Lá bài thứ XII
CHƯƠNG 16 (TIẾP)
Vừa khi cuộc gọi kết thúc, Geneva, Bell và Pulaski đến.
Bell giãi thích về cuộc chạy trốn của tên đồng phạm ở trường học. Anh thêm vài thông tin về hắn, cho họ biết rằng sẽ có người đi thu thập thông tin từ các học sinh và giáo viên rồi sẽ kiểm tra băng ghi hình an ninh nếu có.
“Cháu đã không được làm bài kiểm tra sau cùng”, Geneva nói một cách đầy tức giận, như thể đó là lỗi của Rhyme. Cô bé này rõ ràng có thể khiêu khích làm ta phải tức giận. Anh vẫn nói một cách kiên nhẫn: “Chú có một vài tin cháu có thể quan tâm. Người tổ tiên của cháu vẫn sống sau khi nhảy xuống dòng sông Hudson”.
“Ông ấy đã làm được?” Khuôn mặt bừng sáng lên và cô hồ hởi đọc bản in của bài báo năm 1868. Rồi cô cau mày. “Họ khiến cho ông ấy nghe có vẻ là một kẻ xấu. Như thể ông đã lên kế hoạch cho tất cả mọi chuyện. Ông ấy không như vậy. Cháu biết điều đó.” Cô ngước lên nhìn. “Và chúng ta vẫn chưa biết điều gì xảy ra nếu như ông ấy đã từng được thả ra.”
“Chúng ta vẫn đang tìm kiếm thông tin. Chú hi vọng là chúng ta có thể tìm được thêm.”
Chiếc máy tính kêu một hồi chuông và Rhyme nhìn nó. “Có thể có gì đó ở đây. Email từ một giáo sư ở Amherst – người điều hành một trang web về lịch sử Mỹ – Phi. Bà ấy là một trong những người tôi đã gửi email về Charles Singleton.”
“Đọc lên xem.”
“Nó là từ trong nhật ký của Frederick Douglass.”
“Một lần nữa, ông ta là ai vậy nhỉ?”, Pulaski hỏi. “Xin lỗi, tôi hẳn là nên biết. Có một con đường mang tên ông ta.”
Geneva nói: “Cựu nô lệ. Người ủng hộ việc bãi bỏ án tử hình và lãnh đạo quyền dân sự thế kỷ XIX. Là một nhà văn, giảng viên đại học”.
Chàng lính trẻ đỏ mặt thẹn thùng. “Như tôi đã nói, đáng nhẽ tôi phải biết.”
Cooper nghiêng về phía trước và đọc to các dòng chữ trên màn hình:
Mùng 3 tháng 5 năm 1866. Một buổi tối khác ở Gallows Height…
“À”, Rhyme cắt ngang. “Địa điểm huyền bí của chúng ta.” Từ “Giá treo cổ” một lần nữa nhắc lại cho anh về hình ảnh lá bài Người treo ngược, nét bình thản với cái chân móc ngược trên giá. Anh nhìn chằm chằm vào quân bài, rồi quay trở lại với Cooper.
… bàn bạc về nỗ lực sổng còn của chúng tôi, Tu chính án số 14. Một vài thành viên của Cộng người da màu ở New York, và cả tôi, đã gặp vị Thống đốc Fenton và các thành viên của ủy ban hợp nhất về Tái xây dựng, bao gồm các Thượng nghị sĩ Harris, Grimes và Fessenden, và các Nghị sĩ Stevens, Washburne và thành viên Đảng Dân chủ, Andrexv T. Rogers, người đã cho thấy không đến mức bè phái như chúng ta vẫn sợ.
Thống đốc Fenton bắt đầu với một lời khẩn cầu thiết tha, và từ đó chúng tôi bắt đầu trình bày với các thành viên của Ủy ban ý kiến của mình về các phiên
bản dự thảo khác nhau của Bản sửa đổi chúng tôi đã làm vất vả sau một khoảng thời gian dài. (Ông Charles Singleton cũng trình bày một cách rõ ràng quan điểm của mình về việc Bản sửa đổi nên đưa vào một yêu cầu về sự tán thành chung của mọi công dân, người da đen và người có nguồn gốc châu Âu, đàn bà cũng như đàn ông, và các thành viên của ủy ban sẽ cân nhắc kỹ lời góp ý này.) Những cuộc tranh cãi đã diễn ra suốt cả đêm.
Geneva nghiêng qua vai Rhyme và đọc. “Trình bày một cách rõ ràng”, cô thì thầm thành tiếng. “Và ông ấy muốn ủng hộ cho phụ nữ.”
“Đây là một bài viết khác.” Cooper nói.
Ngày 25 tháng 6 năm 1867. Tôi thấy không hài lòng với tiến trình chậm chạp. Bản sửa đồi số 14 đã được trình các bang để được phê chuẩn một năm trước, với tính thiết thực hai mươi hai bang đã ủng hộ giải pháp. Chỉ còn thiếu sáu bang nữa, nhưng chúng ta đang phải đối mặt với một sự phản đối mạnh mẽ và cương quyết.
Williard Fish, Charles Singleton và Elijah Walker đang đi tới các bang chưa ký kết và làm tất cả những gì có thể để cầu xin những nhà lập pháp ở đó bỏ phiếu ủng hộ Bản sửa đổi. Nhưng ở mỗi bước đi, họ vấp phải sự thờ ơ trong việc đón nhận sự thông thái của bộ luật này – và thái độ khinh thị đe dọa và bực dọc đầy tính cá nhân. Đã phải hy sinh quá nhiều, và vẫn chưa đạt được mục tiêu… Liệu sự áp đảo của chúng ta trong cuộc chiến sẽ trở thành vô nghĩa, gần như là một chiến thắng Pyrrhic[36]? Tôi cầu cho sự nghiệp của nhân dân sẽ không tàn úa trong nỗ lực quan trọng nhất này của chúng ta.
[36] Pyrrhic victory: là một thành ngữ để chỉ một chiến thắng mà bên thắng đã phải tổn thất rất lớn, đến mức gần như hủy diệt.
Cooper nhìn lên màn hình. “Hết rồi.”
Geneva nói: “Vậy là ông Charles đã cùng với Douglass và những người khác đóng góp cho Tu chính án số 14. Nghe có vẻ như họ là đồng đội”.
Hay họ đã từng? Rhyme thắc mắc. Liệu bài báo có đúng không? Liệu có đúng là ông ấy đã dùng cách của mình để hòa chung với họ để tìm hiểu về Quỹ Nô lệ tự do và cướp nó?
Dù sao, đối với Lincoln Rhyme thì sự thật là mục tiêu duy nhất trong bất cứ cuộc điều tra hình sự pháp y nào, anh vẫn nuôi một hi vọng đầy cảm tính hiếm hoi về việc Charles Singleton không thực hiện tội lỗi đó.
Anh nhìn chằm chằm vào bảng bằng chứng, thấy nhiều dấu hỏi hơn là những câu trả lời.
“Geneva, cháu có thể gọi cho bà cô của mình không? Để xem bà ấy có tìm thấy lá thư nào khác hay bất cứ thứ gì của ông Charles không?”
Cô bé gọi điện cho người phụ nữ mà bà Lilly đang sống cùng. Không có ai nhấc máy nhưng cô đã để lại tin nhắn để họ gọi lại theo số của Rhyme. Rồi cô gọi một cú điện thoại khác. Đôi mắt sáng lên. “Mẹ! Bố mẹ về nhà chưa?”
“Cảm ơn Chúa”, Rhyme nghĩ. Cuối cùng bố mẹ cô bé đã trở về.
Nhưng một cái cau mày hiện lên trên khuôn mặt cô bé chỉ một giây sau đó. “Không… Đã có chuyện gì vậy?… Khi nào ạ?”
Một sự chậm trễ của việc nào đó, Rhyme suy luận.
Geneva thông báo cho mẹ tình hình, bảo đảm với họ rằng cô bé an toàn và đang được bảo vệ bởi cảnh sát. Cô đưa điện thoại cho thanh tra Bell, anh nói chuyện với mẹ cô khá lâu về tình hình hiện tại rồi chuyển lại điện thoại và cô tạm biệt mẹ mình. Cô dập máy một cách miễn cưỡng.
Bell nói: “Họ đang kẹt ở London. Chuyến bay bị hủy và họ không thể đi bằng phương tiện khác trong ngày hôm nay. Họ sẽ có mặt trong chuyến bay sớm nhất ngày mai – nó sẽ tới Boston và họ sẽ bắt chuyến bay tiếp theo ở đó”.
Geneva nhún vai, nhưng Rhyme có thể nhìn thấy nỗi thất vọng trong mắt cô bé. Cô nói: “Tốt hơn là cháu nên về nhà. Cháu có một vài nghiên cứu ở trường”.
Bell kiểm tra cùng với các sĩ quan đội bảo vệ nhân chứng và bác của Geneva. Mọi thứ có vẻ an toàn, anh báo cáo.
“Cháu sẽ không đến trường ngày mai chứ?”
Cô do dự một lúc. Nhăn mặt. Liệu sẽ là một trận chiến nữa chăng?
Chợt một tiếng nói cất lên. Đó là Pulaski, chàng cảnh sát trẻ. “Một điều là, Geneva, nó không còn là sự an toàn của riêng em nữa. Nếu ngày hôm nay gã ấy, tên mặc chiếc áo khoác quân sự, có thể tiếp cận đủ gần và bắt đầu nã súng, có lẽ đã có thêm những học sinh khác bị thương hoặc thậm chí bị giết. Hắn có thể cố gắng thực hiện một lần nữa khi em đứng với những người khác ở ngoài trường hay là trên phố.”
Rhyme có thể thấy trên khuôn mặt cô bé sự tác động của những lời nói ấy. Có lẽ cô đang nghĩ tới cái chết của tiến sĩ Barry.
Nên ông ấy chết vì mình…
“Đúng thế rồi”, cô nói với một giọng yếu ớt. “Cháu sẽ ở nhà.”
Bell gật đầu với cô. “Cảm ơn cháu.” Và biểu lộ cái nhìn đầy cảm kích với chàng sĩ quan trẻ.
Viên thanh tra cùng Pulaski dẫn cô bé đi ra ngoài cánh cửa và những người khác quay trở lại với tấm bảng bằng chứng từ căn hộ của hung thủ.
Rhyme đã thất vọng khi thấy không có gì nhiều lắm. Bản đồ của con phố phía trước bảo tàng Mỹ – Phi mà Sachs tìm ra được giấu trên giường của hắn, chẳng để lại dấu vân tay nào hết. Tấm bản đồ được bày bán đại trà, như ở Staples và Office Depot. Mực thì là loại rẻ tiền và không có nguồn gốc hay dấu vết nào để lần theo.
Tấm bản đồ được vẽ với những chi tiết kỹ càng hơn rất nhiều về các con hẻm và các tòa nhà trên con phố hơn là viện bảo tàng – cái bản đồ dành cho đường tháo chạy của hung thủ. Rhyme suy luận. Nhưng Sachs đã truy tìm những địa điểm này một cách cẩn thận, các thám tử đã điều tra những nhân chứng trong cửa hàng đồ trang sức và các tòa nhà có trong tấm bản đồ.
Có nhiều sợi hơn từ cái dây thừng của hắn – dây thắt cổ, họ suy đoán.
Cooper quét một phần tấm bản đồ qua máy GC/MS, và dấu vết duy nhất được tìm thấy trên tờ giấy là carbon tinh khiết. “Than đá từ những người bán hàng hội chợ trên phố chăng?” Anh thắc mắc.
“Có thể”, Rhyme nói. “Hoặc có thể h vật chứng. Đưa việc này vào tấm biểu đồ. Có thể chúng ta sẽ tìm ra mối liên quan sau này.”
Một dấu vết khác trên bản đồ – các vết bẩn và những mẩu vụn – phần lớn là thức ăn: sữa chua và những hạt đậu xanh, tỏi và dầu ngô.
“Món falafel”, Thom, một đầu bếp sành ăn, đưa ra lời đoán. “Đến từ Trung Đông. Và thường được phục vụ với sữa chua. Hơn nữa, món này rất tuyệt vời.”
“Và cực kỳ phổ biến”, Rhyme nói một cách chua chát. “Chúng ta có thể thu hẹp nguồn gốc tới khoảng hai ngàn cửa hàng chỉ trong khu vực Manhattan, các cậu có nghĩ thế không? Chúng ta có cái khỉ gì nữa đây?”
Trên đường trỏe về đây, Sachs và Sellito đã dừng lại ở một công ty bất động sản quản lý khu phố Elizabeth và đã lấy được thông tin về người thuê căn hộ. Người phụ nữ quản lý văn phòng nói người khách đã trả ba tháng tiền nhà bằng tiền mặt và bảo bà cứ giữ lấy thêm hai tháng tiền đặt cọc. (Số tiền, thật không may là, đã được tiêu hết; chẳng còn lại tờ nào để truy ra dấu vân tay cả.) Hắn đã sử dụng cái tên Billy Todd Hamil để thuê, địa chỉ cũ ở Florida. Bức ảnh ghép vi tính mà Sachs thực hiện hoàn toàn giống với người đàn ông đã ký vào hợp đồng thuê nhà, dù hắn đã đội mũ lưỡi trai và đeo kính. Người phụ nữ cũng xác nhận rằng hắn có giọng miền Nam.
Tìm kiếm trên cơ sở dữ liệu nhận dạng cá nhân cho kết quả 173 người trùng tên Billy Todd Hammils trên khắp đất nước trong suốt năm năm qua. Trong số những người da trắng và khoảng giữa ba lăm và năm mươi tuổi, không một ai sống trong khu vực New York. Những người ở Florida đều là người già hoặc khoảng hai mươi tuổi. Bốn Billy Todd có hồ sơ vi phạm pháp luật, và trong số này thì có ba người vẫn đang thụ án trong nhà giam và một người đã chết sáu năm trước.
“Hắn chọn đại một cái tên”, Rhyme lầm bầm. Anh nhìn lên bức ảnh đối tượng từ máy tính.
Mày là ai, Đối tượng 109? Anh tự hỏi.
Và mày ở đâu?
“Mel, gửi email bức ảnh này cho J.T.”
“Gửi tới ai?”
“Người quản lý trại giam ở Amarillo.” Rồi hất đầu về phía bức ảnh. “Tôi vẫn nghiêng về giả thuyết hắn là một phạm nhân có xích mích với người bảo vệ bị hành hình.”
“Đã hiểu”, Cooper nói. Sau khi làm xong, anh lấy mẫu chất lỏng mà Sachs tìm thấy ở căn hộ của hung thủ, cẩn thận mở nó ra và chuẩn bị sẵn sàng để đưa vào máy GC/MS.
Một thời gian ngắn sau kết quả hiện lên trên màn hình.
“Đây là một mẫu chất mới. Gồm có polyvinyl alcohol, povidone, belzalkonium chloride; dexstrose (đường D-glucosơ); kali clorua (potassium chloride), nước; natri bicarbonat, natri clorua…”
“Nhiều muối hơn”, Rhyme nói thêm vào. “Nhưng lần này không còn là bỏng ngô nữa.”
“Sodium citrate và sodium phosphate. Một vài thứ nữa.”
“Cái tiếng Hy Lạp vớ vẩn.” Sellito nhún vai và đi ra sảnh, hướng về phía phòng vệ sinh.
Cooper gật gù nhìn vào danh sách thành phần chất lỏng thu được. “Có thông tin nào cho biết nó là gì không?”
Rhyme lắc đầu. “Dữ liệu của chúng ta?”
“Không thấy gì hết.”
“Gửi nó xuống Washington.”
“Sẽ gửi.” Nhà khoa học hình sự gửi thông tin tới phòng thí nghiệm của FBI và quay trở lại với vật chứng cuối cùng mà Sachs tìm ra: những mẩu gỗ vụn được cạo ra từ các vệt trên mặt bàn ở căn hộ của hung thủ.
Cooper lấy một ít để làm mẫu đưa vào máy GC/MS.
Trong khi chờ đợi kết quả, Rhyme nhìn lướt qua biểu đồ tư liệu. Anh đang nhìn vào những ghi chép thì thấy có chuyển động nhanh ở phía đuôi mắt. Giật mình, anh quay về hướng đó. Nhưng không có ai ở góc đấy của căn phòng. Anh đã nhìn thấy cái gì vậy?
Rồi anh lại nhìn thấy chuyển động và nhận ra rằng mình đang nhìn vào cái gì: hình ảnh phản chiếu trong chiếc cốc trên mặt tủ. Đó là Lon Sellito, đứng một mình ở hành lang, rõ ràng tin rằng không ai nhìn thấy mình. Những chuyển động nhanh là do viên thanh tra to lớn đang tập đi tập lại động tác rút súng nhanh. Rhyme không thể nhìn rõ khuôn mặt của anh ta nhưng vẻ biểu lộ của anh ta rõ ràng là lo lắng.
Đó là điều gì vậy?
Anh bắt gặp của Sachs và gật đầu về phía cửa. Cô tiến tới gần cánh cửa và liếc ra ngoài, nhìn viên thanh tra rút khẩu súng ra một vài lần nữa rồi lắc lắc đầu, nhăn mặt. Sachs nhún vai. Sau khoảng ba đến bốn phút luyện tập, anh ta cất khẩu súng đi, bước vào phòng vệ sinh mà chẳng cần đóng cửa, dội nước bồn cầu và bước ra ngoài một giây sau đó.
Anh ta quay trờ lại phòng thí nghiệm. “Lạy Chúa, Linc, khi nào thì anh sẽ đưa một cái nhà vệ sinh hiện đại tử tế hơn vào chỗ này đây? Chẳng phải cái màu vàng và đen ấy cũng đã lỗi thời từ hồi những năm 70 rồi sao?”
“Anh biết đấy, tôi chỉ không hay tổ chức các buổi họp trong nhà vệ sinh lắm.”
Người đàn ông to lớn cười, nhưng quá to. Tiếng cười giống như bị kích thích bởi câu nói đùa, nhưng nghe không tự nhiên.
Nhưng dù điều gì đang gây rắc rối cho anh ta ngay lập tức biến mất khỏi đầu Rhyme khi kết quả từ chiếc máy phân tích bằng phương pháp GC/MS hiện lên trên màn hình máy tính – những mẩu gỗ được lấy ra từ trên mặt bàn làm việc của hung thủ. Rhyme cau mày. Bản phân tích đưa ra báo cáo rằng cái chất ăn hằn vào gỗ là acid sulfuric tinh chất, một tin mà Rhyme thấy rằng không hề hay chút nào. Bởi một điều, dựa trên chứng cứ xác thực, nó luôn luôn có sẵn và do đó thực sự chẳng thể nào tìm ra dù chỉ là một manh mối.
Nhưng còn đáng ngại hơn, có lẽ nó là acid mạnh nhất – và nguy hiểm nhất – mà ta có thể mua được; như một vũ khí, ngay cả với một số lượng cực nhỏ cũng có thể, chỉ trong vài giây, giết hoặc phá hoại thể xác vĩnh viễn.
Bảng bằng chứng:
Ngôi nhà an toàn trên phố Elizabeth của hung thủ:
+ Sử dụng bẫy điện.
+ Dấu tay: không. Chỉ có dấu găng tay.
+ Camera và màn hình an ninh; không có manh mối.
+ Bộ bài tarot, thiếu lá số mười hai; không có manh mối.
+ Bản đồ chi tiết bảo tàng nơi Geneva bị tấn công và các tòa nhà bên kia con phố. Dấu vết:
– Falafel và sữa chua
– Các mẩu gỗ lấy ra từ mặt bàn làm việc với vệt acid sulfuric tinh chất.
– Chất lỏng trong suốt, không phải chất nổ. Gửi tới phòng thí nghiệm của FBI.
– Nhiều sợi vải từ dây thừng hơn. Thừng thắt cổ?
– Carbon nguyên chất tìm thấy trên tấm bản đồ.
+ Ngôi nhà được thuê bằng tiền mặt, với cái tên Billy Todd Hammil. Khớp với miêu tả của Nghi phạm 109, nhưng không có manh mối nào liên quan tới cái tên Hammil thực tế.
Hiện trường Bảo tàng Mỹ – Phi
+ Gói đồ hiếp dâm:
– Lá bài tarot, số mười hai trong bộ bài, Người treo ngược, có nghĩa là sự tìm kiếm tâm linh.
– Chiếc túi có hình mặt cười. + Quá chung chung để lần tìm.
– Dao rọc giấy.
– Bao cao su Trojan.
– Băng dính.
– Dầu thơm mùi hoa nhài.
– Vật không rõ giá 5,95 đô. Có khả năng là chiếc mũ trùm.
– Hóa đơn, cho thấy cửa hàng nằm ở thành phố New York, cửa hàng tạp hóa giảm giá hoặc một hàng dược phẩm.
– Nhiều khả năng được mua từ một cửa hàng trên phố Mulberry, Little Italy. Hung thủ được nhận dạng bởi nhân viên bán hàng.
+ Dấu tay:
– Nghi phạm đeo găng tay cao su. – Dấu tay trên gói đồ thuộc về một người có bàn tay nhỏ, không có dữ liệu trong hệ thống IAFIS. Nhiều khả năng là của nhân viên bán hàng.
+ Dấu vết:
– Sợi thừng vải bông, một vài có vết máu người. Dây để thắt cổ?
– Gửi tói CODIS.
* Không tìm thấy DNA trùng khớp ở CODIS.
* Bỏng ngô và kẹo bông với những dấu vết nước đái chó.
+ Vũ khí:
– Dùi cui hoặc một chiếc côn.
– Khẩu súng có ổ thuốc lớn, hạt kích nổ vành, kiểu súng ngắn Quân đội Bắc Mỹ 22 ly – loại Black Widow hoặc Minimaster.
– Những viên đạn tự chế, đầu đạn chứa những chiếc kim. Không thấy dữ liệu trong IBIS hay DRUGFIRE.
+ Động cơ:
– Chưa chắc chắn. Hiếp dâm chỉ là động cơ giả.
– Động cơ thật sự có thể là để lấy đi tấm vi phim của bài báo trên tờ Tuần báo Minh họa dành cho người da màu ngày 23 tháng 7 năm 1868, và giết Geneva Settle vì việc cô quan tâm tới bài báo này bởi một lý do chưa biết. Bài báo viết về một ông tổ của Geneva tên là Charles Singleton. (Xem thông tin bên biểu đồ bên cạnh.)
– Người thủ thư – nạn nhân bị giết báo rằng có ai đó muốn được xem bài báo.
– Yêu cầu có được nhật ký cuộc gọi của người thủ thư để kiểm tra điều này.
* Không có manh mối nào.
* Yêu cầu cần có thông tin từ những nhân viên thư viện hoặc với những người mong muốn được thấy câu chuyện.
* Không có manh mối nào.
– Tìm kiếm bản copy của bài báo.
– Một vài nguồn báo cáo về một người đàn ông yêu cầu cùng một bài báo. Không manh mối nào được xác nhận. Phần lớn các ấn bản đều đã mất hoặc bị phá hủy. Xác định được vị trí một ấn bản. (Xem biểu đồ bên cạnh).
– Kết luận: Geneva Settle vẫn còn trong tình trạng nguy hiểm.
+ Hồ sơ các vụ việc gửi tới VICAP và NCIC.
– Vụ giết người ở Amarillo, Texas, năm năm trước. Cũng có hiện trường được làm giả (làm như vụ giết người là nghi lễ tôn giáo, nhưng động cơ thật sự vẫn chưa được tìm ra).
– Nạn nhân là một nhân viên gác ngục về hưu.
– Bức ảnh từ máy tính được gửi tới nhà tù Texas.
– Vụ giết người ở Ohio, ba năm về trước. Cũng có hiện trường được làm giả (làm như đó là một vụ tấn công tình dục đồng giới, nhưng động cơ thật sự là được thuê giết). Hồ sơ bị thất lạc.
Hồ sơ về Nghi phạm 109
+ Nam da trắng.
+ lm8, gần 90kg.
+ Giọng trung.
+ Sử dụng điện thoại để tiếp cận nạn nhân.
+ Mang một chiếc giày Bass cỡ 11 màu nâu sáng, khoảng ba năm hoặc hơn. Bàn chân phải hơi hướng ra ngoài.
+ Mùi hoa nhài.
+ Quần tối màu.
+ Đeo mũ trùm, màu tối.
+ Sẽ nhắm vào những người vô tội để tạo cơ hội hạ gục nạn nhân và trốn thoát.
+ Nhiều khả năng là một kẻ giết thuê.
+ Nhiều khả năng là một cựu phạm nhân ở Amarillo, TX.
+ Có giọng miền Nam.
+ Mái tóc màu nâu sáng, được chải chuốt chỉnh tề, râu cạo sạch sẽ.
+ Không đặc biệt, nổi bật.
+ Được thấy mặc một chiếc áo mưa tối màu.
Hồ sơ về kẻ thuê Nghi phạm 109
+ Chưa có thông tin gì lúc này.
Hồ sơ về đồng phạm Nghi phạm 109
+ Nam, da đen.
+ Cuối ba mươi, đầu bốn mươi.
+ Cao khoảng lm8.
+ Thân thể khỏe mạnh cường tráng.
+ Mặc chiếc áo dã chiến màu xanh.
+ Từng là phạm nhân.
+ Chân khập khiễng.
+ Được báo cáo có mang súng.
+ Râu được cạo sạch sẽ.
+ Đeo chiếc khăn trùm đầu màu đen.
+ Đang đợi thêm các nhân chứng và băng ghi hình an ninh.
Hồ sơ về Charles Singleton
+ Cựu nô lệ, tổ tiên của Geneva Settle. Có gia đình, một con trai. Được ông chủ cho một vườn cây ở tiểu bang New York. Làm việc với vai trò một thầy giáo. Tham gia vào cuộc vận động vì dân quyền từ rất sớm.
+ Charles bị cho là đã thực hiện một vụ trộm năm 1868, chủ đề của bài báo trong tấm vi phim bị lấy trộm.
+ Có một bí mật chưa được hé lộ. Lo lắng rằng sẽ gây ra thảm kịch nếu bí mật bị hé lộ.
+ Tham gia vào các buổi họp bí mật ở Gallows Heights gần New York.
+ Dính líu tới những hoạt động mạo hiểm?
– Làm việc với Frederick Douglass và những người khác liên quan tới Tu chính án số 14 trình Thượng viện để được phê chuẩn.
– Vụ án, theo tờ Tuần báo Minh họa dành cho người da màu:
– Charles bị bắt bởi Thám tử William Simms vì ăn trộm một lượng lớn từ Quỹ Nô lệ tự do ở New York. Đột nhập vào két, nhân chứng nhìn thấy ông ta rời khỏi đó nhanh chóng. Dụng cụ dùng để gây án được tìm thấy ở gần đó. Phần lớn tiền đã được tìm lại. Bị tuyên án năm năm tù. Không có thông tin gì sau khi bị tuyên án. Bị cho là tận dụng quan hệ với những nhà lãnh đạo trong cuộc vận động dân quyền thời gian đầu để tiếp cận Quỹ.
+ Thư của Charles:
– Bức thư thứ nhất, gửi tới vợ: về cuộc khởi nghĩa gọi quân năm 1863, sự chống lại người da đen ở khắp tiểu bang New York, hành hình, đốt phá. Nguy cơ ảnh hưởng tới tài sản mà người da đen sở hữu.
– Bức thư thứ hai, tới vợ: Charles trong trận chiến ở Appromattox vào giai đoạn cuối cuộc Nội chiến.
– Bức thư thứ ba, tới vợ: Tham gia vào cuộc vận động quyền dân sự. Bị đe dọa vì công việc của mình. Đau khổ với bí mật.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.