Còn lại một mình Vêrôních trên đảo. Nàng lặng lẽ đứng tì hai khuỷu tay lên thành cửa sổ, đầu gục vào cánh tay. Cứ thế cho đến khi mặt trời xuống thấp, chìm vào những đám mây sát mặt biển phía chân trời.
Thực tại đã đi qua bóng tối tâm hồn nàng như những bức tranh mà nàng cố không nhìn nhận chúng nữa, nhưng chúng cứ mỗi lúc thêm chính xác đến nỗi nàng tưởng mình vẫn đang sống trong những cảnh tàn khốc đó.
Nàng cố tiếp tục gạt chúng ra khỏi đầu óc. Nàng không tìm cách lý giải tất cả những sự việc vừa xảy ra, không đặt những giả thiết, những lý lẽ làm sáng tỏ tấn thảm kịch. Nàng thừa nhận Phơrăngxoa và Xtêphan là những kẻ mất trí. Bởi vì nàng hoàn toàn không thể đưa ra một nguyên nhân nào khác để giải thích hành động của họ. Và chính vì thừa nhận họ là kẻ mất trí nên nàng càng không thể gắn cho họ những động cơ có tính chất âm mưu và cố ý. Hơn nữa việc Honorin quẫn trí nhẩy xuống vực, chính mắt nàng vừa chứng kiến cũng đủ là căn cứ cho nàng tin rằng tất cả các sự kiện xảy ra tại đây đều có thể do cái hiện tượng rối loạn tâm thần mà hầu hết những người dân đảo Xarếch đều là nạn nhân của nó! Ngay đến bản thân nàng cũng có lúc cảm thấy đầu óc mình nghiêng ngã, ý nghĩ tiêu tan như làn sương mỏng và những bóng ma vô hình cứ lảng vảng khắp mọi nơi.
Vêrôních thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn đầy ác mộng. Nàng mê thấy mình khổ quá và đã khóc như mưa như gió. Trong lúc mơ màng, nàng nghe thấy những tiếng động nhẹ và bộ óc mệt mỏi của nàng nghĩ ngay đến những dấu hiệu thù địch. Kẻ thù đang mon men tới gần! Nàng choàng mở mắt.
Trước mặt, cách độ ba bước chân, một con vật kỳ dị có bộ lông màu cà phê sữa đang ngồi trên hai chân sau, hai chân trước khoanh chéo trước ngực như tay người. Đó là một con chó của Phơrăngxoa mà Honorin đã có lúc kể cho nàng nghe, một con chó trung hậu tận tụy và hài hước. Nàng còn nhớ cả cái tên của nó: “Vạn Sự Tốt Lành”.
Vêrôních khẽ nhắc lại mấy tiếng đó. Nàng giơ tay phác một cử chỉ bực dọc để xua đuổi con vật lố lăng có cái tên mỉa mai nhạo đời ấy đi. “Vạn Sự Tốt Lành”. Nàng nghĩ đến những người bị giết trong cuộc tàn sát ghê tởm vừa qua, nghĩ đến tất cả những người dân đảo Xarếch giờ đây không còn nữa, nghĩ đến cha, đến Honorin vừa gieo mình xuống vực, nghĩ đến Phơrăngxoa trở thành đứa giết người… vậy mà… hừ… vạn sự tốt lành!
Tuy nhiên con chó vẫn không nhúc nhích. Nó đang mải miết làm điệu bộ như Honorin đã miêu tả. Đầu cúi hơi thấp, một mắt nhắm nghiền, hai mép kéo sệ cho đến tận mang tai, hai chân trước khoanh trước ngực, cả bộ mặt của nó toát lên một nụ cười thật cởi mở.
Lúc này Vêrôních mới nhớ lại. Đó là cách thức Vạn Sự Tốt Lành dùng để an ủi những ai đang phiền muộn. Vạn Sự Tốt Lành không chịu nổi cảnh nước mắt. Hễ thấy có người khóc nó lại làm điệu bộ cho đến khi người ta phải cười, phải vuốt ve nó, nó mới thôi.
Vêrôních không cười. Nàng kéo con chó lại gần mình và nói:
– Không phải đâu, con vật tội nghiệp của ta ạ! Chẳng có gì tốt lành cả. Trái lại mọi sự đều xấu. Nhưng không hề gì. Chúng ta cần phải sống. Phải không? Và nhất là đừng để mình trở thành điên rồ như những kẻ khác…
Nhu cầu sự sống buộc Vêrôních phải hành động. Nàng xuống bếp tìm một vài thứ ăn được và dành cho con chó một phần hậu hĩ nhất. Rồi nàng lên gác.
Đêm đến Vêrôních mở cửa một gian phòng bỏ trống chắc đã lâu ngày. Vì phải liên tục chịu đựng những phút xúc động căng thẳng nên lúc này nàng chỉ thấy cơ thể mệt mỏi tâm trí rã rời, vừa đặt mình xuống là ngủ thiếp đi. Vạn Sự Tốt Lành nằm thức canh chừng ngay cạnh chân giường.
Hôm sau trời sáng đã lâu Vêrôních mới thức dậy với một cảm giác bình thường, thần kinh bớt căng thẳng và cảm thấy vững tâm hơn. Nàng cho cuộc sống của nàng lúc này chẳng có gì đặc biệt. Nó cũng chỉ như đoạn nối tiếp của cuộc sống êm đềm lặng lẽ ở tu viện Bơđăngxông mà thôi.
Những ngày buồn tủi vừa qua đã kéo nàng về với dĩ vãng, với những kỷ niệm xa xăm mà sự kéo lùi ấy đã chẳng khiến nàng phải bận tâm lo lắng. Những người vừa mới lìa bỏ cuộc đời trong cơn phong ba bão táp chỉ còn lại trong ký ức nàng như những bóng dáng xa lạ, những người mà nàng vừa gặp gỡ đã vội vã chia tay và chẳng bao giờ còn gặp lại! Trái tim nàng không còn biết thương xót. Tang tóc không làm nàng động tâm. Nàng coi tình thế của nàng lúc này chẳng qua chỉ là một dịp nghỉ ngơi ngoài dự kiến và vô thời hạn. Một cảnh sống đơn độc có tác dụng hồi sức và hình như nó còn rất tốt và rất cần thiết đôi với nàng nữa! Đến nỗi có một chiếc tàu hơi nước không biết từ đâu đến thả neo ở cái xó xỉnh gở dữ và xúi quẩy này, nàng cũng chẳng buồn nghĩ đến nhờ nó đưa mình đi khỏi đảo!
Không nghi ngờ gì nữa, lúc rạng sáng trong đất liền người ta đã nghe thấy những tiếng nổ ngoài đảo và bây giờ người ta đến. Vêrôních nghĩ thế và bất giác đứng im.
Nàng thấy một chiếc xuồng máy tách khỏi chiếc tàu lớn chạy vào bờ và cho rằng người ta sắp đổ bộ lên đảo lùng sục trong làng. Nàng ngại bị lôi kéo vào một cuộc điều tra, mà con trai nàng rất có thể bị dính dấp vào đó. Nàng hoàn toàn không muốn để người ta bắt gặp, người ta chất vấn, biết rõ tên tuổi nhân cách tiểu sử của nàng và lại đưa nàng vào cái vòng địa ngục mà nàng vừa mới từ đó thoát ra. Nàng muốn chờ một hoặc hai tuần lễ, chờ một sự may rủi một chiếc thuyền nào đó ghé vào đây đưa nàng đi.
Nhưng liệu có ai ra tận lãnh địa Pơriơrê heo hút này không? Chiếc tàu hơi nước đã rời khỏi đảo và chẳng còn gì khuấy động cảnh đơn độc của người thiếu phụ trẻ nữa.
Vêrôních ở lì một chỗ ba ngày liền. Số phận hình như thôi không giao nộp nàng cho những đợt tấn công mới. Nàng chỉ có một mình đơn độc phải tự mình làm chủ lấy mình. Con chó Vạn Sự Tốt Lành đến với nàng như một sự hỗ trợ to lớn cũng đi đâu mất.
Lãnh địa Pơriơrê chiếm trọn một đầu hòn đảo nhỏ trong khu vực nhà dòng Bênêđíchtanh bỏ hoang từ thế kỷ mười lăm dần dần đổ nát hoang tàn.
Ngôi nhà có từ thế kỷ thứ mười tám, do một chủ hãng đóng tàu giàu có người Brơtanhơ bỏ tiền ra xây bằng các vật liệu lấy từ khu nhà dòng đổ nát ấy, với những viên đá tảng xám xịt âm thầm muôn thuở của nhà tu, không một chút dáng vẻ hấp dẫn về phương diện mỹ thuật của công trình kiến trúc. Các đồ đạc bày biện trang trí ở bên trong cũng thế. Vêrôních không dám đặt chân vào các căn phòng của ngôi nhà. Ấn tượng về người cha và đứa con trai đã kìm chân nàng trước những khuôn cửa khép kín.
Nhưng đến ngày thứ hai, dưới ánh mặt trời của mùa xuân tươi sáng, Vêrôních đã tìm ra khu trồng hoa. Khu vườn kéo dài đến tận mũi hòn đảo nhỏ. Nó cũng giống như bãi cỏ trước tòa nhà nham nhở vì những công trình đổ nát và những bụi cây trường xuân phủ kín khắp nơi.
Nàng để ý thấy tất cả các lối đi ở đây đều hướng về một mũi đất hiểm trở, có rừng sên cổ thụ cao vút vây quanh. Đến tận nơi Vêrôních nhìn rõ từng cây sên mọc quây quần thành một khu rừng thưa hình bán nguyệt trông ra biển.
Chính giữa khu rừng có một bàn đá cổ, mặt bàn hình bầu dục hơi ngắn đặt trên hai trụ bằng đá gần như vuông vắn. Nơi đây phong cảnh hùng vĩ âm u mang dáng dấp tôn nghiêm huyền bí khiến người ta phải sùng kính. Đứng ở chỗ này có thể phóng tầm mắt ra ngoài xa vô tận.
“Bàn Đá Các Tiên” mà Honorin kể đây rồi! Vêrôních thầm nghĩ. Vậy thì từ đây đến Canve Nở Hoa và những bông hoa của Magơnốc chắc không còn xa nữa.
Nàng đi vòng quanh các chân của chiếc bàn đá cổ đồ sộ. Mặt trong của các chân bàn có khắc một vài dấu hiệu bí ẩn không luận ra được. Nhưng ở các mặt ngoài hướng ra biển, bằng phẳng nhẵn nhụi có những hình vẽ mới thoạt nhìn Vêrôních lại một phen rụng rời lo sợ. Trên mặt phiến đá bên phải là những hình vẽ vụng về thô sơ khắc rất sâu, bốn cây thập giá và bốn người đàn bà bị hành hình. Mặt phiến đá bên trái là những dòng chữ khắc rồi lâu ngày bị mưa gió làm mờ đi hoặc cũng có thể do con người cố ý cạo đi. Tuy nhiên cũng còn vài dòng đọc được. Cũng những dòng chữ Vêrôních đã thấy trong bức tranh bên cạnh xác Magơnốc: “Bốn người đàn bà bị hành hình trên cây thánh giá…”… “Ba mươi chiếc quan tài”… “Hòn đá thánh cho sự sống và cái chết”.
Vêrôních lảo đảo rời khỏi những tấm bia đá. Bức màn bí ẩn vẫn giăng kín phía trước và hình như khắp cả mọi nơi trên đảo. Nàng kết luận chỉ có đi khỏi Xarếch! Đi ngay lập tức!
Một lối mòn từ khu rừng thưa đổ ra sát ngay bên phải cây sên cuối cùng. Cây sên chắc bị sét đánh nên chỉ còn trơ thân cây với một vài cành khô khẳng khiu. Xa hơn nữa bước xuống mấy bậc đá, vượt qua một bãi cỏ hẹp có bốn hàng bia đá trồng thẳng tắp, nàng chợt dừng lại bật lên một tiếng nghẹn ngào: “Ôi!”. Nàng đứng sững sờ trước một cảnh tượng kỳ lạ, miệng thì thầm: “Những bông hoa của Magơnốc”. Cứ thế Vêrôních đi theo hai hàng bia đá đến hai tấm bia cuối cùng sừng sững như hai cột cổng chào, mở ra một quang cảnh lộng lẫy chưa từng có. Thoạt đầu là một sân trước hình chữ nhật chiều dài không quá năm chục mét thấp hơn lối đi mấy bậc, hai bên cũng hai dãy bia đá cao bằng nhau với khoảng cách rất đều đặn chẳng khác gì những hàng cột đá trong các cung diện. Khoảng giữa và các góc thấp của cung điện này (nếu có thể gọi như thế) được lát những phiến đá hoa cương to không đồng đều và đã rạn nứt, cỏ từ các khe nứt mọc trồi lên nom như những mạch chỉ viền xung quanh các ô kính màu trên khung cửa sổ.
Giữa sân có một ô vuông hẹp. Trong ô vuông, hoa đua nhau nở chen chúc quanh một pho tượng Đức Chúa cũ kỹ bằng đá. Những bông hoa mới lạ lùng làm sao! Những bông hoa rực rỡ ngoài sức tưởng tượng! Đẹp tuyệt trần! Những bông hoa mơ màng huyền ảo kỳ lạ to hơn hẳn những bông hoa thông thường!
Vêrôních chẳng lạ gì các loài hoa nhưng nàng vẫn hoàn toàn bất ngờ sửng sốt trước kích thước đồ sộ và vẻ đẹp huy hoàng của những bông hoa. Có rất nhiều thứ hoa nhưng số bông hoa của mỗi thứ không nhiều. Có thể nói đây là một lẵng hoa tập hợp tất cả màu sắc hương thơm và vẻ đẹp của loài hoa!
Điều lạ lùng nhất là những bông hoa này không nở cùng một lúc. Chúng kế tiếp nhau ngày này qua ngày khác, vừa sinh sôi vừa nở hoa. Thường thường vẻ đẹp khêu gợi sống động của hoa chưa bao giờ kéo dài hai hoặc ba tuần lễ. Đó là thời kỳ nở rộ và phát triển rực rỡ, lộng lẫy, kiêu hãnh trên những cuống hoa cường tráng.
Đây là loài hoa phù du (hương sắc chóng phai tàn) của xứ Viếcgini, kia là những giống cây mao cấu, những cây họ huệ, họ mõm chó, hoa họ hồng đỏ như máu, những bông hoa cầu vồng sắc tím còn lóng lánh hơn áo lễ cha côi Hoa Lalét, hoa Phơlốc sặc sỡ, hoa Phụ tử, hoa Physia, hoa Môngbơrơsia…
Và trên tất cả các loài hoa, ôi! Làm cho người thiếu phụ trẻ xao xuyến đến tột độ! Trên tất cả các lẵng hoa chói lọi kia, rất cao, trên suốt một dải hẹp vây quanh chân tượng Đức Chúa là những chùm hoa màu xanh da trời, màu trắng, màu tím… như đang đua nhau vươn tới Vì Chúa Cứu Thế! Những bông hoa Vêrôních!
Vêrôních xúc động ngây ngất. Và khi lại gần tấm bảng nhỏ gắn ở đế pho tượng nhìn thấy dòng chữ “Bông hoa của mẹ”, nàng bỗng thấy bàng hoàng.
Vêrôních không tin vào phép lạ. Cho dù những bông hoa có kỳ diệu hơn hẳn những bông hoa xứ sở nàng – điều đó nàng thừa nhận – nhưng nhất định nàng không tin các điều phi lý và khác thường lại chỉ có thể giải thích bằng những lý lẽ siêu tự nhiên hoặc những công thức và thủ đoạn tà thuật mà chỉ những người như Magơnốc mới nắm được bí quyết. Không, những điều khác thường đều có nguyên nhân của nó, có thể chỉ là những nguyên nhân rất đơn giản và từ những nguyên nhân đơn giản ấy, các sự kiện sẽ lần lượt được phơi bày ra ánh sáng.
Tuy nhiên đứng giữa bối cảnh tà giáo, trước một kiểu cách trang trí huyền ảo mà sức mạnh mê hoặc của nó như được nhân lên gấp bội bởi sự có mặt của Đức Chúa Trời nổi bật hẳn lên giữa muôn hoa, đang dâng hiến cho Người tất cả sắc đẹp và hương thơm của nó, bất giác Vêrôních cũng quì xuống!
Hôm sau và hôm sau nữa Vêrôních lại đến Canve Nở Hoa. Lần này vẻ huyền bí vây bọc quanh nàng biểu lộ dưới hình thái khác hẳn; tươi tắn hơn, lộng lẫy hơn, khiến Vêrôních chạnh nghĩ tới đứa con trai mà lòng lâng lâng không gợn chút hận thù, không vương mối âu sầu tuyệt vọng trước những bông họa Vêrôních màu tím!
Sang đến ngày thứ năm, Vêrôních chợt nhận ra thức ăn của nàng đã cạn. Vào quãng xế chiều, nàng lững thững đi xuống làng. Trong làng phần đông các ngôi nhà đều bỏ ngỏ. Hình như chủ nhà lúc ra đi vẫn có ý trở về lấy thêm những thứ cần thiết. Những cây phong lữ thảo vẫn mọc bên rìa cửa sổ.
Những chiếc đồng hồ quả lắc vẫn lặng lẽ đếm thời gian trong các căn phòng trống trải. Trái tim Vêrôních thắt lại. Nàng không dám bước qua ngưỡng cửa, ngậm ngùi quay gót trở ra.
Khi đi ngang qua một kho chứa đồ cách bến không xa, Vêrôních thấy những túi vải và những chiếc hòm mấy hôm trước Honorin định đưa xuống xuồng máy. Nàng nhủ thầm thế là không chết đói. Chỗ này phải sống được hàng tuần lễ… từ nay…
Nàng nhặt nhạnh bỏ tất cả vào một cái thùng nào sôcôla, bánh bítcốt, đồ hộp, gạo, diêm… và khi định trở về Pơriơrê nàng lại nảy ý muốn tiếp tục đi xem tận đầu kia hòn đảo, lúc trở về sẽ mang thùng thực phẩm về luôn thể.
Vêrôních lần theo một lối đi rợp bóng cây vắt ngược lên quả đồi trước mặt. Phong cảnh ở đây không có gì khác. Cũng những thung lũng, những cánh đồng bỏ hoang không trồng trọt, không một bóng gia súc, vẫn những cánh rừng sên cổ thụ. Hòn đảo thắt lại hẹp dần, hai bên đều không có vật che khuất, có thể nhìn thẳng ra biển và phân biệt rõ cả bờ biển xứ Brơtanhơ xa tít tắp.
Từ bờ vực bên này sang bờ vực bên kia có một hàng rào chắn ngang phân chia ranh giới lãnh địa, một lãnh địa với cái vẻ ngoài ốm yếu bệnh hoạn, những dãy lán dài đổ nát, những nhà tắm mái lợp vá víu và một mảnh sân rác rưởi bẩn thỉu không người trông nom dọn dẹp, mặt sân bề bộn những mảnh sắt vụn và mẩu củi cháy dở.
Đúng vào lúc Vêrôních định quay về, nàng giật mình chợt dừng lại. Hình như có tiếng người rên rỉ đâu đây. Nàng lắng tai nghe. Xung quanh im lặng như tờ. Nhưng rồi những tiếng kêu lại vẳng đến lần này nghe rõ hơn. Đó là những tiếng kêu cứu thảm thiết, tiếng phụ nữ. Hóa ra dân chúng trên đảo chưa phải đã bỏ đi hết? Nàng nghĩ thế và cảm thấy vui vui, cái vui pha trộn chút phiền muộ. Vui vì nàng không đến nỗi đơn độc trên hòn đảo Xarếch này. Buồn là vì những sự việc rủi ro có thể sẽ còn lôi cuốn nàng vào vòng lẩn quẩn của cái chết và sự kinh hoàng.
Vêrôních chú ý nghe và xác định tiếng kêu không phải từ ngôi nhà mà từ dãy nhà tắm bên phải cái sân. Lối vào sân chắn sơ sài bằng một hàng rào đơn giản. Nàng chỉ việc đẩy ra. Một tiếng kẹt khô khan, lập tức tiếng kêu trong dãy nhà tắm nổi lên to hơn. Không nghi ngờ gì nữa những người trong đó đã nghe thấy tiếng động ngoài sân. Vêrôních bước nhanh đến. Mái nhà tắm nhiều chỗ bị thủng nhưng tường dày vững chắc, cánh cửa đã cũ và cài then sắt. Một cánh cửa đang bị đập thình thình từ bên trong xen lẫn tiếng kêu gào cuống cuồng: “Cứu tôi với! Cứu tôi với!” Nhưng rồi trong đó hình như bắt đầu diễn ra một cuộc giằng co gay gắt.
Một giọng nói kèm theo tiếng răng nghiến ken két:
– Câm đi Cơlêmăng, nhỡ bọn nó đến thì sao…
Tiếp đến một giọng khác lanh lảnh nhưng đỡ chói tai hơn:
– Không, không Giéctơruyt, không phải đâu, không phải chúng nó đâu… Ai đấy? Cứ mở cửa ra, chìa khóa vẫn còn để ở lỗ khóa ấy!
Vêrôních đang tìm cách mở cửa, quả nhiên nàng thấy chiếc chìa khóa to tướng vẫn cắm trong ổ khóa. Nàng chỉ việc xoay một cái, cánh cửa đã mở tung, lập tức nàng nhận ra các bà xơ Ácchinha quần áo tả tơi, thân hình chỉ còn da bọc xương mang dáng dấp hau háu của những mụ phù thủy. Hai bà xơ đang ngồi trong chiếc chậu tắm chồng chất cả với những dụng cụ nhà bếp. Một bà xơ thứ ba nằm co ro trong ổ rơm lót dưới đáy chậu đang rên rỉ, tiếng nói phều phào như sắp chết.
Giữa lúc đó một trong hai bà xơ ngồi trong chậu đột nhiên bị kiệt sức gục xuống, còn bà xơ kia đôi mắt sáng rực đang lên cơn sốt rét cố đứng lên nắm tay Vêrôních, hổn hển nói:
– Bà có trông thấy bọn chúng không? Hả? Chúng vẫn ở đây à? Sao chúng không giết bà? Từ lúc mọi người đi khỏi Xarếch bọn chúng trở thành chúa tể… Và đến lượt chúng tôi… Thế đấy. Chúng tôi bị nhốt ở đây đã sáu ngày rồi… Sáng hôm ấy khởi hành… Tất cả gói ghém hành lý sửa soạn xuống thuyền. Chúng tôi quay về đây lấy thêm quần áo khô trong nhà tắm. Bọn chúng ập đến… Chúng tôi bị bất ngờ… hoàn toàn không biết gì… Chỉ biết cánh cửa tự nhiên đóng sập khóa chặt… Trong này sẵn có khoai tây bánh mì, nhất là nước khoáng… nên chúng tôi không đến nỗi khôn đốn lắm… Nhưng chỉ lo chúng quay lại giết… Liệu đã đến lượt chúng tôi chưa? Ôi, bà tốt quá! Thế mà chúng tôi dỏng tai ra nghe ngóng, cứ run cả người lên… Chị cả phát điên… Bà có nghe thấy chị ấy nói huyên thuyên… Chị kia là Cơlêmăng không còn có thể… Còn tôi… là Giéctơruýt.
Bà xơ này xem ra còn khỏe vì bà ta nắm vào cánh tay Vêrôních khá chặt.
– Corêgiu đâu? Anh ta đến đấy rồi lại đi ngay phải không? Sao anh ta không tìm chúng tôi? Việc ấy có khó khăn gì đâu… Rõ ràng anh ta cũng biết ba chúng tôi quay về đây. Hơn nữa cứ nghe bên ngoài có tiếng động nhỏ chúng tôi lại kêu ầm lên… tại sao? Tại sao vậy?…
Vêrôních dè dặt không trả lời. Tuy nhiên nàng thấy chẳng có gì phải giấu giếm sự thật. Nàng tuyên bố:
– Hai chiếc thuyền đều bị đắm…
– Sao?
– Hai chiếc thuyền đều bị đắm. Tất cả những người trên thuyền đều chết, ngay trước thánh địa Pơriơrê, chỗ ra khỏi luồng “Ma quỷ”…
Vêrôních không nói thêm nữa. Nàng tránh không nhắc đến Phơrăngxoa và ông thầy dạy nó, tránh đả động đến hành vi của hai người. Nhưng bà xơ Cơlêmăng vụt đứng dậy mặt tái nhợt.
Giéctơruýt thì thào:
– Thế còn Honorin?
– Honorin chết rồi!
– Chết rồi!
Hai bà xơ cùng kêu lên một lúc rồi nhìn nhau im bặt. Những ý nghĩ giống nhau đang đập mạnh vào đầu óc các bà xơ. Các bà ngồi thừ suy nghĩ. Giéctơruýt đếm các đầu ngón tay như người ta làm tính nhẩm. Trên khuôn mặt các bà vẻ khiếp sợ cứ tăng dần.
Cổ họng Giéctơruýt như nghẹn tắc vì sợ hãi. Bà ta cố dằn từng tiếng rất khẽ vừa nói vừa nhìn trừng trừng vào mắt Vêrôních.
– Này nhá… này nhá… tôi tính thử cho bà xem… Bà biết có bao nhiêu người trên thuyền? Hai mươi… bà biết không… Đây nhá, hai mươi cộng với Magơnốc chết đầu tiên… rồi ông Ăngtoan… cậu Phơrăngxoa và ông Xtêphan. Rồi đến Honorin và Mari Lơ Gôn… Nào bà tính đi… Tất cả là hai mươi sáu… hai mươi sáu… đúng không? Ba mươi trừ hai mươi sáu… bà hiểu chứ? Ba mươi chiếc quan tài nhất định phải có đủ… ba mươi trừ hai mươi sáu… còn bốn phải không? – Giéctơruýt không nói được nữa. Lưỡi líu lại. Tuy nhiên những tiếng khủng khiếp cứ buột ra khỏi miệng bà xơ. Vêrôních nghe bà ta lắp bắp… – Hả… bà có hiểu không? Thế đấy… bốn chúng ta…
Chỉ còn bốn chúng ta trên đảo nữa thôi… bốn người đàn bà…
Vêrôních lặng lẽ nghe. Mặt hơi lấm tấm mồ hôi. Nhưng nàng nhún vai:
– Còn bốn chúng ta thì đã sao? Các bà sợ gì?
Vêrôních cảm thấy bực mình:
– Nhưng nếu tất cả chúng ta đều đi khỏi đây?
Giéctơruýt hốt hoảng:
– Bà nói khẽ chứ! Chúng nghe thấy đấy?
– Ai nghe thấy?
– Bọn chúng… những người ngày xưa…
– Người ngày xưa nào?
– Vâng. Những người chuyên làm lễ tế thần… chuyên giết đàn ông, đàn bà… để làm vui lòng các vị thần linh của họ…
– Tất cả những chuyện đó đã chấm dứt từ lâu rồi. Các bà muốn nói các đạo sĩ dòng Gôloa phải không? Bây giờ làm gì còn đạo sĩ dòng Gôloa?
– Khẽ chứ! Bà nói khẽ chứ! Vẫn còn đấy… vẫn còn những hung thần.
– Họa chăng chỉ còn những linh hồn! Vêrôních sắp nổi khùng bởi những chuyện mê tín dị đoan.
– Đúng, những linh hồn, nhưng đó là những linh hồn bằng xương, bằng thịt. Chúng có đủ hai bàn tay để đóng chặt cửa nhốt chúng tôi vào đây… Chúng nhận chìm thuyền, giết ông Ăngtoan, giết Mari Lơ Gôn và những người khác. Chúng đã giết hai mươi sáu…
Vêrôních im lặng. Chẳng có gì buộc nàng phải đối đáp với các bà xơ. Vì chính nàng biết rất rõ kẻ nào giết ông Ăngtoan Đecgơmông, Mari Lơ Gôn và những người khác, kẻ nào nhận chìm hai chiếc thuyền…
Nàng hỏi:
– Các bà bị nhốt ở đây lúc mấy giờ?
– Lúc mười giờ rưỡi… Chúng tôi hẹn Corêgiu đúng mười một giờ tập trung ở trong làng để đi.
Vêrôních nghĩ Phơrăngxoa và Xtêphan không thể có mặt ở đây lúc mười giờ ba mươi để rồi sau đó một tiếng đồng hồ lại xuất hiện sau tảng đá tấn công hai chiếc thuyền. Vậy trên đảo phải có đồng bọn của họ. Nàng dõng dạc tuyên bố:
– Trong mọi trường hợp chúng ta cần phải có một quyết định dứt khoát. Các bà không nên tự bó tay mình trong tình cảnh này. Các bà nên tìm chỗ nghỉ ngơi ăn uống cho lại sức.
Bà xơ thứ hai đã đứng lên được. Giọng nói của bà ta cũng the thé sôi nổi không kém bà xơ chị:
– Trước hết phải tìm một chỗ ẩn náu và có thể chống cự lại bọn chúng.
– Chống cự bằng cách nào? – Tuy hỏi thế nhưng Vêrôních cũng cảm thấy cần phải tìm một nơi trú ẩn để có thể đối mặt với kẻ thù.
– Bằng cách nào? Thế đấy. Trên đảo ai cũng hỏi thế. Nhất là trong năm nay người ta bàn tán rất nhiều. Magơnốc đã quyết định khi kẻ địch bắt đầu tấn công, mọi người sẽ sang khu Pơriơrê.
– Sao lại sang khu Pơriơrê?
– Vì ở đó có thể tự vệ được. Xung quanh các bờ vực đều thẳng đứng. Mọi phía đều được che chắn kín đáo.
– Thế còn cái cầu?
– Magơnốc và Honorin đã dự kiến tất cả. Cách cái cầu độ hai mươi bước về bên trái có một nhà chòi nhỏ. Nơi đó cất giấu ét xăng. Chỉ cần ba hay bốn bi đông ét xăng tưới lên cầu và một que diêm là xong. Mọi người có thể hoàn toàn yên trí ở chỗ ẩn nấp của mình. Không còn liên hệ với khu vực bên kia được nữa. Không kẻ nào còn có thể tấn công uy hiếp mình được nữa.
– Thế tại sao mọi người không sang Pơriơrê mà lại chạy ra biển bằng thuyền?
– Chạy trốn bằng thuyền vẫn chắc hơn… nhưng thôi bây giờ không phải lúc kén chọn.
– Nếu vậy chúng ta đi chứ?
– Phải rồi. Đi ngay lúc trời còn sáng tốt hơn ban đêm.
– Nhưng còn bà xơ nằm trong chậu kia có đi được không?
– Ở đây có chiếc xe cút kít. Chúng tôi sẽ dùng nó chở chị ấy đi. Từ đây đến Pơriơrê có một đường không phải đi qua làng.
Mặc dầu thâm tâm Vêrôních rất ghê tởm cái viễn cảnh phải sống chung đụng với các bà xơ
Ácchinha, nhưng nỗi lo sợ không sao chế ngự nổi đã khiến nàng buộc phải chấp nhận. Nàng nói.
– Được. Chúng ta sẽ đến đấy. Tôi sẽ đi cùng với các bà đến Pơriơrê rồi tôi quay về làng lấy thức ăn.
– Ôi! Không thể lần chần được nữa đâu! Một bà xơ phản đối. Phá xong cái cầu chúng ta sẽ đốt ngay một ngọn lửa ở chỗ cồn đất Bàn Đá Các Tiên để gọi tàu biển vào. Bây giờ đang có sương mù. Nhưng ngày mai…
Vêrôních không phản đối. Lúc này nàng chấp nhận một điều là phải đi khỏi Xarếch bằng mọi giá để tránh một cuộc điều tra có thể làm lộ tung tích của nàng.
Sau khi hai bà xơ ừng ực uống hết cốc nước khoáng, tất cả cùng kéo nhau lên đường.
Bà xơ điên ngồi chồm hỗm trên chiếc xe cút kít nói líu ríu những câu nhát gừng và nhìn Vêrô ních như muốn làm nàng cười theo.
– Ta chưa gặp chúng… chúng sắp sửa…
– Cái mụ điên rồ kia, mụ chỉ làm khổ mọi người! Mụ có im mồm đi không! – Giéctơruýt hạ lệnh.
– Phải, phải. Người ta sắp đùa bỡn… buồn cười thật… Ta đây… mang cây thánh giá bằng vàng xung quanh cổ… một cây cầm tay… khắc vào đá bằng những cái kéo… Trông kìa… cây thánh giá treo khắp mọi nơi, chắc chắn ta phải trèo lên cây thánh giá… ta phải ngủ yên…
– Có câm đi không mụ điên rồ? – Giéctơruýt giơ tay tát vào mặt bà xơ điên một cái.
– Được, được… chúng sẽ đánh bay. Ta đã trông thấy chúng rồi… chúng đang ẩn nấp kia kìa…
Con đường gồ ghề dẫn đến quả đồi bên bờ vực phía tây rất cao, nhưng ít lởm chởm và ít chỗ bị xẻ rãnh hơn. Rừng chỗ này thưa thớt. Những cây sên mọc xiên xiên thân uốn cong theo chiều gió từ ngoài khơi thổi vào. Bà xơ Cơlêmăng Ácchinha tuyên bố:
– Chúng ta đang tiến gần khu vực cánh đồng hoang gọi là “cánh đồng hoang màu đen”. Bọn chúng ẩn náu dưới những cánh đồng hoang đó.
Vêrôních lại nhún vai.
– Vì sao các bà biết?
Giéctơruýt trả lời:
– Chúng tôi bao giờ cũng biết nhiều hơn những người khác. Người ta gọi chúng tôi là những mụ phù thủy kể ra cũng có phần đúng… Magơnốc biết nhiều nhưng còn phải nhờ chúng tôi chỉ cho những thứ dùng làm thuốc chữa bệnh, những loại đá có phép lạ ban cho hạnh phúc, những cây thuốc dấu…
Bà xơ điên cười khẩy.
– Cây ngải hương, cây mã tiền thảo… tao hái mày đi lúc lặn mặt trời…
Giéctơruýt nói tiếp:
-… Cả những truyền thuyết ngày xưa, những cái trên đảo người ta nói đến cách đây hàng trăm năm, chúng tôi cũng biết. Thời nào người ta cũng nhắc đến khu cánh đồng hoang màu đen. Ở dưới đó có cả một thành phố với những phố xá hẳn hoi. Bọn chúng sống dưới đó tự ngày xưa. Hiện nay thành phố ấy vẫn còn. Chính mắt tôi nhìn thấy. Tôi cam đoan với bà như yậy.
Vêrôních không trả lời.
-… Các bà xơ chị và tôi, vâng, chúng tôi đã trông thấy… Một hai lần vào ngày thứ sáu tiếp theo tuần trăng thứ sáu, bọn chúng mặc toàn đồ trắng… trèo lên cây sên lớn, cầm câu liêm vàng… hái cành tầm gửi thiêng… ánh vàng lấp lánh dưới trăng… Chính tôi đã trông thấy tận mắt. Tôi nói với bà như vậy đấy… Nhiều người khác cũng trông thấy..- Chúng không phải chỉ có một người. Đông lắm. Toàn những người từ ngày xưa còn sót lại để canh giữ kho vàng. Vâng, tôi nói đúng là vàng. Nhưng người ta lại gọi là đá, một thứ đá có phép lạ. Nó có thể làm cho người ta toi mạng nếu sờ vào và cũng có thể làm cho hồi sinh nếu người ta nằm lên nó. Tất cả những cái đó đều có thật. Ông Magơnốc đã nói với chúng tôi như vậy. Đều là thật cả. Xưa kia bọn chúng canh giữ hòn đá, hòn đá thần và năm nay chúng sẽ đem tế sống chúng tôi… vâng… tất cả là ba mươi người cho ba mươi hòn đá…
Bà xơ điên hát nghêu ngao: “Bốn mụ đàn bà trên cây thánh giá”.
Giéctơruýt nói tiếp:
“… Việc đó xảy ra không lâu đâu… ngày thứ sáu tuần trăng sắp đến rồi. Chúng ta phải làm thế nào dể đi khỏi đây trước khi họ trèo lên cây sên lớn hái cành tầm gửi… Kia kìa, cây sên lớn! Đứng đây cũng nhìn thấy, ở khu rừng thưa trước cái cầu ấy. Cao hơn hẳn những cây khác!
Bà xơ điên xoay người trên chiếc xe cút kít lải nhải: Chúng nấp đằng sau… chúng đang chờ ta…
– Thôi đi, đừng động đậy nữa. Kìa bà trông thấy không? Cây sên lớn đấy, trên cánh đồng hoang cuối cùng. Nó rất…
Bà xơ Giéctơruýt chưa nói hết câu đã rụng rời buông tay khỏi đôi càng xe. Bà xơ Cơlêmăng trố mắt hỏi:
– Ô kìa! Sao thế, chị làm sao thế?
Bà xơ Giéctơruýt lắp bắp:
– Tôi vừa trông thấy cái gì trăng trắng… động đậy…
– Cái gì? Chị nói cái gì? Chẳng lẽ chúng xuất hiện giữa ban ngày! Chị quáng mắt rồi!
Các bà xơ chăm chú quan sát một hồi rồi lại tiếp tục đi. Chẳng mấy chốc họ không nhìn thấy cây sên lớn nữa. Bốn người bước vào một cánh đồng hoang xù xì ảm đạm rải rác đó đây toàn những đá tảng. Rất nhiều tảng đá im lìm ngủ yên như những nấm mồ nối tiếp nhau thành hàng kéo dài về cùng một hướng.
Giéctơruýt thì thầm:
– Đây là nghĩa địa của chúng.
Bắt đầu từ đây họ không nói chuyện nữa. Nhiều lần Giéctơruýt phải dừng lại để nghỉ. Cơlêmăng thì không còn sức đẩy xe cút kít nữa. Cả hai bà xơ cùng lảo đảo bước, mắt đờ đẫn nhìn vào khoảng không.
Qua một chỗ trũng, họ tiếp tục lên dốc. Đối với Vêrôních, đoạn đường này có vẻ quyến rũ như ngày nào nàng đã cùng đi với Honorin. Họ đã vào đến khu rừng thưa trước cái cầu gỗ.
Được một lát, nhìn vẻ mặt mỗi lúc một căng thẳng của các bà xơ Ácchinha, Vêrôních hiểu nàng sắp đến gần cây sên lớn. Cuối cùng Vêrôních đã nhìn thấy nó, đồ sộ cao to hơn hẳn những cây khác, sừng sững trên một ụ đất chằng chịt rễ, cách những cây khác một khoảng xa hơn. Nhìn gốc cây sên khổng lồ nàng không thể không mường tượng rất nhiều người có thể đang ẩn nấp kín đáo đằng sau nó.
Càng hoảng sợ các bà xơ càng rảo bước, mắt không dám nhìn cây sên báo hiệu điềm bất hạnh!
Bốn người đàn bà đã đi khỏi cây sên lớn. Vêrôních thở phào nhẹ nhõm. Mối đe dọa đã qua khỏi. Nàng toan nói một câu chế giễu các bà xơ Ácchinha thì đột nhiên thấy bà xơ Cơlêmăng xoay người như chong chóng ngã lăn ra đất tiếp theo là một tiếng rên… cùng lúc tiếng vật gì rơi trên mặt đất. Một vật khác rơi trúng lưng bà xơ Cơlêmăng. Vêrôních nhận ra đó là một chiếc rìu bằng đá.
– Ôi lưỡi tầm sét! Lưỡi tầm sét! – Bà xơ Giéctơruýt ngửa cổ nhìn lên trời. Hình như theo những tín ngưỡng dân gian còn tồn tại, bà xơ này nghĩ ngay đến những lưỡi tầm sét từ trên trời giáng xuống.
Đúng lúc đó, bà xơ điên vừa bước ra khỏi xe cút kít cũng nẩy người ngã chúi về phía trước. Một vật gì bay rít trong không khí. Bà xơ điên quằn quại đau đớn. Vêrôních và Giéctơruýt cùng nhìn thấy sau lưng bà xơ điên một mũi tên cắm ngập vào bả vai còn đang rung rưng.
Giéctơruýt kêu rú rồi ù té chạy.
Vêrôních còn đang lưỡng lự nhìn bà xơ Cơlêmăng và bà xơ điên nằm co quắp trên mặt đất chưa biết xử trí ra sao. Bà xơ điên cười khẩy: “Đằng sau cây sên… Chúng đang nấp… tao trông thấy chúng…” Bà xơ Cơlêmăng kêu lắp bắp: “Cứu tôi với…! Giúp tôi… mang tôi đi… Tôi sợ”.
Một mũi tên khác bay vút trong không khí và mất hút tận đằng xa. Lúc đó Vêrôních mới nghĩ đến chạy trốn. Nàng chạy về phía cây sên cuối cùng và lao nhanh xuống cái dốc đầu cầu.
Nàng chạy như điên dại không phải vì sợ mà vì một ý nghĩ đang thôi thúc: đi tìm vũ khí để tự vệ! Nàng nhớ trong phòng làm việc của cha nàng có một tủ kính chứa đầy súng trường và súng ngắn tất cả đều được chú thích “đã nạp đạn”. Nàng định dùng những vũ khí ấy để chống lại kẻ thù. Vêrôních cứ cắm đầu chạy không cần ngoái cổ trở lại xem kẻ thù có đuổi theo mình hay không. Nàng chỉ cốt chạy thật nhanh đến đích, đến cái đích duy nhất có ích cho nàng trong lúc này. Vêrôních gọn gàng nhanh nhẹn hơn nên chẳng mấy chốc nàng đã theo kịp Giéctơruýt. Bà xơ hổn hển nói trong hơi thở: “Cái cầu… phải đốt cái cầu… ét xăng ở đằng kia kìa…”
Vêrôních không trả lời. Phá cầu là việc thứ yếu. Vả lại phá cầu trong lúc này sẽ cản trở việc thực hiện ý định. Bà xơ Giéctơruýt vừa chạy đên đầu cầu bỗng lộn đi như con quay và cứ thế lăn mãi xuống gần đáy vực. Bà xơ bị một mũi tên xuyên ngang cạnh sườn.
– Cứu tôi với!… Đừng bỏ tôi – Tiếng bà xơ kêu thất thanh.
Nhưng Vêrôních lại tưởng Giéctơruýt trượt chân ngã trong lúc chạy xuống dốc nên nàng vội trả lời:
– Được rồi, tôi sẽ trở lại ngay. Tôi đi lấy súng, rồi chúng ta cùng hợp lực với nhau. Nàng nghĩ lấy được súng nàng sẽ cùng với Giéctơruýt quay lại khu rừng lúc nãy để cứu hai bà xơ bị thương. Ý nghĩ ấy như tiếp thêm sức mạnh. Nàng lao nhanh qua cầu chạy đến sát bức tường bao quanh khu thánh địa, vượt qua bãi cỏ chạy thẳng vào phòng giấy của Đecgơmông. Đứng trong văn phòng, Vêrôních thở dốc và khi đã hai tay cặp hai khẩu súng trường, trống ngực nàng đập càng mạnh đến nỗi không thể đi thật nhanh về chỗ ban nãy được nữa.
Nàng ngạc nhiên vì dọc đường không gặp cũng không nhìn thấy Giéctơruýt. Nàng cất tiếng gọi. Không có tiếng trả lời. Chỉ đến lúc ấy Vêrôních mới nghĩ ra. Giéctơruýt có thể đã bị thương như các bà xơ kia?
Vêrôních lại chạy. Đến gần đầu cầu, qua hơi thở ù ù trong tai, nàng vẳng nghe thấy những tiếng kêu the thé… Khi đến chỗ nhìn sang cái dốc dựng ngược lên khu rừng sên lớn, nàng thấy…
Cảnh tượng trước mắt khiến Vêrôních đứng sững như bị chôn chân xuống đất. Trên sườn bờ vực bên kia, Giéctơruýt đang giẫy giụa vùng vẫy như lặn ngụp trong đất đá, các ngón tay cố bấu vào đất vào rễ cây vào các bụi cỏ một cách tuyệt vọng…! nhưng cả thân hình bà xơ hình như vẫn đang bị nâng lên từ từ theo triền dốc một cách vô tình và không hề đứt đoạn.
Lúc này nàng mới hiểu ra. Người đàn bà khốn khổ kia bị một sợi dây thừng buộc ngang lưng chỗ dưới cánh tay và sợi dây đang kéo bà xơ lên như một chiếc mồi câu bất lực bởi những bàn tay vô hình nào đó tít trên cao.
Vê rô ních bất giác tì súng lên vai. Nhưng nhằm vào đâu? Bắn vào kẻ thù nào? Kẻ nào đang nấp sau những thân cây, những tảng đá âm u dày đặc bao bọc khắp quả đồi chẳng khác gì những thành lũy kiên cố. Cứ thế Giéctơruýt bị sợi dây lôi lên giữa những tảng đá và những thân cây. Không thấy bà xơ kêu rên nữa. Có lẽ đã kiệt sức. Rồi sau đó mất hút trong đám cây cối rậm rạp.
Vêrôních đứng im không nhúc nhích. Lúc này nàng mới thấm thía thế nào là ảo tưởng với tất cả sức mạnh và tính hiện thực của nó. Vừa định lao vào một cuộc chiến đấu nàng đã trở thành kẻ chiến bại. Nàng đã chẳng giải cứu được những bà xơ Acchinha mà có khi còn tự nạp mình cho kẻ chiến thắng làm vật tế thần mới lạ và chung cuộc của chúng.
Nàng bỗng thấy sợ, tất cả những sự việc đang xảy ra theo những quy luật sống động mà nàng càng không thể hiểu hết mọi khía cạnh của nó. Thật ra nó ràng buộc cái nọ với cái kia như những mắt xích trong một chuỗi dây xích. Nàng thấy sợ, sợ những sinh vật ấy, một nỗi lo sợ tự nhiên vô ý thức và theo bản năng. Nàng cũng sợ như các bà xơ Ácchinha, như Honorin, như tất cả, những nạn nhân của mối tai ương khủng khiếp này.
Bất giác Vêrôních cúi thấp người xuống. Nàng sợ bị nhìn thấy từ phía bên cánh rừng Sên Lớn. Nàng cúi lom khom lợi dụng các bụi ngải che khuất để đến chỗ nhà chòi ở bên trái cây cầu các bà xơ Ácchinha đã nói cho nàng biết. Đó là một kiểu nhà chòi mái nhọn có các cửa kính màu. Một nửa nhà chòi chất đầy những bi đông ét xăng.
Chỗ này cao hơn mặt cầu nên Vêrôních có thể nhìn thấy bất cứ người nào đi trên đó. Nhưng không có ai cả.
Ban đêm sương xuống dày đặc phủ kín mặt trăng thành một màu trắng bạc, nhờ vậy Vêrôních có thể quan sát rất rõ phía bờ đối diện.
Khoảng một giờ sau nàng thực hiện xong chuyến thứ nhất với hai bi đông ét xăng tưới lên các mô cầu phía ngoài. Sau nhiều lần căng óc nghe ngóng, súng khoác chéo trên vai sẵn sàng tự vệ, nàng tiếp tục thực hiện chuyến thứ hai. Nàng tưới ét xăng có vẻ hơi hú họa. Tuy nhiên cũng cố gắng sờ xem chỗ nào gỗ có vẻ mục xốp để tưới cho xăng ngấm vào được nhiều hơn.
Nàng mang theo một bao diêm. Bao diêm duy nhất tìm thấy trong nhà. Vê rô ních lấy bao diêm trong túi ra, rút một que, lưỡng lự trong giây lát hình như ngại ngọn lửa khổng lồ sắp bùng lên các bờ biển xung quanh cũng có thể nhìn thấy đám cháy… nhưng sương mù thế này… Đột nhiên nàng siết mạnh que diêm châm vào một mồi giấy tẩm ét xăng đã chuẩn bị sẵn. Lửa bùng lên xém cả vào tay. Nàng ném vội mẩu giấy vào vũng ét xăng gần đó và chạy về chỗ nhà chòi. Đám cháy xảy ra tức khắc. Chỉ trong nháy mắt lửa đã lan tràn vào những chỗ có ét xăng. Hai bờ vực ngăn đôi hai hòn đảo, những cây cối xung quanh quả đồi, cả khu rừng Sên Lớn và mặt biển dưới đáy vực đều bừng sáng. “Họ có thể trông thấy ta… họ có thể trông thấy chiếc nhà chòi ta đang ẩn nấp…” Nàng nghĩ mông lung, mắt không lúc nào rời khu rừng Sên Lớn.
Nhưng khu rừng bên kia tuyệt nhiên không một bóng người, không một tiếng động tĩnh. Những kẻ đang lẩn lút trên cao không hề ló mặt ra khỏi nơi ẩn nấp kín đáo của chúng. Sau ít phút nữa chiếc cầu đã đổ sập tiếp theo một tiếng động vang dậy cùng với những tàn lửa bắn tung toé. Nửa cầu phía bên kia vẫn tiếp tục bị thiêu huỷ. Thỉnh thoảng một thanh gỗ rực lửa rơi lả tả soi sáng tận đáy vực tối om.
Mỗi lần ngọn lửa bùng lên là một lần Vêrôních cảm thấy vơi bớt nỗi lo âu. Những sợi dây thần kinh căng thẳng đang dần dần chùng xuống. Một cảm giác yên ổn lan tràn khắp cơ thể. Sự yên ổn dường như càng thêm chắc chắn cùng với khoảng cách giữa nàng với kẻ thù ở hai bên bờ vực thêm nới rộng. Tuy nhiên nàng vẫn ở trong túp nhà chòi chờ sáng vì yên trí từ nay giữa hai bờ vực sẽ không còn liên hệ với nhau được nữa.
Sương mù càng dày đặc. Tất cả đều chìm ngập trong bóng tối. Lúc nửa đêm nàng nghe thấy những tiếng động từ phía bên kia vọng lại, hình như từ trên ngọn đồi, giống tiếng tiều phu đốn gỗ. Tiếng rìu chặt đều đều, tiếng cành cây gẫy răng rắc.
Vêrôních nghĩ, kể ra nàng cũng biết ý nghĩ của mình là phi lý, rằng có thể họ đang chặt cây để làm một chiếc cầu khác thay thế cây cầu vừa bị đốt cháy và tay nàng lại nắm chặt vào khẩu súng.
Độ một giờ sau nàng còn nghe thấy cả những tiếng rên rỉ, những tiếng nấc như người bị nghẹt thở. Sau đó một lúc khá lâu nữa là tiếng lá cây sột soạt và tiếng những bước chân đi đi lại lại. Rồi tất cả đều ngừng bặt. Xung quanh trở lại hoàn toàn yên tĩnh trong đó pha trộn tất cả những gì đang âm thầm hoạt động, những gì đang lo âu khắc khoải đang run rẩy tất cả những gì đang sống trong không gian vô tận…
Đầu óc Vêrôních tê dại vì mệt, vì cơn đói bắt đầu giày vò. Nàng không còn suy nghĩ được gì nữa. Nàng chỉ còn nhớ một điều là lúc ở trong làng ra đi quên không mang theo thức ăn và bây giờ không có gì để ăn. Nhưng Vêrôních không rối trí. Nàng đã có ý định ở lại đây để đến mai khi tan sương mù, và cũng chẳng còn lâu nữa, nàng sẽ đốt lửa thật to bằng những bi đông ét xăng còn lại. Nàng còn dự tính chỗ đốt lửa tốt nhất là ở đầu hòn đảo. Chỗ ấy cao hơn cả, chỗ có các bàn đá cổ. Thế nhưng một sự việc gay cấn lại quấy rầy: nàng không nhớ lúc nãy đã bỏ bao diêm ở đâu. Tìm trong các túi, tìm khắp xung quanh cũng chẳng thấy. Tuy nhiên cả việc này cũng không làm nàng lo lắng thái quá. Cái chính là nàng đã ngăn chặn được sự tấn công của kẻ thù từ phía bên kia bờ vực.
Thêm nhiều giờ trôi qua, những giờ dài lê thê mà cái lạnh tái tê mỗi lúc càng thêm nặng nề vào lúc trời gần sáng cứ thấm mãi vào da thịt.
Rồi cũng đến lúc trời hửng sáng. Một vừng hồng mơ hồ trải rộng trên bầu trời. Mọi vật chui ra khỏi bóng đêm và trở lại nguyên hình của nó. Lúc ấy Vêrôních mới nhìn rõ toàn bộ chiếc cầu bị sụp đổ trên suốt cả chiều dài của nó. Một khoảng cách chừng năm mươi mét ngăn đôi hai bờ vực. Hai hòn đảo chỉ còn dính với nhau ở cái phần nằm tít dưới đáy vực sâu bên trên toàn là những mỏm đá nhọn hoắt mỏng sắc và không thể đến gần được.
Nàng đã thoát khỏi sự đe dọa của kẻ thù.
Nhưng khi ngước mắt nhìn ngọn đồi trước mặt, Vêrôních bật lên một tiếng kêu sợ hãi.
Trên sườn đồi, ba cây sên ngoài cùng của khu rừng Sên Lớn đã bị róc hết các cành thấp. Trên ba thân cây trơ trụi, xác ba bà xơ Ácchinha quần áo tả tơi, cổ bị quấn chặt vào thân cây bằng những sợi dây thừng, hai cánh tay quặt ra sau và cái đầu lấp ló sau những cánh nơ bằng vải thâm.
Các bà xơ đã bị buộc vào thân cây giống như bị đóng đinh vào cây thập giá.