Lá bài thứ XII

CHƯƠNG 2



Geneva Settle đang chạy.

Chạy trốn. Giống như Charles Singleton.

Thở dốc. Như Charles.

Nhưng Geneva chắc chắn rằng mình chẳng có chút phẩm chất nào mà ông tổ của cô đã thể hiện trong cuộc trốn chạy cảnh sát một trăm bốn mươi năm về trước. Geneva khóc thổn thức, kêu cứu và trượt chân vào một bức tường trong cảm giác sợ hãi và đầy kích động, làm xước cả mu bàn tay.

Bên này nó chạy bên này, cái con nhỏ thó gầy trơ xương… Bắt lấy nó!

Ý nghĩ về cái thang máy làm cô khiếp sợ, cảm giác như bị sập bẫy. Bởi vậy cô đã chọn cầu thang thoát hiểm. Lao hết tốc lực đập thật mạnh vào cánh cửa, cô làm mình choáng váng, ánh sáng vàng chói lóa ập vào mắt, cô vẫn tiếp tục chạy. Geneva nhảy vọt từ chiếu nghỉ xuống đến tầng bốn, giật mạnh cái núm cửa. Nhưng đây là cửa an toàn và nó không mở được từ phía cầu thang. Cô sẽ phải dùng cửa ở tầng trệt.

Geneva lại tiếp tục chạy xuống, thở dốc. Tại sao?

Tại sao hắn lại săn đuổi mình? Cô tự hỏi.

Con chó cái nhỏ thó đen như bánh Oreo chẳng có thời gian cho lũ chúng ta đâu…

Khẩu súng… Đó là thứ khiến cô nghi ngờ. Geneva Settle chẳng phải thành viên một băng đảng du thủ du thực nào cả, nhưng chắc chắn là bạn sẽ không thể là một học sinh trường trung học Langston Hughes ở trung tâm Harlem này mà chưa từng nhìn thấy ít nhất một vài khẩu súng trong cuộc đời mình. Khi cô nghe thấy cái tiếng “cách” đặc trưng không lẫn vào đâu được – thực sự khác hẳn tiếng điện thoại gập lại – cô đã tự hỏi liệu có phải kẻ đang cười ấy chỉ đang giả vờ, đó sẽ là một rắc rối. Bởi vậy, cô đã đứng dậy như bình thường, uống một ngụm nước, sẵn sàng vùng chạy. Nhưng cô đã khẽ liếc trộm qua những chồng sách và thấy được chiếc mũ len trùm bịt mặt. Cô đã nhận ra rằng chẳng có cách nào để đi qua hắn tới cánh cửa trừ khi khiến hắn phải tập trung vào chiếc bàn máy đọc vi phim. Cô đã chồng những quyển sách với những tiếng động lớn rồi sau đó lột quần áo của một ma nơ canh gần đó, mặc cho nó chiếc mũ và chiếc áo len của mình, để nó ngồi dựa trên chiếc ghế trước bàn máy đọc vi phim. Rồi cô đợi, đến khi hắn lại gần, và cô khẽ trườn qua khi hắn ở đó.

Đánh nó một trận, đánh con chó cái…

Geneva giờ đây lại lao vào một cuộc trốn chạy khác.

Tiếng chân bước ở phía trên. Lạy Chúa Jesus, hắn đang đuổi theo! Hắn đã lao vào cầu thang phía sau cô và giờ đây thì chỉ cách cô có một chiếu nghỉ mà thôi. Nửa chạy, nửa bước, đôi chân loạng choạng, Geneva ôm chặt bàn tay trầy xước, hướng thật nhanh xuống cầu thang trong lúc tiếng bước chân của hắn mỗi lúc một gần hơn.

Ở gần tầng trệt cô nhảy vọt qua bốn bậc cầu thang xuống nền bê tông. Trượt chân ở dưới và cô lao sầm vào bức tường nham nhở. Co rúm lại vì đau, cô gái mới lớn cố gắng đứng dậy, lắng nghe tiếng chân của kẻ truy đuổi, nhìn thấy bóng hắn trên những bức tường.

Geneva nhìn về phía chiếc cửa thoát hiểm. Cô thở hổn hển, mồm há hốc khi nhìn thấy sợi xích quấn quanh thanh nắm cửa.

Không, không, không… Sợi xích ở cửa thoát hiểm là bất hợp pháp, chắc chắn là vậy. Nhưng điều đó không có nghĩa là những người quản lý bảo tàng sẽ không có một cánh cửa như vậy để ngăn ngừa những tên trộm. Hoặc có thể là chính cái gã đàn ông này đã quấn sợi xích vào đó, để phòng khi cô chạy trốn theo lối này. Và giờ cô ở đây, kẹt cứng trong cái cái hốc bê tông tăm tối này. Nhưng liệu sợi xích ấy đã thực sự khóa chặt cánh cửa hay không?

Chỉ có một cách duy nhất để tìm ra câu trả lời. Tiến lên nào, nhóc!

Geneva đẩy thật mạnh và đâm vào thanh nắm cửa.

Cánh cửa bung ra.

Ôi, cảm ơn…

Bỗng một âm thanh ầm ĩ chói vào tai cô, cơn đau gào rít trong tâm trí. Cô hét lên. Cô đã bị bắn vào đầu rồi ư? Nhưng cô nhận ra rằng đó chỉ là tiếng chuông báo động, nó đang gào ré lên giống như những đứa em họ sơ sinh nhỏ xíu của Keesh. Rồi cô đi vào hành lang, sập mạnh cánh cửa phía sau, tìm con đường tốt nhất để chạy trốn, bên phải, bên trái…

Đẩy nó, đánh nó đi, đánh chết con chó cái…

Cô chọn bên phải và loạng choạng chạy rẽ vào con phố 55, len vào dòng người đông đúc đang trên đường đi làm, kéo theo ánh nhìn ái ngại của một số người, và sự lo lắng của những người khác. Hầu hết họ lờ đi cô gái với vẻ mặt đầy phiền phức. Rồi, từ phía sau, cô nghe thấy tiếng rít của chuông báo động to dần lên khi kẻ tấn công đẩy cánh cửa một cách thô bạo. Hắn sẽ chuồn hay là tiếp tục theo đuổi cô?

Geneva chạy lên phố đến chỗ Keesh, cô gái đứng trên vỉa hè, tay đang giữ hộp cà phê Hy Lạp từ một cửa hàng bán đồ ăn sẵn và đang cố để châm điếu thuốc trong gió. Cô bạn cùng lớp với làn da màu cà phê mocha – với lớp trang điểm tỉ mỉ, nổi bật màu tím và những lọn tóc giả vàng óng – bằng tuổi Geneva, nhưng cái đầu thì tròn và dài hơn, lại thẳng trông như một cái trống, cô ấy tròn trịa ở những chỗ cần thiết, với bộ ngực to và vòng eo gợi cảm của những cô gái chơi hip hop, và một vài thứ khác nữa… Cô gái đã đứng đợi từ trước ở trên phố, chẳng có chút gì thích thú với cái bảo tàng – hay bất cứ một tòa nhà nào cả, bởi vì cái lý do: Quy định không hút thuốc.

“Gen!” Cô bạn ném cốc cà phê xuống đường và chạy tới. “Sao vậy? Làm gì mà nhìn sợ hãi vậy.”

“Gã đó…” Geneva thở dốc, cảm thấy buồn nôn. “Cái gã ở trong bảo tàng, hắn tấn công tớ.”

“Chết tiệt, không thể!” Lakeesha nhìn quanh. “Hắn ở đâu?”

“Tớ không biết. Hắn ở phía sau.”

“Bình tĩnh lại nào, nhóc. Rồi sẽ ổn thôi. Rời khỏi đây nào. Nhanh lên, chạy đi.” Cô gái to lớn – vượt xa tất cả những bạn khác trong giờ học thể chất và đã hút thuốc được hai năm – bắt đầu đi thật nhanh hết mức có thể, thở dốc và hai cánh tay vung vẩy ở hai bên.

Nhưng họ chỉ đi được nửa dãy phố trước khi Geneva bước chậm lại. Rồi cô dừng hẳn. “Khoan đã…”

“Cậu đang làm gì vậy, Gen?”

Nỗi sợ hãi đã biến mất. Thay vào đó là một cảm xúc hoàn toàn khác.

“Cố lên nào, nhóc.” Keesh nói, thở hổn hển. “Nhấc cái mông lên nào.”

Dù vậy, Geneva Settle đã quyết định. Nỗi tức giận chính là cảm xúc thay thế nỗi sợ hãi. Cô nghĩ: Hắn sẽ không bỏ cuộc như vậy. Cô gái quay lại, liếc nhanh trên rồi dưới con phố. Cuối cùng, cô đã thấy thứ mà mình đang kiếm tìm, ở gần phía cửa vào hành lang mà cô vừa chạy ra khỏi đó. Cô bắt đầu quay ngược lại phía ấy.

Cách bảo tàng Mỹ – Phi một dãy nhà, Thompson Boyd thôi không chạy xuyên qua dòng người đông đúc vội vã trong giờ cao điểm. Thompson có vóc dáng trung bình. Trên mọi khía cạnh. Một mái tóc hơi nâu, cân nặng trung bình, chiều cao trung bình, khuôn mặt đẹp trung bình, ưa nhìn, trông khá khỏe mạnh. (Khi ở trong tù, hắn được biết đến với biệt danh là Joe Trung bình.) Mọi người thường có xu hướng nhìn thấy ngay điều đó ở hắn.

Nhưng một người đàn ông chạy qua những con phố trung tâm Midtown sẽ thu hút sự chú ý của mọi người trừ khi anh ta đang vội vã trên đường tới điểm dừng xe buýt, một chiếc taxi hay tới nhà ga. Bởi vậy, hắn trở về với nhịp độ bình thường chậm rãi. Nhanh chóng biến mất vào đám đông, chẳng một ai để tâm đến.

Khi đèn ở Đại lộ 6 và phố 53 vẫn còn đỏ, hắn do dự. Thompson đã quyết định. Hắn luồn chiếc áo mưa và vắt nó lên cánh tay, dù thế, vẫn bảo đảm rằng những vũ khí hắn mang theo vẫn ở trong tầm với. Hắn quay ngược lại và bắt đầu hướng về phía bảo tàng.

Thompson Boyd là một kẻ chuyên nghiệp, luôn làm mọi thứ theo sách vở, có vẻ như là cái điều hắn đang làm lúc này – quay trở lại hiện trường vụ tấn công bất thành – không phải là một ý nghĩ thông minh cho lắm, bởi chẳng có gì phải nghi ngờ là cảnh sát sẽ sớm có mặt ở đó.

Nhưng hắn cũng đã biết rằng chính những lần như thế này, với cảnh sát ở xung quanh, thì cũng là lúc mà mọi người cảm thấy an tâm nhất và mất đi cảnh giác, bị ru vào sự bất cẩn. Đó thậm chí là lúc ta có thể tiếp cận họ gần hơn bất cứ lúc nào khác. Người đàn ông với vóc dáng trung bình lúc này thong dong bước qua những đám đông và hướng tới bảo tàng, như một khách bộ hành, Joe Trung bình trên đường tới công sở.

Nó chẳng gì hơn một phép màu.

Ở đâu đó trong não bộ và cơ thể, một sự kích thích, cả về thể xác lẫn tinh thần, xuất hiện, tôi muốn nhặt cái cốc lên, tôi phải thả cái chảo đang nóng bỏng rẫy những ngón tay tôi. Sự kích thích ấy tạo ra một thôi thúc thần kinh, chạy dọc theo màng các tế bào thần kinh trên khắp cơ thể. Không như hầu hết mọi người vẫn nghĩ, sự thôi thúc ấy không phải đơn thuần là các tín hiệu điện, đó là một con sóng được tạo ra khi bề mặt của các tế bào thần kinh di chuyển cục bộ từ cảm xúc tích cực sang trạng thái tiêu cực. Sức mạnh của sự thôi thúc này không bao giờ khác – nó vừa tồn tại vừa không – và nó di chuyển nhanh, hai trăm năm mươi dặm một giờ.

Sự thôi thúc ấy đi đến đích của nó – các cơ bắp, các tuyến và các cơ quan, rồi sau đó phản hồi lại, giữ cho trái tim của chúng ta đập, phổi thì phập phồng, cơ thể thì nhảy múa, bàn tay trồng những bông hoa, viết những lá thư tình và điều khiển những con tàu vũ trụ.

Một phép màu.

Trừ khi có một cái gì đó không ổn. Nói như là, trừ khi bạn là chỉ huy của một đơn vị Khám nghiệm hiện trường, truy tìm hiện trường vụ giết người ở một điểm xây dựng đường tàu điện ngầm, và một thanh xà sụp xuống vào cổ, đánh gãy đốt sống cổ số bốn – nghĩa là có bốn cái xương bị đánh sập ở vị trí xương nền sọ. Đó là điều đã xảy ra với Lincoln Rhyme vài năm trước.

Khi một việc kiểu như vậy xảy ra, tất cả mọi thứ sẽ sụp đổ.

Kể cả nếu như cú đánh không phá hủy hoàn toàn thần kinh tủy sống, máu chảy lênh láng, áp lực tăng lên và dồn ứ, làm chết đói những tế bào thần kinh. Tất cả hợp lại tạo thành sự phá hủy, khi những neuron thần kinh chết – vì một lý do nào đó không biết được – nó tiết ra một axit amino độc, thậm chí còn giết nhiều neuron thần kinh hơn nữa. Cuối cùng, nếu như nạn nhân còn sống sót, mô sẹo sẽ lấp đầy chỗ trống quanh các dây thần kinh trông như là cát bụi phủ đầy trong một nấm mồ – một phép ẩn dụ phù hợp hoàn cảnh, khác với các tế bào thần kinh còn lại trong cơ thể, bởi những neuron thần kinh ở não và trong tủy sống sẽ không tái sản xuất nữa. Một khi đã chết, chúng sẽ đông cứng mãi mãi.

Trải qua những “tai nạn kinh hoàng” như vậy, cách mà những y bác sĩ rất tế nhị gọi một số bệnh nhân, chỉ những người may mắn, nhận ra rằng các neuron thần kinh làm nhiệm vụ kiểm soát, chi phối các cơ quan, bộ phận thiết yếu cần cho sự sống như tim, phổi còn tiếp tục hoạt động, và họ còn sống.

Hoặc có thể họ nằm trong số những người kém may mắn.

Bởi vì có nhiều người mong ước rằng thà trái tim của họ ngừng đập và sớm lạnh giá, giải thoát họ khỏi những căn bệnh nhiễm trùng, những vết lở loét và co cứng cơ. Cũng là giải thoát họ khỏi sự tấn công của bệnh mất phản xạ tự động mà nó có thể dẫn đến đột quỵ. Giải thoát họ khỏi những cơn đau rải rác, kỳ lạ vô hình và không có thật, mà cảm giác thì rất thật nhưng chủ nhân của những cơn đau giằng xé ấy lại không thể bị tê liệt bởi aspirin hay morphine.

Đó là còn chưa kể đến một sự thay đổi cuộc sống hoàn toàn: Các chuyên gia vật lý trị liệu, những người giúp việc rồi cả quạt gió và những chiếc ống thông tiểu, tã lót dành cho người lớn, sự phụ thuộc… Tất nhiên là cả sự tuyệt vọng chán nản…

Một số người rơi vào những hoàn cảnh kiểu như thế này chỉ biết từ bỏ và tìm đến cái chết. Tự tử luôn là một lựa chọn, dù cho không hề dễ dàng chút nào. (Thử cố tự tử xem nếu tất cả những gì bạn có thể làm được chỉ là nhúc nhích cái đầu của mình.)

Nhưng có những người khác thì sẽ chiến đấu lại.

“Đủ chưa?”, người đàn ông trẻ mảnh khảnh trong chiếc áo sơ mi trắng lùng thùng và chiếc cà vạt hoa đỏ như rượu vang nói với Rhyme.

“Chưa.” Ông chủ của anh ta trả lời không ra hơi vì bài luyện tập. “Tôi muốn tiếp tục.” Rhyme đang gắn chặt trên một chiếc máy tập xe đạp phức tạp, ở một trong những phòng ngủ dư ra trên tầng hai của ngôi nhà nằm ở khu phía tây Central Park.

Tôi nghĩ rằng anh đã tập đủ rồi đấy”, Thom – phụ tá của anh ta nói. “Đã được hơn một tiếng. Nhịp tim của anh khá cao rồi.”

“Đây chỉ giống như là đạp xe lên ngọn Matterhom mà thôi”, Rhyme thở dốc. “Tôi là Lance Armstrong.”

“Ngọn Matterhom không phải là một chặng của cuộc đua Tour de France. Đó là một ngọn núi. Anh có thể leo lên ngọn núi, nhưng không phải là đạp xe lên ngọn núi ấy.”

“Cảm ơn vì cái điều tầm phào trên kênh ESPN của cậu, Thom. Tôi nói như vậy không có nghĩa là đúng như vậy. Tôi đã đi được bao xa rồi?”

“Hai mươi hai dặm.”

“Thêm mười tám dặm nữa.”

“Tôi không đồng ý. Năm thôi.”

“Tám nhé.” Rhyme kỳ kèo.

Người phụ tá trẻ đẹp trai khẽ nhíu đôi lông mày với vẻ chịu thua. “Vâng, được rồi.”

Dù thế nào thì Rhyme cũng muốn thêm tám dặm nữa. Anh rất phấn chấn. Anh sống là để chiến thắng.

Vòng quay lại tiếp tục. Những cơ bắp của anh truyền sức mạnh sang chiếc xe đạp, vâng, nhưng có một sự khác biệt lớn giữa cử động này và việc làm sao bạn có thể đạp một chiếc xe tập ở phòng tập Gold’s Gym. Cái nguồn lực thôi thúc chuyển những xung động dọc suốt các neuron thần kinh không phải đến từ não của Rhyme mà lại là từ một chiếc máy tính, thông qua các điện cực kết nối với các cơ bắp ở chân. Thiết bị này được gọi là chiếc xe đạp kích thích điện chức năng FES. Chiếc máy giả lập chức năng tín hiệu điện này sử dụng một máy tính, các dây điện và các điện cực để bắt chước hệ thống thần kinh và chuyển các xung điện nhỏ tới các cơ bắp, khiến chúng cử động chính xác như được điều khiển bằng não bộ.

FES không được sử dụng nhiều cho hoạt động hằng ngày, như đi bộ hay sử dụng các dụng cụ. Lợi ích thực tế của nó là về mặt liệu pháp chữa bệnh, cải thiện sức khỏe của những bệnh nhân bị mất chức năng nặng.

Động lực khuyến khích Rhyme bắt đầu các bài tập là từ một người mà anh vô cùng ngưỡng mộ, diễn viên quá cố Christopher Reeve, người đã chịu đựng chấn thương còn khủng khiếp hơn do một tai nạn khi đang cưỡi ngựa. Bằng sức mạnh ý chí và những nỗ lực thể xác không mệt mỏi – và khiến cộng đồng y học truyền thống phải kinh ngạc – Reeve đã hồi phục một vài cử động và cảm giác ở những nơi mà ông không hề có cảm giác hay cử động trước đó. Sau hằng năm trời giằng xé suy nghĩ về việc thực hiện ca phẫu thuật thí nghiệm đầy mạo hiểm vào tủy sống, Rhyme đã lựa chọn chế độ luyện tập tương tự cách của Reeve.

Sự ra đi sớm của người diễn viên đã thôi thúc Rhyme thậm chí còn dành nhiều tâm sức hơn trước đây vào kế hoạch luyện tập, và Thom đã phải lần tìm một trong những bác sĩ về chấn thương tủy sống tốt nhất ở khu vực East Coast, Robert Sherman. Vị bác sĩ đã đưa vào cả một chương trình luyện tập cho anh, bao gồm cả cơ công kế, liệu pháp vận động dưới nước và máy huấn luyện vận động guồng quay – một thiết bị phức tạp lớn, được ráp những chiếc chân robot, đồng thời cũng được điều khiển bởi một máy tính. Trên thực tế, hệ thống này cử động và làm chuyển động chân của Rhyme.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.