Lá bài thứ XII
CHƯƠNG 26
“Chuyện là thế nào?”, Lincoln Rhyme hỏi. Anh đã lo lắng, nhưng trái ngược với nỗi sợ hãi trước sự biến mất của cô bé, vẫn không có một chút quở trách nào trong giọng nói.
Geneva đang ngồi trên một chiếc ghế gần xe lăn của Rhyme, ở tầng trệt của ngôi nhà. Sachs đứng bên cạnh cô bé, tay khoanh tròn trước ngực. Cô mới trở về với một chồng cao ngất những tài liệu mang từ kho lưu trữ của tổ chức Sanford, nơi cô đã có khám phá lớn về Potter’s Field. Nó nằm trên chiếc bàn gần Rhyme, bị quên lãng bởi tình huống mới phát sinh này.
Cô bé nhìn một cách bướng bỉnh vào mắt anh. “Cháu đã thuê ông ấy để đóng vai bác của cháu.”
“Thế còn bố mẹ cháu?”
“Cháu không có.”
“Cháu không…”
“Có ai”, cô bé nhắc lại qua hàm răng đang nghiến chặt.
“Nói tiếp đi”, Sachs nói một cách nhẹ nhàng.
Cô bé im lặng một lúc. Cuối cùng: “Khi cháu lên mười tuổi, cha cháu đã bỏ chúng cháu, mẹ cháu và cháu. Ông ấy chuyển tới Chicago với một người phụ nữ và họ lấy nhau, ông ấy đã có cho riêng mình một gia đình hoàn toàn mới. Trái tim cháu như vỡ nát thành nhiều mảnh – thực sự đau đớn. Nhưng tận sâu trong lòng, cháu không thực sự đổ lỗi cho ông ấy nhiều lắm. Cuộc sống của gia đình cháu là một đống lộn xộn. Mẹ cháu, bà ấy dính vào ma túy, không thể từ bỏ nó. Họ đã có những trận chiến kịch liệt – vâng, bà ấy đã động tay động chân. Cha cháu đã rất cố gắng để lôi kéo bà ấy trở lại với cuộc sống và bà ấy thì nổi đóa với ông ấy. Để trả tiền cho thứ mình cần bà ấy ăn trộm đồ từ các cửa hàng.” Geneva vẫn nhìn Rhyme chằm chằm khi nói: “Và bà ấy tới chỗ những người bạn gái của mình và họ có một vài người đàn ông ở đó – chú biết là gì rồi đấy. Cha cháu biết tất cả những chuyện đó. Cháu đoán là ông ấy đã chịu đựng điều đó lâu hết mức có thể và rồi đã bước đi”.
Cô lấy một hơi thật sâu rồi tiếp tục: “Rồi mẹ cháu đổ bệnh. Bà ấy dương tính với HIV nhưng không hề sử dụng thuốc và cuối cùng chết vì căn bệnh. Cháu đã sống với chị gái của bà ở Bronx một thời gian nhưng rồi sau đó bà ấy chuyển tới Alabama và bỏ lại cháu ở căn hộ của bà Lilly. Nhưng bà Lilly cũng không có tiền và tiếp tục bị đuổi khỏi nhà, chuyển sang sống với những người bạn, như bây giờ. Bà ấy không đủ khả năng để cho cháu sống cùng. Nên cháu đã nói chuyện với người quản lý tòa nhà mà mẹ cháu từng đến làm việc vài lần, chỉ là lau dọn. Ông ấy nói cháu có thể ở lại dưới tầng hầm – nếu trả tiền cho ông ấy. Cháu có một chiếc giường nhỏ ở dưới đó, một chiếc tủ, một cái lò vi sóng, và một cái giá sách. Cháu đã lấy địa chỉ của ông ấy làm địa chỉ hòm thư của mình.”
Bell nói: “Cháu có vẻ không hề thoải mái khi ở trong chỗ đó. Nó là của ai?”
“Một cặp vợ chồng đã nghỉ hưu. Họ sống ở đó nửa năm và tới nam Carolina vào mùa thu và mùa đông. Willy có chìa khóa dự phòng.” Cô bé thêm vào: “Cháu sẽ trả tiền cho hóa đơn điện, mua bia và những thứ mà Willy đã lấy để trả lại chỗ cũ”.
“Cháu không phải lo lắng về vấn đề đó.”
“Có, cháu có.” Cô bé nói một cách kiên quyết.
“Vậy ta đã nói chuyện với ai trước đó, nếu như đó không phải là mẹ cháu?”, Bell hỏi.
“Xin lỗi”, Geneva nói, thở dài. “Đó là Lakeesha. Cháu nhờ bạn ý giả vờ là mẹ cháu. Bạn ấy thực sự là một diễn viên giỏi.”
“Con bé đã hoàn toàn đánh lừa được ta.” Viên thanh tra cười méo xệch vì bị mắc lừa hoàn toàn.
“Vậy còn ngôn ngữ trong cách nói năng của cháu thì sao?” Rhyme hỏi. “Cháu thực sự giống như là con gái của một giáo sư.”
Cô bé chuyển ngay sang giọng điệu đường phố. “Đừng có nói năng như lũ vô gia cư mất dạy, ý ông là thế hả?” Một nụ cười tinh quái. “Cháu đã học tiếng Anh chuẩn từ khi mới bảy hay tám tuổi cơ.” Khuôn mặt cô bé trở nên buồn rầu. “Điều duy nhất tốt đẹp về cháu – ông ấy luôn muốn cháu đọc thật nhiều sách, ông ấy đã từng đọc cho cháu nghe một vài quyển.”
“Chúng ta có thể tìm ông ấy và…”
“Không!” Geneva nói với một giọng chói tai. “Cháu không muốn làm gì liên quan tới ông ấy nữa. Dù sao thì, ông ấy đã có những đứa con cho riêng mình rồi. Ông ấy không muốn làm gì liên quan đến cháu.”
“Và không một ai biết được là cháu không có gia đình sao?” Sachs hỏi.
“Tại sao họ phải biết? Cháu chưa bao giờ tìm đến trợ cấp xã hội hay lương thực miễn phí để không có một nhân viên xã hội nào tìm đến cháu. Cháu chưa bao giờ đăng ký các bữa ăn miễn phí ở trường bởi nó sẽ lật tẩy vỏ bọc của cháu. Cháu tự ký tên bố mẹ vào trong các giấy tờ của nhà trường khi cần chữ ký của họ. Và cháu có một hộp thư thoại đang sử dụng. Đó cũng là Keesh. Bạn ấy ghi âm lại thông tin thoại, giả vờ là mẹ cháu.”
“Và nhà trường không bao giờ nghi ngờ sao?”
“Đôi khi mọi người hỏi tại sao cháu không bao giờ có ai đến tham dự buổi họp giáo viên – phụ huynh, nhưng chẳng ai nghĩ gì về việc đó lắm bởi cháu luôn giành được điểm A. Không trợ cấp xã hội, điểm số tốt, không rắc rối với cảnh sát… Sẽ chẳng ai chú ý nếu như ta không có điều gì đó sai phạm.” Cô bé cười. “Chú biết quyển sách của Ralp Ellison chứ, Invisible Man? Không, không phải là bộ phim khoa học viễn tưởng ấy. Nó nói về người da đen ở Mỹ, nghĩa là phải vô hình. Chà, cháu là một cô gái vô hình.”
Nó thực sự hợp lý lúc này: quần áo cũ kỹ và chiếc đồng hồ đeo tay rẻ tiền, chẳng có chút nào là những thứ mà người cha mẹ giàu có hay đi du lịch mua cho cô con gái của mình. Một trường công, không phải trường tư. Bạn của cô bé, một cô gái có nhà cửa, gia đình – Keesh, không phải dạng gần gũi với con gái của một giáo sư đại học.
Rhyme gật đầu. “Chúng ta chưa bao giờ thực sự thấy cháu gọi điện cho bố mẹ ở Anh. Nhưng cháu đã gọi điện cho người đóng thế này hôm qua, sau những gì xảy ra ở bảo tàng, đúng không? Ông ta đã bao giờ từng giả vờ là bác cháu chưa?”
“Ông ấy nói đồng ý nếu cháu trả thêm tiền, ông ấy muốn cháu đến ở chỗ của ông ấy – nhưng đó không phải là một ý tưởng hay cho lắm. Chú hiểu cháu nói gì chứ? Bởi vậy cháu nói với ông ta sử dụng căn hộ 2-B của gia đình nhà Reynolds đang đi vắng. Cháu đã nhờ ông ấy rút tên họ ra khỏi hòm thư.”
“Ta chưa bao giờ cảm thấy ông ta là một người họ hàng ruột thịt của cháu”, Bell nói và Geneva đáp lại với một nụ cười chế giễu.
“Nếu như bố mẹ cháu không bao giờ xuất hiện, cháu định nói gì với chúng ta chứ?”
“Cháu không biết.” Giọng chùng xuống và chợt nhiên nhìn cô bé trông đầy tuyệt vọng và mất mát. Rồi định thần lại. “Cháu từng phải ứng phó với tất cả mọi thứ. Khi cháu đi lấy những bức thư của Charles ngày hôm qua?” Cô nhìn Bell, anh gật đầu. “Cháu đã phải lẻn qua lối cửa sau, và đi xuống tầng hầm. Chúng nằm ở đó.”
“Cháu có người thân nào ở đây không?”, Sachs hỏi. “Ai đó, ngoài bà cô của cháu.”
“Cháu chả có…” Ánh nhìn hoảng sợ trong đôi mắt của cô bé, lần đầu tiên Rhyme thấy. Và nguồn gốc của nó không phải là vì gã sát thủ giết mướn mà là việc nói năng ứng xử trở thành thứ tiếng với ngữ pháp đáng ghét[10]. Cô bé lắc đầu: “Cháu không có một ai cả”.
[10] Ở đây, câu đầu Geneva nói: “I don’t have no…” là sai ngữ pháp. Cô bé đã sửa lại thành: “I don’t have anybody.”
“Tại sao cháu không tới các Dịch vụ Xã hội?” Sellito hỏi. “Đó là lý do tại sao họ được thành lập.”
Bell thêm vào: “Cháu vất vả hơn bất cứ ai có thể đến đó”.
Cô bé cau mày và đôi mắt sẫm màu trở nên tối tăm hơn nữa. “Cháu không lấy thứ gì miễn phí cả.” Rồi lắc lắc đầu. “Hơn nữa, nhân viên xã hội có thể sẽ đến để kiểm tra mọi việc và biết được tình trạng của cháu. Cháu sẽ lại bị gửi xuống chỗ chị gái mẹ cháu ở Bama. Bà ấy sống ở một thị trấn bên ngoài Selma, có ba trăm người sống ở đó thôi. Chú có biết được cháu sẽ nhận được sự giáo dục như thế nào ở đó chứ? Hoặc là, cháu ở lại đây, và kết thúc trong một trường giáo dưỡng ở Brooklyn, sống trong một phòng với bốn cô gái gangster, những chiếc ti vi bật hip hop và BET[11] hai mươi tư giờ một ngày, bị lôi vào nhà thờ…” Cô rùng mình và lắc lắc đầu.
[11] Một giải thưởng hằng năm về hip hop.
“Đó là lý do cháu làm việc”, Rhyme nhìn vào bộ đồng phục.
“Đó là lý do cháu làm việc. Có người đưa cháu đến chỗ một người giúp cháu làm bằng lái xe giả. Theo đó, cháu mười tám tuổi.” Cô bé cười thành tiếng. “Cháu không nhìn vào đó, cháu biết. Nhưng cháu xin việc ở một nơi mà người quản lý là một một ông già da trắng. Ông ấy không có bằng chứng nào về việc tuổi bằng cách nhìn cháu. Và làm việc ở đấy suốt từ đó. Chưa bao giờ bỏ một ca làm nào hết. Cho đến ngày hôm nay.” Một tiếng thở dài. “Ông chủ của cháu sẽ tìm ra nguyên nhân, ông ấy sẽ phải sa thải cháu. Chán thật. Và cháu vừa mới mất một việc khác tuần trước.”
“Cháu làm hai công việc?”
Cô bé gật đầu. “Xóa các hình vẽ graffiti. Đó là sự thay đổi đang diễn ra ở Harlem. Các cô chú có thể thấy ở bất cứ đâu bây giờ. Một vài công ty bảo hiểm và bất động sản lớn sửa chữa các tòa nhà cũ và cho thuê với rất nhiều tiền. Họ thuê những đứa nhóc để làm sạch các bức tường. Họ trả rất nhiều tiền. Nhưng cháu đã bị đuổi việc.”
“Vì cháu không đủ tuổi?”, Sachs hỏi.
“Không. Bởi vì cháu nhìn thấy những người công nhân đó, có ba gã da trắng to lớn làm việc cho một công ty bất động sản. Họ quấy rối một cặp vợ chồng già đã sống ở tòa nhà từ rất lâu rồi. Cháu bảo họ dừng lại nếu không sẽ báo cảnh sát…” Cô bé nhún vai. “Họ đuổi việc cháu. Cháu đã gọi cho cảnh sát nhưng họ không quan tâm lắm… Quá nhiều để làm những việc tốt.”
“Và đó là lý do tại sao cháu không muốn cô cố vấn Barton giúp đỡ”, Bell nói.
“Cô ấy biết là cháu không có gia đình, và thế là, bùm một phát, cháu vào trong trường giáo dưỡng.” Cô bé rùng mình. “Cháu đã gần xong rồi! Cháu đáng lẽ đã có thể hoàn thành. Một năm rưỡi nữa thôi là cháu có thể biến mất. Có thể là ở Harvard hoặc Vassar. Rồi cái gã đó xuất hiện ở bảo tàng ngày hôm qua và phá hỏng mọi thứ.”
Geneva đứng dậy và bước tới bảng ghi các dữ liệu về Charles Singleton. Cô bé nhìn nó chăm chú. “Đó là lý do tại sao cháu đang viết về ông ấy. Cháu phải tìm ra sự thật là ông ấy vô tội. Cháu muốn ông ấy phải là một người đàng hoàng tốt bụng và là một người chồng, một người cha tốt. Những bức thư thật tuyệt đẹp. Ông ấy có thể viết ra thật hay những lời của mình. Ngay cả nét chữ của ông ấy cũng thật đẹp.” Cô nín thở thêm vào: “Và ông ấy là một anh hùng trong thời Nội chiến, dạy dỗ những đứa trẻ, cứu những em bé mồ côi từ những kẻ nổi dậy chống chế độ quân dịch. Sau cùng, bỗng nhiên cháu có một người thân trong gia đình tốt đẹp. Một người thông minh, biết những người nổi tiếng. Cháu muốn ông ấy trở thành một người mà cháu có thể ngưỡng mộ, khác với bố hay mẹ cháu”.
Luiz Martinez dừng lại ở ngưỡng cửa. “Anh ta đã kiểm tra. Đúng tên và địa chỉ, không tiền án tiền sự, chưa từng bị bắt.” Anh ta đã điều tra tên của người bác giả mạo. Rhyme và Bell không tin tưởng một ai lúc này nữa.
“Cháu cần phải ở một mình”, Sachs nói.
Im lặng một chút. “Cha đưa cháu đến nhà thờ vài lần, trước khi ông ấy bỏ đi. Cháu vẫn nhớ bài hát Phúc âm[12] này. Nó từng là bài hát yêu thích của chúng cháu. Tên nó là Aint got time to die. Đó là những gì giống với cuộc đời cháu. Cháu không có thời gian để cô đơn.”
[12] Một loại nhạc tôn giáo khởi nguồn từ các nhà thờ của người Mỹ gốc Phi.
Nhưng lúc này, Rhyme đã hiểu khá rõ Geneva. Cô bé đang thiếu thành thật. Anh nói: “Vậy là cháu có bí mật giống như người tổ tiên của mình. Ai biết những bí mật của cháu?”
“Keesh, chủ ngôi nhà, vợ ông ấy. Thế thôi.” Cô bé nói với Rhyme với một cái nhìn thách thức. “Chú định lật tẩy cháu phải không?”
“Cháu không thể sống một mình được”, Sachs nói.
“Cháu đã như thế hai năm rồi”, cô bé ngắt lời. “Cháu có sách vở, trường lớp. Cháu không cần bất cứ thứ gì khác nữa.”
“Nhưng…”
“Không. Nếu chú nói ra, nó sẽ phá hỏng mọi thứ.” Cô bé thêm vào: “Cháu xin đấy”. Tiếng nói lịm dần, như thể vô cùng khó khăn để thốt ra điều đó.
Im lặng một lúc. Sachs và Sellito nhìn Rhyme, người duy nhất trong căn phòng không phải trả lời trước các quy định và cấp trên. Anh nói: “Không cần phải đưa ra quyết định ngay lập tức. Chúng ta đang ngập đầu với việc truy bắt hung thủ rồi. Nhưng ta đang nghĩ rằng có lẽ cháu nên ở lại đây, không phải nơi nào khác nữa”. Anh nhìn Thom. “Ta nghĩ rằng chúng ta có thể tìm một phòng cho cháu trên lầu, đúng không?”
“Chắc chắn là có rồi.”
“Cháu muốn…”, cô bé bắt đầu.
Rhyme nói với một nụ cười: “Ta nghĩ lần này chúng ta sẽ cương quyết”.
“Nhưng công việc của cháu. Cháu không thể mất nó được.”
“Ta sẽ lo việc này.” Rhyme lấy số điện thoại từ cô bé và gọi điện cho ông chủ cửa hàng McDonald, giải thích chung chung về vụ tấn công và nói rằng Geneva sẽ không thể đến trong một vài ngày. Người quản lý nghe giọng có vẻ thực sự quan ngại và nói với anh rằng Geneva là nhân viên cẩn thận nhất mà họ có được có thể nghỉ chừng nào mình muốn và yên tâm rằng công việc sẽ chờ đợi đến khi cô bé quay trở lại.
“Cô ấy là nhân viên tốt nhất của chúng tôi”, tiếng người đàn ông nói qua chiếc loa ngoài. “Một cô bé tuổi mới lớn mà trách nhiệm còn hơn cả những người gấp đôi tuổi. Anh sẽ không hay thấy điều đó đâu.”
Rhyme và Geneva mỉm cười với nhau rồi anh tắt điện thoại.
Ngay sau đó, chuông cửa reo. Bell và Sachs lập tức đề cao cảnh giác, tay họ nhanh chóng đưa về vị trí vũ khí của mình. Rhyme nhận thấy rằng, Sellito vẫn còn hoảng sợ, và mặc dù nhìn xuống vũ khí của mình, anh ta vẫn không chạm vào nó. Những ngón tay của anh ta vẫn ở trên má, gãi nhè nhẹ, như thể động tác này yêu cầu một vị thần xuất hiện và xoa dịu trái tim đang khốn khổ của anh ta.
Thom xuất hiện ở ngưỡng cửa và nói với Bell: “Có cô Barton ở đây, đến từ trường học. Cô ấy mang đến một bản copy từ video an ninh”.
Cô bé lắc đầu trong hoảng sợ. “Không”, cô thì thầm.
“Đưa cô ấy vào đây”, Rhyme nói.
Một người phụ nữ Mỹ gốc Phi to lớn bước vào trong phòng, mặc một chiếc đầm màu tím. Bell giới thiệu. Cô ta gật đầu chào mọi ngưòi, và giống như những cố vấn mà Rhyme đã từng gặp, không có phản ứng gì với tình trạng của anh. Cô ta nói: “Chào, Geneva”.
Cô bé gật đầu. Khuôn mặt vẫn là một chiếc mặt nạ. Rhyme có thể thấy rằng cô bé đang nghĩ về sự đe dọa mà người phụ nữ này đại diện: miền quê Alabama hoặc một trại giáo dưỡng.
Barton tiếp tục: “Em thế nào rồi?”
“Ổn ạ, em cảm ơn cô.” Cô bé nói với sự tôn trọng, không giống với kiểu cách thường ngày.
“Chuyện này hẳn phải rất khó khăn với em”, người phụ nữ nói.
“Em đã khá hơn rồi.” Geneva giờ cố nở một nụ cười khiên cưỡng. Cô bé nhìn người phụ nữ một lần rồi nhìn sang chỗ khác.
Barton nói: “Tôi đã nói chuyện với hàng tá người về gã đàn ông ở gần sân trường ngày hôm qua. Chỉ hai hoặc ba người nhớ có thấy một ai đó. Họ không thể miêu tả kẻ đó, ngoại trừ việc hắn ta là người da màu, mặc một chiếc áo dã chiến màu xanh và đi đôi giày lao động cũ kỹ”.
“Điều này mới”, Rhyme nói. “Đôi giày.” Thom viết điều này lên bảng.
“Và đây là cuộn băng từ phòng an ninh của chúng tôi.” Cô ta đưa một cuộn băng ghi hình cho Cooper, anh bật nó lên.
Rhyme lăn chiếc xe tới gần màn hình và cảm thấy cổ căng ra khi nghiên cứu những hình ảnh.
Nó không giúp gì nhiều lắm. Chiếc camera được hướng chủ yếu vào sân trường, không phải các con phố và vỉa hè xung quanh. Trong phạm vi của nó có thể nhìn thấy vài hình ảnh lờ mờ của những người đi qua, nhưng không có gì nổi bật. Không có hi vọng rằng họ sẽ thu được nhiều thông tin, Rhyme ra lệnh cho Cooper gửi cuốn băng tới phòng thí nghiệm ở Queens để xem liệu nó có thể cải thiện được chất lượng hình ảnh hơn không. Anh điền vào bản CoC[13] và gói nó lại, gọi người đến lấy.
[13] Xác nhận lưu giữ bằng chứng hợp pháp.
Bell cảm ơn sự giúp đỡ của người phụ nữ.
“Bất cứ điều gì chúng tôi có thể làm được”, bà ta dừng lại và nhìn cô bé. “Nhưng ta thực sự cần phải nói chuyện với bố mẹ em, Geneva.”
“Bố mẹ em?”
Cô ta gật đầu một cách chậm rãi. “Ta phải nói là – ta đã nói chuyện với một vài sinh viên và giáo viên, thật lòng thì, hầu hết họ đều nói gia đình em không quan tâm lắm tới việc học hành của em. Thực tế, ta chưa thấy một ai thực sự gặp họ.”
“Nhưng điểm số của em rất tốt.”
“À, ta biết điều đó. Chúng ta thực sự hài lòng với việc học tập của em, Geneva. Nhưng trường học là học sinh và cha mẹ cùng phối hợp với nhau. Ta thực sự muốn nói chuyện với họ. Số điện thoại của họ là gì?”
Cô bé tê cứng lại.
Một sự im lặng ngột ngạt bao trùm.
Cuối cùng, Lincoln Rhyme phá vỡ nó. “Tôi sẽ nói với cô sự thật.”
Geneva cúi gằm xuống. Hai bàn tay cô nắm chặt lại.
Rhyme nói với Barton: “Tôi vừa mới ngắt điện thoại với bố cô bé”.
Tẩt cả những người khác trong phòng quay sang và nhìn anh chằm chằm.
“Họ đã về nhà chưa?”
“Không, họ sẽ không về một thời gian.”
“Không?”
“Tôi yêu cầu họ không về.”
“Anh làm thế sao? Tại sao?” Người phụ nữ cau mày.
“Đó là quyết định của tôi. Tôi làm thế để giữ an toàn cho Geneva. Ngài Roland Bell đây sẽ nói cho cô biết.” Anh nhìn về viên thanh tra đến từ Carolina, đang gật đầu, một hành động đáng tin cậy, tuy dường như không hiểu chuyện gì đang diễn ra. “Khi thiết lập các thông tin bảo vệ, đôi khi chúng tôi cần phải tách biệt những người chúng tôi bảo vệ với gia đình họ.”
“Tôi không biết điều đó.”
“Nếu không”, Rhyme tiếp tục, sửa lại: “Kẻ tấn công có thể lợi dụng người nhà của họ để kéo họ ra ngoài”.
Barton gật gù. “Hợp lý.”
“Như thế gọi là gì, Roland?” Rhyme nhìn viên thanh tra một lần nữa. Và tự trả lời: “Cách ly đối tượng ảnh hưởng, đúng không nhỉ?”
“IOD[14]”, Bell nói, gật đầu. “Đó là cách chúng tôi gọi phương pháp này. Một phương pháp vô cùng quan trọng.”
[14] Isolation of Dependants: Cách ly đối tượng ảnh hưởng.
“Chà, tôi rất vui được biết điều đó”, cô cố vấn nói. “Nhưng bác của cháu trông chừng cháu chứ, đúng không?”
Sellito nói: “Không. Chúng tôi cho rằng cách tốt nhất với Geneva là cô bé sẽ ở lại đây”.
“Chúng tôi cũng áp dụng phương pháp này với bác của cô bé nữa”, Bell nói. Lời nói dối nghe đặc biệt êm tai từ một cảnh sát với giọng nói rề rà đậm chất miền Nam. “Chúng tôi muốn giữ ông ấy ngoài tầm liên lụy.”
Barton chấp nhận tất cả những lời nói dối đó, Rhyme có thể thấy điều đó. Cô cố vấn nói với Geneva: “Chà, khi chuyện này kết thúc, hãy nói họ liên lạc với ta. Có vẻ như em đang xoay xở khá ổn. Nhưng xét về mặt tâm lý thì nó phải có những tác động không hay. Tất cả chúng ta sẽ ngồi chung với nhau và giải quyết một số vấn đề”. Cô ta nói thêm với một nụ cười: “Không có cái gì bị phá vỡ mà không thể được hàn gắn lại”.
Câu nói này hẳn phải được khắc trên bảng chức danh đặt ở bàn làm việc hoặc trên cốc cà phê ở văn phòng của cô ta.
“Được rồi”, Geneva nói một cách thận trọng.
“IOD.” Bell nhắc lại.
“Và cô ta sẽ làm gì?” Rhyme lẩm bẩm. “Bắt tôi phải ở lại sau giờ học à?” Rồi anh hất đầu cộc lốc về phía tấm bảng ghi bằng chứng. “Giờ chúng ta quay lại với công việc được chưa? Có một tên sát nhân ở ngoài kia. Và hắn có đồng bọn. Có kẻ thuê chúng. Nhớ điều đó chứ? Tôi muốn làm rõ chúng là ai một lúc nào đó trong cái thập kỷ này.”
Sachs bước tới cái bàn, bắt đầu sắp xếp các tập tài liệu và bản copy của những thứ mà William Ashberry đã cho cô mượn từ thư viện của tổ chức – cái “hiện trường nho nhỏ”. Cô nói: “Đây phần lớn là về Gallows Heights – bản đồ, hình vẽ, bài báo. Một vài thứ về Potter’s Field”.
Cô đưa từng tập tài liệu cho Cooper. Anh ghép lại rồi dán vào một vài bản vẽ và bản đồ của Gallows Heights, thứ Rhyme đang nhìn vào chằm chằm một cách cố ý khi Sachs nói với họ về những gì cô tìm ra về khu vực xung quanh. Rồi cô bước tới bản vẽ, chạm vào tòa nhà thương mại hai tầng. “Potter’s Field chính là ở đây. Phía tây phố 18.” Cô lướt qua vài tập tài liệu. “Có vẻ như nó khá tai tiếng, có rất nhiều kẻ xấu lảng vảng ở đây, những người như Jim Fisk, Boss Tweed và các nhà chính trị có liên quan tới bộ máy Tammany Hall.”
“Nhìn xem những hiện trường nho nhỏ giá trị như thế nào, Sachs? Em là một tài sản to lớn đầy những thông tin có giá trị.”
Cô quắc mắc nhìn anh, rồi nhấc lên một bản photocopy. “Đây là bài báo về vụ hỏa hoạn. Nó nói rằng cái đêm mà Potter’s Field cháy rụi, các nhân chứng đã nghe thấy tiếng nổ ở trong căn hầm và rồi, gần như là ngay lập tức, nơi này ngập chìm trong biển lửa. Bị nghi ngờ là có người phóng hỏa nhưng chưa có một ai bị bắt. Không có nạn nhân.”
“Charles đến đó để làm gì?” Rhyme trầm ngâm thành tiếng. “Ý ông ta là gì khi đề cập tới ‘công lý’? Và cái gì sẽ mãi mãi bị vùi lấp dưới bùn đất?”
Liệu có một manh mối, chút ít bằng chứng, một mẩu tài liệu nào có thể trả lời câu hỏi về kẻ muốn giết Geneva Settle?
Sellito lắc đầu. “Quá tệ là nó đã xảy ra một trăm bốn mươi năm trước. Dù là gì, thì nó cũng đã biến mất. Chúng ta sẽ không bao giờ biết được.”
Rhyme nhìn Sachs. Cô bắt gặp ánh mắt của anh. Rồi mỉm cười.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.