mẹ nó biết chừng nào! Mỗi lần tôi đi tìm bà trở về là một lần nó hy vọng, nó khắc khoải. Niềm hy vọng duy nhất của nó là được gặp mẹ. Nó yêu mẹ vô vàn. Lúc nào cũng nghêu ngao bài hát tôi vừa hát lúc nãy, bài hát ông ngoại nó dạy.
– Ôi, Phơrăngxoa của mẹ! Phơrăngxoa yêu quý của mẹ!
– Phải, nó yêu bà lắm – Honorin nói tiếp – Tôi tuy là “Má Honorin” của nó, nhưng bà mới thực đẻ ra nó. Và chính vì nhớ mẹ, lúc nào cũng chỉ muốn gặp mẹ, nó đã thôi học và trưởng thành trước tuổi.
– Thôi học… Cháu đi làm hả chị?
– Làm việc cùng với ông ngoại và trong khoảng hai năm gần đây cùng với một thanh niên con nhà tử tế tôi đưa từ Pari về, tên là Xtêphan Maru, một thương binh khắp người đầy những vết mổ xẻ. Thằng Phơrăngxoa dính với anh ta như hình với bóng.
Chiếc xuồng lướt nhanh trên mặt biển yên tĩnh để lại đằng sau một giải bọt trắng xoá. Những đám mây đen phía chân trời tan dần, báo hiệu một ngày yên tĩnh và thanh bình sắp kết thúc.
– A, còn cái này, quần áo của cháu thế nào hả chị?
– Nó mặc quần soóc, áo sơ mi rộng cúc mạ vàng, đội mũ nồi giống như ông Xtêphan người bạn lớn tuổi của nó, chỉ khác mũ của nó màu đỏ, vì nó thích loại mũ ấy.
– Ngoài ra, cháu có chơi với ai nữa không?
– Trước kia, nó chơi với tất cả thanh niên trên đảo, nhưng từ khi những người bố phải ra mặt trận, hầu hết thanh thiếu niên phải theo mẹ đi làm việc mãi tận bờ biển Côngcácnô hoặc Loriăng. Giờ thì chỉ còn toàn cụ già với ba đứa trẻ. Tất cả không quá ba mươi người.
– Thế thì chả còn ai cùng lứa tuổi để cháu kết bạn nữa chị nhỉ.
– Ô, vậy mà nó còn một người bạn rất tốt đấy?
– Ai vậy?
– Một con chó xấu xí nhất nhưng cũng ngộ nghĩnh nhất. Trông rất buồn cười, nửa giống chó xù, nửa như chó săn chuột. Nhưng nom thật nhộn và thật kỳ cục. Nó còn là một mẫu nhân vật luôn nhìn đời bằng con mắt lạc quan nữa kia đấy!
– Thế là thế nào hả chị?
– Phơrăngxoa đặt tên cho con chó là “Vạn Sự Tốt Lành”, kể ra cũng chẳng có cái tên nào hợp với con chó hơn cái tên đó. Lúc nào nó cũng hớn hở có vẻ bằng lòng với cuộc sống. Nhưng cũng có lúc thích sống biệt lập, thỉnh thoảng lại biến đâu mất hàng giờ, thậm chí cả ngày. Tuy nhiên, nếu ai có điều gì phiền muộn hoặc gặp lúc công việc không được trôi chảy như ý muốn, lập tức nó có mặt ngay! Vạn Sự Tốt Lành ghét nước mắt và không thích những cuộc cãi lộn, những tiếng quát tháo. Nếu thấy ai khóc (hoặc giả vờ khóc cũng thế) nó liền ngồi lên hai chân sau ngay trước mặt người ta, nhắm một mắt lại, một mất mở ti hí, nhe răng ra làm như đang cười toe toét, làm cho ai cũng phải bật cười. Những lúc như thế, Phơrăngxoa nói với con chó: “Này, anh bạn, kể ra anh có lý đấy. Nếu mọi việc đều tốt, tội gì chẳng làm phải không anh” Thấy người ta hết buồn phiền, Vạn Sự Tốt Lành lon ton bỏ đi. Thế là nó đã làm xong nhiệm vụ.
Nghe câu chuyện Honorin kể, Vêrôních vừa cười, vừa khóc. Nàng ngồi im mơ màng hồi lâu, nét mặt dần dần trở nên ảm đạm: Một nỗi tuyệt vọng từ đâu kéo đến xâm chiếm tâm hồn, nhận chìm tất cả những niềm vui vừa nhen nhóm trong lòng. Nàng chợt nghĩ đến những gì gọi là hạnh phúc bị mất mát trong mười bốn năm qua, mười bốn năm làm mẹ không con, mười bốn năm nàng mang nặng tang tóc một đứa con còn sống! Tất cả việc ấp ủ chăm sóc của người mẹ đối với đứa con, tất cả sự trìu mến người mẹ dành cho con và cũng nhận lại từ nó, tất cả lòng kiêu hãnh của người mẹ khi nhìn con mình lớn lên, nghe nó bi bô tập nói, tất cả những gì làm rạng rỡ tâm hồn, nâng cao địa vị người mẹ làm tràn ngập trái tim người mẹ một tình yêu đằm thắm đổi mới từng ngày… tất cả, tất cả nàng chưa hề được biết đến!
– Chúng ta đã đi được một nửa đường rồi đấy – Honorin nói với Vêrôních.
Xuồng của họ đi ngang qua các hòn đảo Gơlênan, bên phải là mũi Penmắc, cách mười lăm hải lý song song với bờ biển. Bờ biển vẽ thành một vệt mờ tối lẫn với đường chân trời.
Vêrôních nghĩ đến dĩ vãng buồn thảm, nghĩ đến mẹ. Phải khó khăn lắm nàng mới hình dung được nét mặt của mẹ. Nghĩ đến thời thơ ấu dài lê thê bên cạnh người cha ích kỷ và bẩn tính, nghĩ đến cuộc hôn nhân, chà, nhất là cuộc hôn nhân! Nàng hình dung những lần gặp gỡ đầu tiên với Voócki. Lúc ấy nàng vừa mười bảy tuổi. Hình như ngay từ đầu Vêrôních đã cảm thấy e sợ con người kỳ lạ đó, rất sợ là đằng khác. Nhưng không hiểu tại sao nàng lại chịu ảnh hưởng của anh ta cứ như cái tuổi mười bảy của nàng nhất thiết phải thuộc về một cái gì đó thật bí ẩn và khó hiểu.
Rồi đến cái ngày sinh nở đáng ghét và những ngày tiếp theo còn đáng ghét hơn nữa, những tuần lễ nàng bị Voócki giam lỏng, dọa dẫm và trấn áp bằng tất cả sức mạnh cường bạo của anh ta. Đầu óc Vêrôních cứ quay cuồng mãi với những kỷ niệm năm tháng thành lập gia đình. Đó là lời hứa hôn, bản giao kèo chống lại tất cả những gì là bản năng và lý trí trong con người nàng mà anh ta có được bằng thủ đoạn cướp giật, bằng cách gây ra vụ tai tiếng buộc cha nàng phải đồng ý, buộc nàng phải chấp nhận cuộc hôn nhân… Cái đó, ồ, không bao giờ, ngay cả những phút xấu nhất mà cơn ác mộng dĩ vãng đến ám ảnh ta như những bóng ma, không bao giờ ta còn để nó sống lại, kể cả trong cõi sâu thẳm và bí ẩn của tâm hồn. Cái thời kỳ đầy rẫy tai họa cay đắng và thất vọng, những vết bầm tím, sự phản bội, cuộc sống đáng hổ thẹn của chồng nàng, một con người vô liêm sỉ, ngông cuồng chó má, ngày càng lộ rõ bản chất của hắn, say khướt, cờ bạc, ăn cắp, lừa đảo, trùm con hát, đã cho vợ hắn cái cảm giác ghê tởm mà mỗi khi nghĩ đến, nàng không khỏi rùng mình! Thật là một loại quỷ sứ chuyên gieo rắc sự bất hạnh, một thứ hung thần phản trắc điên khùng!
– Thôi, đừng mơ mộng nữa bà Vêrôních – Honorin nói.
– Không, tôi không mơ mộng, tôi đang hối tiếc
– Vêrôních trả lời.
– Bà hối tiếc gì bà Vêrôních. Bà cho cuộc đời chỉ là một chuỗi thống khổ hay sao?
– Vâng, thông khổ là sự trừng phạt.
– Nhưng tất cả rồi sẽ phải chấm dứt vì bà sắp nhìn thấy bố và con trai của bà. Thôi, chỉ nên nghĩ đến những điều làm chúng ta vui thích, bà Vêrôních ạ!
– Vui thích! Liệu tôi có còn được như thế không?
– Có chứ. Sắp rồi đấy, không lâu đâu. Xarếch kia rồi!
Honorin lấy trong chiếc hòm đặt dưới ghế ngồi của chị một cái vỏ ốc to chị vẫn dùng làm tù và theo cách thức của những thủy thủ ngày xưa. Chị đưa tù và lên miệng phồng má thổi mấy tiếng ô ô như bò rống vang khắp không gian.
Vêrôních nhìn chị, không hiểu.
Honorin giải thích:
– Tôi gọi thằng bé đấy.
– Gọi Phơrăngxoa? Chị gọi Phơrăngxoa à?
– Ừ, lần nào tôi trở về, nó cũng chạy như bay từ trên bờ biển cao ngất nơi chúng tôi ở xuống tận chỗ cái đập trước bến kia kìa!
– Ôi! Thế là tôi sắp được nhìn thấy con tôi rồi! Mặt Vêrôních tái nhợt vì xúc động.
– Phải, bà sẽ được trông thấy nó. Nó cũng đã được nhìn ảnh bà. Bà hãy gập khăn voan che kín mặt để nó không nhận ra. Tôi sẽ nói với bà như
một người khách lạ đến viếng thăm đảo Xarếch.
Ngồi ở dưới xuồng, Vêrôních đã nhìn thấy hòn đảo. Tuy nhiên dưới chân các bờ vực có rất nhiều tảng đá che khuất.
– A, à! Những tảng đá ngầm, ở đây, những thứ này không thiếu, lúc nhúc như một đàn cá mòi – Honorin nói to. Chị tắt máy và sử dụng hai chiếc bơi chèo ngắn ngủn. Thế đấy! Tí nữa mặt biển mới yên tĩnh. Còn ở chỗ này chả lúc nào yên!
Hàng ngàn, hàng ngàn đợt sóng xô đẩy chen lấn dồn dập xô vào những mỏm đá, tan ra thành từng mảng trắng xoá: Cuộc chiến đấu không bao giờ nguôi của biển cả! Chiếc xuồng như đang ngoi ngóp giữa một dòng thác lũ. Ở đây, giữa vùng biển sục sôi và ngầu bọt, người ta không thể tìm được, dù chỉ một khoảng nhỏ mặt nước màu xanh da trời hay xanh lục mà chỉ toàn bọt trắng. Hình như những sức mạnh không biết mệt mỏi đang điên cuồng chống chọi với những tảng đá từ dưới nước nhe ra như những cái răng nanh nhọn hoắt.
Honorin nói tiếp:
– Xung quanh đảo đều thế này cả. Ở Xarếch khó mà tìm được một chỗ yên ổn để ghé thuyền vào bờ, vì thế, người Đức đã không thể đặt căn cứ tàu ngầm của họ ở đây. Trước kia, với mục đích phòng thủ, những người sĩ quan rất khôn ngoan ở căn cứ quân sự Loriăng đã phải mất ròng rã hai năm trời để tìm và đến được một vài cái hang phía tây hòn đảo. Nhưng những hang động ấy chỉ có thể vào được lúc nước thủy triều xuống kiệt. Việc làm của họ chỉ là uổng phí. Chỗ chúng tôi chả làm được cái gì cho ra hồn. Bà thấy đấy, khắp xung quanh toàn những đá tảng và đá ngầm nhiều như một bãi đá cuội. Những tảng đá nhọn hoắt ở dưới nước lúc nào cũng nhăm nhăm chỉ chực nhô lên đớp trộm người ta như những con rắn độc. Thật chẳng còn biết mỏm đá nào nguy hiểm hơn mỏm đá nào. Có thể nhiều hòn khác còn đáng sợ hơn những hòn đá đồ sộ bà trông thấy kia. Chúng đều có tên và có lịch sử tội ác nhận chìm tàu thuyền của chúng cả.
– A! Mỏm đá kia! – Tiếng Honorin nghe chói tai. Chị giơ tay rụt rè phác một cử chỉ, ngón tay chỉ vào một vài tảng đá đồ sộ sừng sững với những hình thù quái dị: hình những con vật ngồi chồm hổm, hình vọng gác có lỗ châu mai, hình chiếc kim khâu khổng lồ, hình quái thần Xphanh mặt đàn bà, mình sư tử, hình kim tự tháp thô kệch, tất cả đều là đá hoa cương đen nhuộm sắc đỏ y như đã được nhúng vào máu.
Chị lại thì thầm.
– Ôi! Những tảng đá trung thành bảo vệ hòn đảo này qua nhiều thế kỷ như những con vật hung tàn chỉ biết gieo rắc đau thương và tang tóc. Những hòn đá này… những hòn này nữa… Nhưng thôi tốt hơn hết không nên nhắc đến nó nữa, thậm chí cũng không nên nghĩ đến chúng làm gì. Chúng là ba mươi con dã thú… Phải, ba mươi con, bà Vêrôních ạ… Có ba chục…
Honorin lặng lẽ làm dấu thánh và nói tiếp:
-… Có ba mươi tất cả. Bố bà bảo sở dĩ người ta gọi đảo Xarếch là đảo Ba Mươi Quan Tài bởi vì theo bản năng, dân chúng ở đây đã nhập hai chữ “Êcơi và Xéccơi” vào với nhau. Có thể… dĩ nhiên… nhưng dù sao đó cũng là những chiếc quan tài thực sự, bà Vêrôních ạ. Nếu có cách gì mở được nó ra, chắc chắn người ta sẽ thấy từng đống xương chồng chất. Ông Đecgơmông nói Xarêch là từ chữ “Xacôpha” mà ra. Theo ông đó là một loại hình từ ngữ bác học của chữ quan tài và rồi… tốt hơn hết là…
Honorin ngừng nói. Hình như chị lại đang nghĩ đến những chuyện khác. Chị chỉ tay vào một mỏm núi đá.
– Bà Vêrôních ạ, đi hết mỏm núi chắn ngang trước mặt kia, bà sẽ trông thấy cái bến nhỏ của chúng tôi nằm giữa một khoảng trống trải và bà còn trông thấy cả chiếc mũ nồi đỏ của cậu Phơrăngxoa nữa đây.
Từ nãy Vêrôních nghe Honorin nói một cách lơ đãng, giờ đây nàng chăm chú và nhoài hẳn người ra để lát nữa nhìn cho rõ bóng dáng đứa con mình. Honorin thì chẳng để ý đến cử chỉ thay đổi của Vêrôních. Đầu óc chị vẫn còn bị ám ảnh bởi nhữngchuyện về đảo Xarếch. Chị lại nói.
– Cũng còn cái khá hơn, ở đảo Xarêch ấy. Mà cũng chính vì cái chỗ khá hơn ấy, ông thân sinh bà mới chọn Xarếch làm chỗ ở. Trên đảo có hàng chục chiếc bàn đá cổ đại nom chẳng có gì hấp dẫn nhưng đặc biệt đều từa tựa như nhau… Ngoài ra bà biết có bao nhiêu bàn đá không? Ba mươi… ba mươi bàn thạch trùng với ba mươi mỏm đá ngầm chủ yếu. Ba mươi bàn thạch nằm rải rác quanh đảo trên các bờ vực thẳng đứng cao vút, đối diện rất chính xác với ba mươi mỏm đá ngầm. Một số bàn thạch có tên gọi giống những mỏm đá ngầm tương ứng: Đôn-e-H’rôéc, Đôn-Ke-litu… Như vậy là thế nào hở bà?
Honorin đọc tên những bàn thạch với giọng sợ sệt hệt như khi chị nói về tất cả những thứ khác trên đảo, hình như tai chị không dám nghe những tiếng đó, những tiếng mà một con người luôn luôn sợ sệt và lệ thuộc giáo lý như chị, đã làm chúng thêm sinh động.
– Như vậy là thế nào hở bà Vêrôních. ôi tất cả những cái đó nhất định phải chứa đựng một cái gì bí ẩn. Nhưng tốt hơn hết tôi nhắc lại chúng ta nên im lặng. Tôi sẽ kể hết cho bà nghe khi mọi người đã rời khỏi đảo này và chú bé Phơrăngxoa đã nằm gọn trong vòng tay của bà, giữa bà với ông ngoại nó…
Vêrôních không nói gì, mắt đăm đăm nhìn về phía Honorin vừa chỉ. Nàng ngồi xoay lưng lại, hai bàn tay nắm chặt vào mép xuồng, lòng dạ bồn chồn. Đằng kia, chỗ khoảng trống hẹp trên bờ biển, nàng sắp được trông thấy đứa con trai bị mất tích của mình và nàng không muốn bỏ phí một giây nào ngay từ lúc Phơrăngxoa bắt đầu xuất hiện trước mắt nàng.
Xuồng đã vào gần mỏm đá. Chiếc bơi chèo của Honorin lướt qua vách đá. Chị cho xuồng men theo bờ đến tận đầu đằng kia.
– Ôi! – Tiếng nói của Vêrôních bật lên đau khổ – Sao tôi không trông thấy gì cả?
– Sao lại không thấy nhỉ? Vô lý quá, không thể như thế được! – Honorin kêu lên.
Nhưng đến lượt chị nhìn về phía những tảng đá to dùng làm đê chắn sóng, cách độ ba bốn trăm mét trước mặt cũng chỉ thấy ba người đàn bà, một cô bé và những thủy thủ già đang đứng đợi chiếc xuồng đi tới. Không có đứa bé nào. Không thấy bóng dáng chiếc mũ nồi đỏ!
– Lạ thật – Honorin hạ thấp giọng – Chưa lần nào tôi thổi tín hiệu mà nó không ra đón.
– Có thế cháu bị ốm? – Vêrôních lựa lời hỏi.
– Không, nó không ốm bao giờ.
– Nếu vậy thì tại sao?
– Tôi cũng chẳng biết nữa.
– Nhưng chị không thấy có gì đáng lo ngại chứ!
– Vêrôních chột dạ hỏi.
– Lo cho nó thì không… Nhưng tôi lo cho ông thân sinh của bà. Magơnốc đã dặn cẩn thận là đừng có rời ông ấy ra… Tính mạng ông ấy đang bị đe dọa.
– Nhưng đã có Phơrăngxoa bên cạnh bảo vệ ông ngoại nó. Nào chị nói đi… Chị thử đoán xem, liệu có chuyện gì xảy ra không?
Sau một lát im lặng, Honorin nhún vai.
– Hàng đống sự việc rồ dại vô ý thức. Tôi có những ý nghĩ vô lý, phải, rất vô lý, bà đừng trách tôi. Dẫu sao con người của xứ Brơtanhơ đã tái hiện trong tôi… Trừ một vài năm ra, tôi đã sống gần hết cuộc đời mình trong bầu không khí của xứ sở này, một bầu không khí đầy rẫy huyền thoại và những chuyện thần thánh… Nhưng thôi, chúng ta không nên nói đến nữa…
Đảo Xarếch hiện ra dưới hình thù một quả đồi dài, hơi gồ ghề với rừng cây cổ thụ bao phủ, có các bờ vực tương đối cao chống đỡ. Từ xa người ta có thể nom thấy hòn đảo nổi lên rõ rệt nhờ các bờ vực cao và thẳng đứng đó. Nó bao quanh hòn đảo như một vành đăng ten không đồng đều và đa dạng được tạo nên từ thế kỷ này sang thế kỷ khác do mưa gió, mặt trời băng tuyết, sương giá mây mù, do tất cả các nguồn nước từ trên không dội xuống, những nguồn nước không ngừng gặm nhấm xói mòn đất đá.
Chỗ duy nhất gọi là bếp có thể ghé thuyền vào nằm ở phía đông hòn đảo. Trên khoảng đất trùng lác đác một vài nóc nhà cửa dân chài, phần lớn bỏ trống từ dạo xảy ra chiến tranh. Những ngôi nhà côi cút ấy họp lại thành làng. Đây là một khoảng đất cong vành thúng phía trước có đê nhỏ chắn sóng. Mặt biển chỗ này hoàn toàn yên tĩnh. Hai chiếc thuyền neo ở bến…
Honorin cho xuồng ghé vào bờ. Chị cố dằn lòng.
– Chúng ta đến nơi rồi bà Vêrôních ạ. Bà thấy không? À, bà cần gì phải lên bờ nhỉ. Bà cứ ngồi ở đây đợi tôi. Hai giờ nữa tôi sẽ đưa bố và con trai bà ra bến, rồi chúng ta cùng đi Bêchmây hoặc Pônglabê và ăn cơm trưa ở đây. Bà bằng lòng chứ?
Vê rô ních chẳng nói chẳng rằng, đứng dậy nhảy phắt lên bờ đập ngăn sóng.
Honorin hỏi mấy đứa trẻ đang đi lại.
– Các cháu có thấy Phơrăngxoa ra đây không?
Một người trong nhóm phụ nữ nhanh nhẩu trả lời.
– Ở đằng kia, đang ngủ trưa. Chắc cậu ấy đoán sáng mai bà mới về nên không ra đón.
– Đúng thế… Nhưng nó phải nghe thấy tiếng tù và tôi thổi chứ. Mà thôi.., để xem.
Trong khi mọi người đưa giúp các thứ trên xuồng lên bờ, Honorin nói với họ.
– Những cái này không phải đem lên Pơriơrê, cả những chiếc va ly nữa… trừ phi.. này, nếu năm giờ không thấy tôi ra thì cho một đứa bé mang hộ những chiếc va ly về Pơriơrê nhá.
Một người trong số cắc thủy thủ đáp.
– Việc ấy để tôi làm cho.
– Cũng được, anh Corêgiu ạ. Thế nào, anh không nói gì với tôi về cụ Magơnốc à?
– Cụ Magơnốc đi rồi. Chính tôi chở thuyền cho cụ ấy đến tận Pônglabê đấy.
– Từ bao giờ, Corêgiu?
– Sau khi bà đi được hai hôm, bà Honorin ạ.
– Cụ ấy đến đây làm gì?
– Cụ ấy bảo… đi… không biết đi đâu ấy… à liên quan đến bàn tay bị chặt cụt… đi lễ…
– Đi lễ à? ở Phaouê phải không? Nhà thờ Xanh Bác à?
– Đúng rồi… thế đấy… nhà thờ Xanh Bác, đúng tên cái nhà thờ cụ ấy nói với tôi ấy!
Honorin không hỏi thêm nữa. Biết nghĩ thế nào về cái chết của cụ Magơnốc! Chị rời khỏi bến, theo sau là Vêrôních lúc này đã bỏ tấm khăn che mặt ra. Hai người theo một lối mòn lởm chởm toàn đá cản trở bước chân. Lối mòn đổ ngược lên đúng giữa cánh rừng sên và từ cánh rừng kéo dài đến tận mũi phía bắc hòn đảo.
Honorin nói.
– Cuối cùng tôi đã nhận ra nhưng cũng không dám chắc ông Đecgơmông có ý muốn đi khỏi đây. Mọi chuyện tôi nói ông ấy đều cho là vặt vãnh và hão huyền. Còn hàng trăm thứ chuyện do ông ấy tưởng tượng ra thì lại “rất đáng chú ý!”.
Vêrôních hỏi Honorin.
– Từ đây đến chỗ cha tôi có xa không chị?
– Đi bộ cũng mất đến bốn mươi phút. Gần như ở tách biệt ra một hòn đảo khác, rồi bà sẽ thấy, cái mỏm ấy y như người ta đem treo nó vào hòn đảo này ấy. Ở đó các tu sĩ dòng thánh Bơnoa ngày trước đã cho xây một tu viện.
– Có một mình cha tôi sống với Phơrăngxoa và ông Maru thôi à?
– Trước chiến tranh, ở đấy chỉ có hai người đàn ông. Về sau, thêm Magơnốc và tôi quán xuyến mọi việc cùng với một phụ nữ nấu bếp tên là Mari Lơ Gôn.
– Trong khi chị đi vắng, chị Mari Lơ Gôn vẫn ở nhà chứ?
– Vâng, dĩ nhiên.
Họ bước lên đồi. Con đường mòn men theo bờ biển gập ghềnh, khi lên khi xuống tạo thành những cái dốc dựng đứng. Những cây sên cổ thụ mọc khắp nơi với những bụi tầm gửi xen giữa các tán lá thưa thớt. Xa xa, mặt biển trải ra một màu xanh xám bao bọc hòn đảo bằng một vành đai trắng xoá.
Vêrôních hỏi tiếp.
– Chương trình của chị định như thế nào, chị Honorin?
– Tôi sẽ vào nhà trước báo cho ông thân sinh bà biết, sau đó ra cổng vườn đón bà. Bà nhớ cho, dưới con mắt Phơrăngxoa, bà sẽ là một người bạn thân của mẹ nó, để nó biết ra bà dần dần.
– Liệu cha tôi có vui vẻ tiếp đón tôi không?
– Ông ấy sẽ mở rộng cánh tay đón bà, bà Vêrôních ạ. Tất cả mọi người sẽ rất vui, chỉ có điều là đừng xảy ra chuyện gì bất trắc. Lạ quá, sao lần này không thấy Phơrăngxoa sang bên đảo đón! Đứng ở chỗ nào mà không nhìn thấy chiếc xuồng cơ chứ? Ngay lúc xuồng còn đang chạy trong vùng đảo Gơlênan cũng đã có thể nhìn thấy rồi!
Hai người lặng lẽ đi. Đầu óc Honorin lại nghĩ lan man về những chuyện ông Đecgơmông gọi là chuyện vặt vãnh. Trong khi đó, Vêrôních bồn chồn lo lắng không lúc nào yên.
Đột nhiên Honorin đưa tay làm dấu thánh.
– Bà làm theo tôi đi, bà Vêrôních. Đã lâu lắm từ thuở xa xưa các tu sĩ vẫn coi vùng này là thánh địa. Biết bao nhiêu chuyện rủi ro đau buồn xảy ra ở đây, nhất là tại cánh rừng này, cánh rừng Sên Lớn.
Thuở xa xưa mà Honorin vừa nói hẳn là thời đại các tu sĩ dòng Gôloa. Thuở đó vẫn còn tục lệ tế sống người.
Hai người đàn bà đặt chân lên khu rừng Sên Lớn với tâm trạng hồi hộp miễn cưỡng. Những cây sên mọc riêng rẽ thân cao vút sừng sững bên các tảng đá phủ rêu xanh. Những cây sên cổ thụ mang dáng dấp các vị thần từ thời thượng cổ, mỗi vị một bàn thờ, một sự sùng bái bí ẩn và một quyền lực đáng ghê sợ.
Vêrôních cũng bắt chước Honorin làm dấu thánh.
Nàng không thể kìm được giọng nói run run:
– Buồn quá! Âm ư qua! Trong cánh rừng hiu quạnh này chẳng thấy một bông hoa!
– Vậy mà khi người ta bỏ công sức ra, đâu đâu cùng trở thành dễ coi cả. Rồi bà sẽ thấy một công trình của Magơnốc ở tít mãi đầu đằng kia hòn đảo, bên phải “Bàn Đá Cát Tiên”. Nơi đó được đặt tên là “Canve Nở Hoa”.
– Chỗ ấy đẹp lắm phải không chị?
– Rất tuyệt, tôi xin nói với bà đúng như vậy. Nhất là cụ ấy đã làm thế nào tìm được một vài chỗ có đất. Thế rồi cụ trộn đất với một vài loại lá cây đặc biệt, thứ lá cây cụ biết chắc là có phép lạ… – Honorin hạ thấp giọng, nói trong kẽ răng – Rồi bà sẽ thấy. Những bông hoa của Magơnốc… Những bông hoa… hình như trong thiên hạ không đâu có… Những bông hoa kỳ diệu!
Đến chỗ vòng quanh quả đồi, đường đi bỗng thấp xuống đột ngột. Một vực sâu thẳm chia cắt hòn đảo thành hai phần, bên kia nhỏ và thấp hơn.
– Bên kia là Pơriơrê – Honorin giới thiệu.
Cũng những bờ cao vút thẳng đứng và nham nhở vây quanh, hòn cù lao nhỏ bé trông còn hiểm trở hơn cả những thành lũy kiên cố nhât. Nó nối với hòn đảo lớn bởi một vách đá dài độ năm chục mét. Vách đá chỉ dày hơn bức tường thành, một bức tường thành thẳng đứng dưới chân thắt lại như vành đai, đỉnh rất mỏng nom như cái lưỡi rìu. Do đó không thể qua lại được. Lại thêm một vết nứt rộng cắt ngang chính giữa. Người ta đã bắc một cây cầu bằng gỗ, thân cầu bám vào vách đá.
Honorin và Vêrôních vượt cầu. Người nọ sau người kia vì chiếc cầu quá hẹp lại không được vững. Gió và bước chân đi cũng đủ làm nó dập dềnh lắc lư
– Trông kìa, tận mũi cù lao ấy, bà thấy không? Một góc của tu viện Pơriơrê đấy!
Từ đây lối mòn cắt ngang những cánh đồng cỏ có những cây thông mọc thành từng cụm hình ngũ giác. Một lối mòn khác hiện ra ở phía bên phải và mất hút trong rừng cây rậm rạp.
Vêrôních không rời mắt khỏi khu thánh địa Pơriơrê. Phía chính diện của tu viện thấp và kéo dài dần dần. Giữa lúc đó Honorin từ nãy vẫn im lặng bỗng kêu lên.
– Ông Xtêphan!
– Chị gọi ai thế? Ông Xtêphan Maru à?
– Vâng, thầy dạy của Phơrăngxoa đây. Tôi vừa thoáng trông thấy ông ấy ở chỗ gần đầu cầu… Ông ấy từ khu rừng thưa chạy ra… Ông Xtêphan ơi! Kìa, sao không thấy trả lời? Vừa rồi bà có nhìn thấy một bóng người không?
– Không!
– Tôi cam đoan với bà đúng ông ấy. Mũ nồi trắng… Nhưng thôi được, thế nào ông ấy cũng phải qua đây. Ta cứ đợi.
– Sao lại đợi? Nếu có chuyện gì xảy ra, chính là ở Pơriơrê.
– Đúng rồi. Thế thì phải nhanh lên!
Hai người vội vàng rảo bước. Linh cảm như báo trước điều gì sắp xảy ra. Bất giác cả hai cùng co chân chạy, tưởng như những điều lo sợ vẩn vơ đã kề sát ngay bên cạnh.
Đến một chỗ hòn cù lao thắt lại, một bức tường thấp chắn ngang lối đi đánh dấu giới hạn khu thánh địa Pơriơrê. Đúng lúc ấy có những tiếng kêu la từ trong dãy nhà vọng ra.
Honorin trố mắt kinh ngạc.
– Ôi, có tiếng kêu, bà nghe thấy không? Tiếng đàn bà… Tiếng Mari Lơ Gôn, chị làm bếp!
Honorin nhảy bổ đến chỗ cổng sắt cuống cuồng tra chìa vào ổ khóa. Nhưng bàn tay lóng ngóng của chị không chọn đúng chìa nên cứ loay hoay mãi không sao mở được.
– Chui qua lỗ hổng! – Honorin bèn ra lệnh – Kia kìa, ở bên phải ấy!
Hai người lao tới bức tường chui qua lỗ hổng, vượt qua một bãi cỏ rộng lổn nhổn gạch ngói của các công trình đổ nát, có nhiều lối đi ngang dọc, nhiều chỗ cây trường xuân và rêu phủ kín xóa sạch mọi dấu vết cũ.
Honorin thốt lên mừng rỡ.
– Đây rồi, đến nơi rồi.
Nhưng chị lại lúng búng trong miệng.
– Ôi… Sao không thấy kêu nữa! Đáng sợ quá… Khốn khổ Mari Lơ Gôn – Chị nắm chặt cánh tay Vêrôních – Chúng ta đi vòng sang bên kia vậy. Cửa phía này lúc nào cũng khóa.
Nhưng Vêrôních bị vướng chân vào rễ cây mất thăng bằng, ngã khuỵu xuống. Khi đứng dậy được. Honorin đã rời khỏi chỗ đó chạy vòng sang bên trái. Vêrôních không chạy theo Honorin, nàng chạy thẳng đến ngôi nhà gác trước mặt. Nàng trèo lên bậc thềm và đụng phải cánh cửa đóng kín mít. Nàng đập liên hồi vào cánh cửa.
Vêrôních cho việc đi vòng ra phía sau nhà là một việc làm vô ích, mất nhiều thì giờ mà lúc này không gì có thể bù lại được. Tuy nhiên cũng vì lòng hiếu thắng nàng đã quyết định hành động như vậy. Trong khi đó những tiếng kêu thất thanh lại nổi lên ở tầng trên. Tiếng đàn ông. Vêrôních nghe mơ hồ như tiếng cha nàng! Nàng lùi lại vài bước. Đột nhiên trên tầng gác thứ nhất một cánh cửa sổ bật mở và tiếp đó nàng trông thấy đúng là ông Đecgơmông cha nàng, nét mặt hoảng loạn vì một nỗi kinh hoàng khó tả, đang la to.
– Cứu tôi với! Cứu tôi với! Ôi, con quái vật… Cứu tôi với!
– Cha ơi! Cha ơi! Con đây! – Vêrôních gào lên tuyệt vọng.
Ông Đecgơmông thoáng nhìn xuống giây lát nét mặt không có gì biểu hiện là đã trông thấy con gái. Ông đang vội cố bước qua ban công. Nhưng sau lưng ông vang lên một tiếng nổ, tấm kính trên cửa sổ nổ tung.
– Quân giết người! Quân giết người! – Đecgơmông vừa kêu vừa chạy trở lại cửa sổ. Vêrôních nhìn rõ mặt ông. Đecgơmông đứng sững sờ bất động, cặp mắt nhớn nhác, hai tay buông xuôi, biểu lộ cử chỉ vô vọng như đang chờ đợi một cái gì ghê gớm sắp xảy ra. Ông lắp bắp trong miệng: “Quân giết người, quân giết người… Ôi, lại đúng mày? Thật tồi tệ! Phơrăngxoa! Phơrăngxoa!
Vêrôních thầm nghĩ chắc cha mình đang gọi Phơrăngxoa đến cứu. Nhưng có thể chính Phơrăngxoa cũng bị thương hoặc đã chết trong cuộc vật lộn vừa rồi. Tự nhiên nàng thấy mình có một sức mạnh phi thường. Nàng đặt được chân vào cái mấu trên tường dướn cao người lên.
– Con đây! Có con đây!
Nàng muốn kêu thật to song những tiếng kêu cứ nghẹn tắc trong cổ họng. Nàng thấy… thấy… Đứng trước mặt cha nàng, cách chỗ ông chừng năm bước phía bên tường đối diện, có một kẻ nào đó đang chậm rãi chĩa súng lục vào ông. Và kẻ đó… Ôi, kinh khủng… Vêrôních nhớ đến chiếc mũ nồi đỏ, chiếc áo sơ mi phơlanen có khuy mạ vàng mà Honorin đã mô tả cho nàng nghe và đặc biệt nàng nhận thấy trong khuôn mặt non choẹt đang rần rật những ý tưởng hung hãn kia, dáng dấp dữ tợn của Voócki lúc anh ta hằn học trả thù! Thằng bé không hề trông thấy nàng. Mắt nó không rời mục tiêu đang theo đuổi và hình như đang cảm thấy thích thú, một sự thích thú man rợ được kéo dài và làm chậm lại những giây phút sắp kết liễu một mạng người.
Vêrôních lặng đi. Những lời nói và những tiếng kêu than lúc này không thể chấm dứt được tai họa. Điều cần phải làm là lao ngay vào đứng giữa cha và con trai nàng. Nghĩ vậy, nàng ra sức bấu víu trườn người cố trèo qua cửa sổ. Muộn rồi. Súng đẵ nổ. Ông Đecgơmông ngã xuống cùng với tiếng kêu đau đớn.
Đúng lúc thằng bé còn chưa hạ tay súng, Honorin xuất hiện. Lập tức mũi súng quay lại chĩa vào giữa mặt chị.
Honorin la to:
– Phơrăngxoa! Mày! Mày!
Đứa trẻ lao về phía chị, nhưng Honorin giang hai tay ngăn nó lại không cho vượt qua cửa. Đứa trẻ không chống cự. Nó lùi lại một bước rồi thình lình giơ súng bóp cò. Honorin khuỵu đầu gối ngã xuống ngay chỗ bậc cửa. Thằng bé nhảy qua người chị chạy ra ngoài. Honorin ôm ngực lắp bắp:
– Phơrăngxoa! Phơrăngxoa! Không, không phải? Ôi, có thể như thế này ư?… Phơrăngxoa…
Từ bên ngoài, một tiếng cười lanh lảnh dội đến. Phải, tiếng cười của thằng bé. Vêrôních nghe tiếng nó cười, giọng cười gớm ghiếc như từ dưới địa ngục vọng lên chẳng khác gì giọng cười của Voócki. Nó gieo vào lòng nàng một nỗi đau vô bờ bến, nỗi đau nàng đã phải gánh chịu tự ngày xưa, nó thiêu đốt tâm hồn mỗi khi nàng đối diện với Voócki.
Vêrôních không đuổi theo tên sát nhân. Nàng cũng chẳng buồn gọi tên nó. Bên cạnh nàng, một giọng nói yếu đi: Vêrôních… Vêrôních…
Ông Đecgơmông nằm sóng soài trên nền nhà, đang nhìn nàng bằng đôi mắt lờ đờ mất hết thần sắc. Nàng quỳ xuống bên cha định cởi tấm áo gi lê và chiếc áo sơ mi đẫm máu để băng bó vết thương. Nhưng Đecgơmông nhẹ nhàng gạt tay con gái ra. Nàng hiểu cha nàng muốn nói băng bó cũng vô ích. Hình như ông muốn nói điều gì với nàng. Vêrôních cúi xuống…
– Vêrôních… tha lỗi cho cha…
Nàng hôn lên trán cha và khóc:
– Đừng! Cha đừng nói nữa… Nói làm cha mệt…
Nhưng ông còn điều gì muốn nói thêm, môi cứ mấp máy nghe không ra tiếng. Vêrôních phải cố lắng tai một cách tuyệt vọng. Sự sống sắp ra đi, linh hồn đang nẩy nở trong bóng đêm. Vêrôních ghé tai vào sát miệng người cha đang hấp hối và nghe lõm bõm được những câu: Hãy coi chừng… Hòn đá thánh…
Đột nhiên Đecgơmông hơi cất đầu lên, cặp mắt bừng sáng giống như ngọn đèn trước khi tắt. Vêrôních cảm thấy cái nhìn của cha nàng như muốn nói chỉ ông mới thấu hiểu mọi nỗi nguy hiểm đang đe dọa con gái ông. Đecgơmông phát ra từng tiếng thều thào có vẻ khiếp sợ nhưng khá rõ ràng.
– Đừng ở lại đây… sẽ chết… Con hãy đi khỏi đảo… trốn đi…
Đecgơmông để đầu gục xuống, miệng còn lắp bắp thêm vài tiếng nữa khiến Vêrôních càng thêm kinh ngạc “A… cây thập giá… bốn cây… Con gái tôi… Cực hình trên cây thập giá…”
Thế là hết. Chỉ còn không gian im lìm cô quạnh mênh mông đang đè trĩu tâm hồn người thiếu phụ trẻ như một gánh nặng, mỗi giây phút càng thêm nặng nề.
– Bà hãy đi khỏi hòn đảo này. Chính bố bà vừa ra lệnh cho bà đấy, bà Vêrôních ạ – Honorin đến gần nàng, nhợt nhạt hai tay giữ chiếc khăn bông thấm đầy máu ấp trên ngực.
Vêrôních vội kêu lên.
– Kìa, để tôi băng bó vết thương, chị ráng chịu một tí… Để tôi xem nào…
Honorin nói đứt đoạn.
– Khoan đã… băng bó tôi sau cũng được… Ôi, con quái vật… giá mà tôi về kịp… nhưng các cửa tầng dưới đều cài then…
Vêrôních nài nỉ.
– Để tôi băng vết thương cho, chị nghe rõ chưa?
– Lát nữa… trước hết… Mari Lơ Gôn, chị nấu bếp… Ở đầu cầu thang… cũng bị thương… chết rồi cũng nên… thử đến xem…
Vêrôních đi ra lối cửa phía trong, nơi con trai nàng vừa chạy trốn. Cửa này nối với một khoảng thềm cầu thang khá rộng. Mari Lơ Gôn nằm đó mê man bất tỉnh và chẳng bao lâu thì tắt thở. Đó là nạn nhân thứ ba của tấn bi kịch hắc ám trên đảo Xarếch.