Lá bài thứ XII

CHƯƠNG 21



Với sự tiếp viện của đội ESU, hai cảnh sát đến từ đơn vị Phòng chống bom mìn từ Khu số 6 đang cúi rạp người ở ghế sau chiếc Crown Victoria của Bell. Họ không mặc áo giáp chống bom mà mặc những bộ đồ chống vũ khí sinh học kín mít từ đầu đến chân.

Mặc bộ áo mỏng hơn và màu trắng, Amelia Sachs đứng ở phía sau khoảng chín mét.

“Tình hình sao rồi, Sachs?” Rhyme gọi vào trong điện đàm. Cô nhảy dựng lên vì giật mình. Rồi vặn tiếng nhỏ xuống. Dây nối từ điện đàm của cô đã được lắp vào mặt nạ chống khí độc.

“Em chưa đến gần lắm để thấy; họ vẫn đang tháo thiết bị đó ra. Nó là cyanide và acid.”

“Nhiều khả năng đó là sulfuric chúng ta thấy ở các dấu vết trên bàn làm việc của hắn.” Anh nói.

Thật chậm, đội tháo dỡ bom mìn lấy thiết bị chết người ấy ra. Họ bọc kín các bộ phận bằng những hộp chứa chống độc đặc biệt.

Một tiếng nói khác xen vào – từ một trong những sĩ quan đội phòng chống bom mìn: “Thám tử Sachs, chúng tôi đã vô hiệu hóa nó. Cô có thể khám nghiệm chiếc xe nếu cô muốn. Nhưng vẫn phải đeo mặt nạ chống độc. Không có khí độc thoát ra nhưng hơi acid bốc lên có thể nguy hiểm”.

“Đúng vậy, cảm ơn anh.” Cô bắt đầu bước tới.

Tiếng Rhyme lại vang lên. “Khoan đã…”

Rồi anh quay lại. “Họ an toàn, Sachs. Họ đang ở đơn vị rồi.”

“Họ” chính là những nạn nhân của chất độc bỏ lại trong chiếc Crown Victoria hướng tới, Roland Bell và Geneva Settle. Họ đã rất gần với cái chết. Nhưng, khi chuẩn bị lao thật nhanh từ tòa nhà của người bà cô Geneva tới chiếc xe, Bell rằng có điều gì đó bất thường ở hiện trường vụ tấn công Pulaski. Barbe Lynch tìm thấy cậu ta cầm khẩu súng trong tay mình. Nhưng nghi phạm này lại thừa ranh mãnh để bỏ lại khẩu súng trong tay một cảnh sát đang gục xuống, ngay cả khi anh ta đã bất tỉnh. Không, ít nhất hắn phải ném nó đi, nếu hắn không muốn mang nó theo. Bell đã kết luận rằng bằng cách nào đó, hung thủ đã tự nổ súng và để khẩu súng lại khiến họ nghĩ rằng chàng cảnh sát trẻ đã bóp cò. Mục đích? Để lôi kéo các cảnh sát ra khỏi phía trước tòa nhà.

Và tại sao? Câu trả lời rất rõ ràng: Để họ bỏ mặc những chiếc xe không ai bảo vệ.

Chiếc Crown Vic không bị khóa, có nghĩa là hung thủ có thể đã nhét vào đó một thiết bị nổ. Bởi vậy anh đã lấy chìa khóa tới chiếc Chevy mà Martinez và Lynch đã lái tới đây và dùng phương tiện này để đưa Geneva thật nhanh ra khỏi khu vực nguy hiểm, cảnh báo tất cả mọi người tránh xa chiếc Ford cho tới khi Đội phá bom mìn làm việc với nó. Sử dụng một camera có sợi cáp quang họ dò tìm bên dưới và bên trong chiếc Crown Vic, cuối cùng tìm ra thiết bị ấy ở dưới ghế lái.

Sachs giờ đang khám nghiệm khu vực hiện trường: chiếc xe, đường tiếp cận nó và con hẻm nơi Pulaski bị tấn công. Cô không tìm thấy gì nhiều hơn ngoài dấu giày Bass, mà đó là dấu vết xác nhận rõ hung thủ chính là Nghi phạm 109, và một thiết bị khác, một thiết bị tự tạo: viên đạn từ khẩu súng tự động mà Pulaski được trang bị đã được buộc vào một điếu thuốc cháy dở. Hung thủ đã để nó cháy trong con hẻm và chuồn ra phía trước tòa nhà. Khi nó kích nổ viên đạn, “tiếng súng” sẽ thu hút các cảnh sát về phía sau, tạo cho hắn cơ hội cài đặt thiết bị vào chiếc xe của Bell.

Khốn kiếp thật, hắn thật là thông minh, cô nhủ trong đầu với một sự ngưỡng mộ.

Không có dấu hiệu nào cho thấy bạn đồng hành của hắn, gã da đen với chiếc áo khoác dã chiến, đã – hoặc vẫn – ở gần đó.

Đeo chiếc mặt nạ vào một lần nữa, cô kiểm tra thật cẩn thận phần làm bằng kính của thiết bị độc, nhưng không thu lại được dấu vân tay hay bằng chứng nào, điều này cũng không khiến mọi người ngạc nhiên. Có thể chất cyanide hoặc acid sẽ cho họ biết điều gì đó. Thất vọng, cô báo các kết quả cho Rhyme.

Anh hỏi: “Vậy em tìm những cái gì rồi?”.

“Ừm, chiếc xe và con hẻm quanh Pulaski. Lối vào và các đường thoát khỏi con hẻm, con phố hắn tiếp cận chiếc Crown Vic – cả hai hướng.”

Im lặng một lúc khi Rhyme đang suy nghĩ.

Cô cảm thấy nặng nề, không thoải mái. Liệu cô có bỏ qua điều gì đó không? “Anh đang nghĩ gì, Rhyme?”

“Em hãy tìm theo quyển sách, Sachs. Đó là những nơi chính xác cần làm. Nhưng em đã thực hiện trên tổng thể hiện trường chưa?”

“Chương II quyển sách của anh?”

“Tốt lắm. Ít nhất cũng có ai đó đọc nó. Nhưng em đã làm theo những gì anh nói chưa?”

Mặc dù thời gian vẫn luôn là vàng là bạc, là điều cốt yếu khi khám nghiệm một hiện trường, một trong những phương pháp Rhyme gắn chặt là dành ra vài phút để bao quát toàn bộ hiện trường dựa trên từng vụ án cụ thể. Ví dụ mà anh trích ra trong quyển sách khoa học pháp y là một vụ giết người có thật ở làng Greenwich. Hiện trường chính ban đầu là nơi nạn nhân bị chết ngạt được tìm thấy, ở căn hộ của anh ta. Hiện trường thứ hai là lối thoát hiểm mà hung thủ sử dụng để tháo chạy. Dù vậy, vẫn có hiện trường thứ ba, mà nó chả có vẻ gì là một hiện trường cả, Rhyme đã tìm thấy ở đó các que diêm có dấu vân tay của hung thủ: một quán bar đồng tính cách ba dãy nhà. Không một ai có thể hoặc sẽ nghĩ đến việc tìm dấu vết ở một quán bar, ngoại trừ điều đó thì Rhyme đã tìm thấy các cuộn băng sex đồng tính ở nhà nạn nhân; một cuộc điều tra quán bar đồng tính gần nhất đã tìm ra một nhân viên phục vụ có thể nhận dạng nạn nhân và nhớ ra rằng anh ta đã uống rượu với một người đàn ông vào thời điểm trước khi xảy ra vụ án. Phòng thí nghiệm đã làm hiện lên những dấu vết ẩn trên hộp diêm bỏ lại gần chỗ họ ngồi trong quầy bar, những dấu vân tay đưa họ tới kẻ giết người.

“Tiếp tục suy nghĩ đi, Sachs. Hắn lập nên kế hoạch này – mới chỉ nảy ra khi hắn ở đó nhưng rất tỉ mỉ và công phu – để đánh lạc hướng chú ý người của ta và đặt thiết bị đó vào trong chiếc xe. Điều đó có nghĩa là hắn phải biết rõ vị trí tất cả những người tham gia, biết họ đang làm gì và làm thế nào hắn có thể tạo ra đủ thời gian để cài đặt thiết bị đó. Nó cho ta biết điều gì?”

Sachs đang kiểm tra xung quanh khu phố. “Hắn quan sát tất cả.”

“Đúng thế, quả thật là vậy, Sachs. Tốt lắm. Và liệu hắn có thể quan sát từ vị trí nào được?”

“Ở bên kia con phố là nơi có tầm quan sát tốt nhất. Nhưng có hàng tá tòa nhà mà hắn có thể đã ở đó. Em không biết được là cái nào.”

“Đúng thế. Nhưng khu lân cận là Harlem, đúng không?”

“Em…”

“Có hiểu anh đang nói gì không?”

“Không hoàn toàn hiểu…”

“Các gia đình, Sachs. Các gia đình sống ở đó, các gia đình nhiều đời, nhiều con cháu chung sống cùng nhau, chứ không phải là những gã nhà giàu mới nổi sống một mình. Xâm nhập vào một ngôi nhà không thể không bị để ý. Cũng giống như chẳng thể có một kẻ nào có thể lẩn trốn vào các hành lang hay các con hẻm. Đó là một từ hay đấy, đúng không? Lẩn trốn. Tất cả là thế.”

“Vậy mấu chốt là gì, Rhyme?” Tâm trạng tốt của anh đã quay lại nhưng cô thực sự phát cáu bởi anh thích thú với câu đố của vụ án hơn cơ hội sống còn để hồi phục của Pulaski hay việc Roland Bell và Geneva Settle đã gần như bị giết chết.

“Không phải một căn hộ. Không phải từ một mái nhà – người của Roland luôn luôn quan sát chỗ đó. Hẳn phải có một nơi nào khác để đứng và quan sát, Sachs. Em nghĩ xem liệu đó có thể là chỗ nào?”

Nhìn dọc khu phố một lần nữa… “Có những tấm biển quảng cáo ở một tòa nhà bị bỏ hoang. Nó đầy những hình vẽ graffiti và những tờ rơi – anh biết đấy, đúng là thật khó để mà phát hiện ra một ai đó đang nhìn lén từ đằng sau nó. Em sẽ đi xem sao.”

Kiểm tra thật cẩn thận dấu hiệu chứng tỏ nghi phạm có thể còn ở quanh đó và không thấy gì khả nghi, cô băng qua phố và bước tới phía sau của tòa nhà cũ kỹ – một cửa hàng bị cháy, có vẻ là thế. Trèo vào qua cửa sổ phía sau, cô nhận thấy sàn nhà đầy bụi – một bề mặt hoàn hảo cho các dấu chân, và đủ để chắc chắn, cô nhận ra dấu giày của Nghi phạm 109 ngay lập tức. Cô vẫn choàng các sợi dây chun quanh phần chân của bộ Tyvek – một thủ thuật mà Rhyme nghĩ ra để bảo đảm rằng một sĩ quan cảnh sát khi khám xét một hiện trường không bị nhầm lẫn dấu vết của mình với của hung thủ. Nữ thanh tra bắt đầu bước vào căn phòng, khẩu Glock trong tay.

Đi theo dấu giày của hung thủ tới phía trước, cô dừng lại từng chút một, lắng nghe các tiếng động. Sachs nghe thấy một hay hai tiếng chân sột soạt nhưng không có gì lạ hơn ngoài âm thanh của một New York với mặt trái của nó, cô nhận ra ngay tức khắc kẻ xâm nhập là một con chuột.

Cô nhìn ra phía trước qua khoảng trống giữa các tấm gỗ dán của cái bảng quảng cáo nơi hắn ta đứng và nhận ra rằng, đúng thế, vị trí này mang đến tầm quan sát con phố một cách hoàn hảo. Cô thu lượm một vài thiết bị pháp y cơ bản rồi quay lại và dùng tia cực tím chiếu vào bức tường. Sachs quay cái que chiếu ánh sáng chuyên dụng để nổi dấu tay vào đó.

Nhưng những dấu vết duy nhất mà cô tìm ra là dấu găng tay cao su.

Cô nói với Rhyme những gì vừa tìm thấy rồi nói: “Em sẽ thu một vài dấu vết nơi hắn đứng nhưng không thấy gì nhiều. Hắn chẳng để lại một thứ gì cả

“Quá chuyên nghiệp”, Rhyme nói, thở dài. “Cứ mỗi lần chúng ta lột được âm mưu của hắn, thì hắn cũng vượt qua được tính toán của ta. Chà, mang về những gì em thu được, Sachs. Chúng ta sẽ xem xét nó.”

Trong khi họ chờ đợi Sachs frở về, Rhyme và Sellito đưa ra một quyết định: Trong khi mọi người đều tin rằng Nghi phạm 109 đã chuồn khỏi khu vực xung quanh tòa nhà, họ vẫn sắp xếp để cho bà cô của Geneva, Lilly Hall và bạn của bà chuyển tới khách sạn một thời gian.

Với Pulaski, cậu ta đang trong giai đoạn hồi sức cấp cứu, vẫn bất tỉnh sau khi bị hạ gục. Các bác sĩ không thể nói được liệu cậu ta có thể sống sót hay không. Trong phòng thí nghiệm của Rhyme, Sellito đóng chiếc điện thoại một cách đầy giận dữ khi nhận được tin: “Cậu ta là một tay lính mới ngu ngốc. Tôi đã thật sai lầm khi chọn cậu ta vào đội của Bell. Đáng lẽ tôi phải đi mới đúng”.

Nói ra điều đó thật lạ lùng. “Lon”, Rhyme hỏi: “Anh có quân hàm. Anh tốt nghiệp chuyên ngành bảo vệ, khi nào? Hai mươi năm trước?”.

Nhưng điều đó không an ủi viên cảnh sát to lớn chút nào. “Đưa cậu ta vào vị trí quá với khả năng. Tôi thật ngu ngốc. Chúa ơi.”

Một lần nữa bàn tay anh ta lại mài vào cái điểm trên má. Ngày hôm nay viên thanh tra cáu kỉnh và nhìn đặc biệt nhàu nhĩ. Cách ăn vận thường nhật: áo màu sáng với quần màu tối. Dù vậy, Rhyme tự hỏi, liệu có phải đây là bộ quần áo mà anh ta mặc ngày hôm qua không. Có vẻ là thế. Đúng vậy, có một vết máu từ vụ bắn súng ở thư viện trên tay chiếc áo khoác – như thể anh ta mặc bộ quần áo như một sự hối lỗi.

Tiếng chuông cửa reo lên.

Thom quay lại một khắc sau đó với một người đàn ông gầy cao lêu nghêu. Da xanh nhợt, hình dáng xấu xí, mái tóc xoăn tít màu nâu và bộ râu lởm chởm. Anh ta mặc một chiếc áo khoác bằng nhung kẻ màu nâu nhạt và quần màu nâu đậm. Đôi xăng đan hiệu Brikenstock.

Đôi mắt ông ta quét quanh phòng thí nghiệm rồi nhìn Rhyme đầy dò xét. Không nhếch mép cười, anh ta hỏi: “Geneva Settle có ở đây không?”

“Ông là ai?” Sellito nói.

“Tôi là Wesley Goades.”

À, Kẻ hủy diệt hợp pháp[6] – không phải là nhân vật hư cấu, Rhyme có một chút ngạc nhiên khi biết. Sellito kiểm tra chứng minh thư của ông ta và gật đầu.

[6] Nguyên văn: legal terminator (cách chơi chữ của tác giả ở đây, liên quan đến phần đầu câu chuyện).

Những ngón tay dài của người đàn ông chỉnh chiếc kính gọng có dây dày cộp hoặc giật bộ râu dài của ông ta một cách vô thức và không bao giờ nhìn vào mắt một ai đó quá nửa giây.

Sự bồn chồn lo lắng đập vào mắt liên tục khiến Rhyme nhớ tới người bạn của Geneva, Lakeesha Scotta với cái miệng nhai kẹo cao su chóp chép.

Ông ta đưa tấm danh thiếp cho Thom, rồi anh đưa cho Rhyme nhìn. Goades là giám đốc của Tập đoàn Dịch vụ Pháp lý Trung tâm Harlem và được sát nhập với Liên minh tự do dân sự Hoa Kỳ. Con dấu đóng ở dưới cho thấy ông ta được cấp phép hành nghề về luật ở tiểu bang New York, các tòa án liên bang cấp quận ở New York và Washington D.C., và trước Tòa án Tối cao Mỹ.

Có lẽ những ngày đại diện cho các công ty bảo hiểm tư bản đã khiến ông ta thay đổi sang hướng khác.

Đáp lại cái nhìn đầy thắc mắc từ Rhyme và Sellito, ông ta nói: “Tôi đã không có mặt ở thành phố thời gian qua. Tôi nhận được tin Geneva gọi đến văn phòng của mình ngày hôm qua. Điều gì đó về việc cô bé là một nhân chứng. Tôi chỉ muốn xem cô bé thế nào rồi”.

“Cô bé vẫn ổn”, Rhyme nói. “Có kẻ cố gắng sát hại cô bé nhưng chúng tôi đã bảo vệ cô bé mọi lúc mọi nơi.”

“Cô bé đang bị giữ ở đây? Trái với ý muốn của cô ấy?”

“Không phải là bị giữ, không hề”, nhà tội phạm học nói một cách quả quyết. “Cô bé đang ở nhà mình.”

“Cùng với bố mẹ cô ấy?”

“Một người bác.”

“Tất cả điều này là gì?” Viên luật sư không có nụ cười hỏi, ánh mắt ông ta liếc từ khuôn mặt này sang khuôn mặt khác, nhìn vào các tấm bảng bằng chứng, các thiết bị, các sợi dây.

Rhyme, luôn luôn, do dự trong việc nói chuyện về một vụ án đang điều tra với một người lạ, nhưng viên luật sư có thể sẽ có vài thông tin hữu ích. “Chúng tôi cho rằng có kẻ nào đó lo lắng về điều mà Geneva đang nghiên cứu cho bài tập ở trường, về một người tổ tiên của cô bé. Cô ấy có nói gì với ông trước đây không?”

“À, điều gì đó về người cựu nô lệ?”

“Chính xác.”

“Đó là lý do tôi đã gặp cô bé. Cô bé tới văn phòng của tôi tuần trước và hỏi tôi có biết ở đâu có các tài liệu ghi chép về các vụ án cũ trong thành phố – quay ngược lại vào khoảng những năm 1800. Tôi đã cho cô bé nhìn qua một vài quyển sách cũ mình có, nhưng đúng là không thể nào tìm ra các ghi chép về các phiên tòa sơ thẩm lâu đến thế. Tôi không giúp gì được cả.” Người đàn ông cao gầy nhướng lông mày nói. “Cô bé muốn trả công cho tôi vì đã mất thời gian của mình. Phần lớn khách hàng của tôi lại không làm như vậy.”

Đảo mắt quan sát căn phòng một vòng nữa, Goades có vẻ như đã hoàn toàn yên tâm rằng tình hình đúng là có vẻ như vậy. “Các anh đã gần tóm được gã đó chưa?”

“Chúng tôi có một chút manh mối”, Rhyme nói một cách lấp lửng.

“Chà, nói với cô bé là tôi ghé qua, được chứ? Và nếu như cô bé cần bất cứ điều gì, bất cứ lúc nào, hãy để cô ấy gọi điện cho tôi.” Ông ta hất đầu về phía tấm danh thiếp của mình rồi đi ra.

Mel Cooper cười khoái trí. “Cá một trăm đô là ông ta đã từng đại diện cho một con cú đốm trong thời gian hành nghề của mình.”

“Chẳng ai cá điều đó cả.” Rhyme lẩm bẩm. “Và chúng ta sẽ làm gì cho xứng với sự xao nhãng này? Quay lại với công việc nào. Làm việc thôi.”

Hai mươi phút sau, Bell và Geneva đến với một chiếc hộp đựng tài liệu và các đồ vật khác từ căn hộ của bà Lilly, thứ mà viên cảnh sát tuần tra đã mang đến cho họ từ ngôi nhà ngoại ô.

Rhyme nói với cô bé rằng Wesley Goades đã ghé qua.

“Để xem cháu thế nào phải không? Cháu đã nói với chú rằng ông ấy là người tốt. Nếu cháu có ý định kiện một ai đó thì cháu sẽ thuê ông ấy.”

Luật sư của Sự hủy diệt hàng loạt…

Amelia Sachs bước vào trong với các bằng chứng thu được ở hiện trường, gật đầu chào Geneva và những người khác.

“Xem chúng ta có gì nào”, Rhyme nói đầy hào hứng.

Điếu thuốc mà Nghi phạm 109 sử dụng như ngòi kích nổ cho “phát đạn” là hiệu Merit, khá phổ biến và không có dấu vết lần theo. Điếu thuốc được châm nhưng không được hút – hoặc là ít nhất họ cũng không thể phát hiện dấu răng hay nước bọt trên đầu lọc. Điều này có nghĩa là hắn không phải là một người hay hút thuốc, gần như chắc chắn là thế. Tất nhiên, không một dấu tay trên điếu thuốc. Cũng như vậy, chẳng có gì là nổi bật về sợi dây cao su mà hắn dùng để buộc chặt điếu thuốc vào viên đạn. Họ không tìm thấy dấu công ty sản xuất chất cyanide. Acid thì có thể mua được ở rất nhiều địa điểm. Vật được dùng để trộn acid và chất độc ở trong xe của Bell được làm từ những đồ vật trong nhà: một cái chai thủy những tấm lá bằng kim loại và một chiếc đế nến bằng thủy tinh. Chẳng thứ nào có dấu vết hay một thứ gì để có thể lần ra một địa điểm riêng biệt.

Trong tòa nhà bị bỏ hoang mà tên sát thủ dùng để quan sát, Sachs đã tìm ra thêm những dấu vết của cái chất lỏng huyền bí mà cô lấy được từ ngôi nhà ẩn nấp trên phố Elizabeth (chính là chất lỏng mà những phân tích của FBI vẫn đang khiến Rhyme mất hết cả kiên nhẫn chờ đợi). Hơn nữa, cô đã thu được một vài mảng màu cam nhỏ li ti từ nền của các tấm biển báo chỉ đường hoặc biển cảnh báo của các công trình tháo dỡ hoặc xây dựng. Sachs chắc chắn đó là từ nghi phạm bởi cô đã tìm thấy các mảng này ở hai vị trí khác nhau, ngay cạnh các dấu chân của hắn, và không ở đâu khác ngoài cái cửa hàng bị bỏ hoang đó. Rhyme suy đoán rằng nghi phạm có thể đã giả dạng thành một công nhân làm đường cao tốc, công nhân xây dựng hay các công trình công cộng. Hoặc có thể đó chính là công việc thực sự của hắn.

Trong khi đó, Sachs và Geneva xem xét chiếc thùng đựng kỉ vật của gia đình từ căn hộ của người bà cô. Nó đựng hàng đống sách cũ và các tạp chí, giấy tờ, mẩu báo được cắt ra, các tờ ghi chú, công thức, đồ lưu niệm và các tấm bưu thiếp.

Và, nó cho thấy, một lá thư đã ngả vàng lấp đầy những dòng chữ viết tay đặc biệt của Charles Singleton. Tuy nhiên, cách hành văn trên tờ giấy này ít tao nhã hơn nhiều so với những bức thư khác của ông.

Có thể hiểu được, tùy vào tình huống.

Sachs đọc nó thật to.

Ngày 15 tháng 7 năm 1868.

“Sau ngày xảy ra vụ trộm ở Quỹ Nô lệ tự do”, Rhyme chỉ ra. “Tiếp tục đi.”

Violet – Thật điên khùng biết bao! Anh đã gần như có thể nhận thấy được, những sự kiện này là một kế hoạch nhằm làm mất uy tín của anh, để làm anh xấu hổ trước những người bạn và trước những người lính danh dự trong cuộc chiến tự do.

Ngày hôm nay anh đã biết được nơi mình có thể tìm thấy công lý. Tối nay, anh đi tới Potter’s Field, mang theo khẩu Navy Colt của mình. Nhưng những nỗ lực của anh kết thúc bằng thảm họa, và hi vọng duy nhất của anh giờ đây nằm im mãi mãi bên dưới những lớp đất.

Anh mất cả đêm chạy trốn những người cảnh sát – họ giờ đang truy lùng anh khắp nơi – rồi sẽ lẻn tới New Jersey vào buổi sáng. Em và con trai của chúng ta cũng phải chạy trốn; anh sợ họ cũng sẽ tìm cách trả thù em và con. Ngày mai vào buổi trưa, gặp anh tại chỗ John Stevens Pier ở New Jersey. Cùng với nhau, chúng ta sẽ làm lại ở Pennsylvania, nếu em gái em và chồng của nó đồng ý cưu mang chúng ta.

Có một người đàn ông trong tòa nhà sống ở trên cái chuồng ngựa mà anh đang trốn lúc này, và có vẻ như động lòng với hoàn cảnh khốn khổ của anh. Ông ấy đã bảo đảm với anh rằng sẽ đưa em lá thư này.

Sachs nhìn lên. “Có gì đó bị gạch ở đây. Em không thể đọc nổi.” Rồi cô tiếp tục:

Trời tối lắm rồi. Anh rất đói và mệt, trắc trở như Job[7] vậy. Và dòng nước mắt của anh – những vệt mà em thấy trên lá thư này, em yêu ạ – không phải là từ nỗi đau mà từ sự hối tiếc vì bi kịch mà anh đã mang lại cho chúng ta. Tất cả chỉ vì cái bí mật… của anh! Giá mà anh đã hét lên sự thật từ nóc tòa thị chính thành phố, có lẽ những sự kiện đầy nỗi đau này sẽ không xảy ra. Giờ thì đã quá muộn cho sự thật rồi. Xin hãy tha thứ cho sự ích kỷ của anh, và sự hủy hoại bắt nguồn từ những dối trá mà anh đã tạo ra.

[7] Một nhân vật trong Kinh thánh, gặp phải rất nhiều chông gai thử thách từ Chúa trong cuộc sống.

Sachs nhìn lên. “Ông ấy ký mỗi chữ Charles.”

Rhyme nhớ lại, buổi sáng ngày hôm sau cuộc săn đuổi ông ấy được tường thuật lại trong tờ tạp chí mà Geneva đọc khi cô bé bị tấn công.

“Hi vọng duy nhất của ông ấy?”; “Nằm sâu bên dưới lớp đất sét và đất”. Rhyme nhìn bức thư một lần nữa, Sachs giơ nó lên cho anh. “Không có gì đặc biệt chú trọng về bí mật ấy… Và điều gì đã xảy ra ở Potter’s Field? Đó là nghĩa trang dành cho những người ăn xin, người nghèo, vô danh phải không?

Cooper lên mạng và tra thông tin một lúc. Anh báo lại rằng nghĩa trang thành phố dành cho những người nghèo khổ nằm ở đảo Hart, gần khu Bronx. Hòn đảo từng là một căn cứ quân sự, và nghĩa trang mới chỉ được mở ở đó không lâu trước khi Charles tới đó với nhiệm vụ bí mật của mình, mang theo khẩu Colt.

“Quân đội?” Rhyme hỏi, cau mày. Có điều gì đó nảy ra trong trí nhớ của anh. “Cho tôi xem những lá thư khác.”

Cooper làm việc đó.

“Nhìn này, sư đoàn của Charles tập trung ở đây. Tự hỏi liệu đó có phải là sự liên quan không. Có điều gì khác về cái nghĩa trang không?”

Cooper đọc. “Không. Chỉ có một hay hai bài thôi.”

Rhyme quét qua tấm bảng trắng. “Charles định làm gì nhỉ? Gallow Heights, Potters’ Field, Federick Douglass, những nhà lãnh đạo quyền dân sự, các nghị sĩ, các chính trị gia, Tu chính án số 14,… Cái gì gắn k chúng lại với nhau?” Sau một khoảng thời gian yên lặng dài lê thê nhà tội phạm học nói: “Hãy gọi cho một chuyên gia”.

“Ai còn tốt hơn cả anh nữa?”

“Ý tôi không phải là chuyên gia khoa học pháp y, Mel”. Rhyme nói. “Tôi đang nói về lịch sử. Có một vài chủ đề tôi không giỏi lắm.”


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.